Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm

Khái niệm rủi ro

Trong lĩnh vực bảo hiểm, rủi ro là một trạng thái

trong đó có khả năng xẩy ra sự chệch hướng bất

lợi khỏi một kết quả được mong muốn mà người

ta kỳ vọng hay hy vọng đạt đượcCông cụ quản trị rủi ro

Kiểm soát rủi ro: Theo nghĩa rộng nhất, kiểm soát

rủi ro bao gồm những kỹ thuật được thiết kế để tối

thiếu hóa, với chi phí ít nhất có thể, những rủi ro mà

tổ chức phải đối mặt.

Tránh rủi ro, về mặt kỹ thuật, diễn ra khi người ta đưa ra

những quyết định để ngăn chặn một rủi ro ngay từ trước

khi nó hình thành. Tránh rủi ro được thực hiện khi tổ

chức từ chối chấp nhận rủi ro.

Giảm rủi ro bao gồm tất cả những kỹ thuật được thiết kế

nhằm giảm nguy cơ xẩy ra tổn thất hoặc giảm mức độ

nghiêm trọng tiềm năng của những tổn thất đã xẩy raCông cụ quản trị rủi ro

Tài trợ cho rủi ro: Tài trợ rủi ro bao gồm những kỹ

thuật tập trung vào những dàn xếp được thiết kế để

bảo đảm sự sẵn có các nguồn tài chính để đáp ứng

những thiệt hại đã thực sự xẩy ra.

Giữ lại rủi ro có lẽ là phương pháp phổ biến nhất để xử lý

rủi ro. Các cá nhân cũng như tổ chức đối diện với một số

lượng gần như bất tận các rủi ro mà đa số là không thể

làm gì để thay đổi chúng. Giữ lại rủi ro có thể là có ý

thức hoặc vô ý thức

Chuyển giao rủi ro có thể được thực hiện theo nhiều cách

khác nhau. Cách chủ yếu là mua các hợp đồng bảo hiểm.

Một ví dụ khác của việc chuyển giao rủi ro là quá trình

rào chắn (hedging), theo đó một cá nhân bảo vệ mình

trước rủi ro thay đổi giá cả của một tài sản, bằng cách

mua hoặc bán một tài sản khác mà giá của nó thay đổi

theo một hướng ngược lạ

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 1

Trang 1

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 2

Trang 2

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 3

Trang 3

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 4

Trang 4

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 5

Trang 5

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 6

Trang 6

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 7

Trang 7

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 8

Trang 8

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 9

Trang 9

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 40 trang baonam 6840
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm

Bài giảng Thị trường tài chính và định chế tài chính - Chương 17: Công ty bảo hiểm
Chương 17: 
Công ty bảo hiểm
Khái niệm rủi ro
Trong lĩnh vực bảo hiểm, rủi ro là một trạng thái 
trong đó có khả năng xẩy ra sự chệch hướng bất 
lợi khỏi một kết quả được mong muốn mà người 
ta kỳ vọng hay hy vọng đạt được
Công cụ quản trị rủi ro
Kiểm soát rủi ro: Theo nghĩa rộng nhất, kiểm soát 
rủi ro bao gồm những kỹ thuật được thiết kế để tối 
thiếu hóa, với chi phí ít nhất có thể, những rủi ro mà 
tổ chức phải đối mặt. 
Tránh rủi ro, về mặt kỹ thuật, diễn ra khi người ta đưa ra 
những quyết định để ngăn chặn một rủi ro ngay từ trước 
khi nó hình thành. Tránh rủi ro được thực hiện khi tổ 
chức từ chối chấp nhận rủi ro. 
Giảm rủi ro bao gồm tất cả những kỹ thuật được thiết kế 
nhằm giảm nguy cơ xẩy ra tổn thất hoặc giảm mức độ 
nghiêm trọng tiềm năng của những tổn thất đã xẩy ra 
Công cụ quản trị rủi ro
Tài trợ cho rủi ro: Tài trợ rủi ro bao gồm những kỹ 
thuật tập trung vào những dàn xếp được thiết kế để 
bảo đảm sự sẵn có các nguồn tài chính để đáp ứng 
những thiệt hại đã thực sự xẩy ra. 
Giữ lại rủi ro có lẽ là phương pháp phổ biến nhất để xử lý 
rủi ro. Các cá nhân cũng như tổ chức đối diện với một số 
lượng gần như bất tận các rủi ro mà đa số là không thể 
làm gì để thay đổi chúng. Giữ lại rủi ro có thể là có ý 
thức hoặc vô ý thức 
Chuyển giao rủi ro có thể được thực hiện theo nhiều cách 
khác nhau. Cách chủ yếu là mua các hợp đồng bảo hiểm. 
Một ví dụ khác của việc chuyển giao rủi ro là quá trình 
rào chắn (hedging), theo đó một cá nhân bảo vệ mình 
trước rủi ro thay đổi giá cả của một tài sản, bằng cách 
mua hoặc bán một tài sản khác mà giá của nó thay đổi 
theo một hướng ngược lại 
Bản chất và chức năng của bảo hiểm 
Ở khía cạnh đơn giản nhất của nó, bảo hiểm có 
hai đặc trưng cơ bản:
Chuyển dịch rủi ro từ một cá nhân tới một nhóm
Chia sẻ tổn thất trên cơ sở tương đối bình đẳng giữa 
tất cả các thành viên của nhóm.
Khó khăn khi thực hiện bảo hiểm tự nguyện theo 
nhóm: một số thành viên trong nhóm có thể từ 
chối đóng góp để bù đắp tổn thất vào thời điểm 
xẩy ra tổn thất
Bản chất và chức năng của bảo hiểm
Định nghĩa bảo hiểm từ quan điểm của cá nhân: 
Bảo hiểm là một công cụ kinh tế nhờ đó cá nhân 
trả một khoản chi phí nhỏ xác định (phí) để thay 
thế cho một tổn thất tài chính lớn
Định nghĩa bảo hiểm từ quan điểm xã hội: Bảo 
hiểm là một công cụ kinh tế nhằm giảm thiểu và 
xóa bỏ rủi ro thông qua quá trình kết hợp một số 
lượng đủ lớn những người có nguy cơ rủi ro 
giống nhau vào cùng một nhóm, làm cho tổn thất 
trở nên có thể dự báo được cho cả nhóm. 
Công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm thực hiện hoạt động kinh doanh 
trong đó chấp nhận rủi ro thay cho khách hàng để 
đổi lấy phí bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm tạo lợi nhuận bằng cách thu phí 
lớn hơn nghĩa vụ dự tính. Công ty phân tán rủi ro 
giữa nhiều hợp đồng bảo hiểm.
Khách hàng mua bảo hiểm do phần lớn mọi người 
không ưa thích rủi ro: Họ thà đóng một mức phí bảo 
hiểm nhất định hơn là chấp nhận tổn thất lớn. Bằng 
cách mua bảo hiểm, họ có thể biết chắc chắn khối 
lượng của cải mình có (= của cải hiện có – p í bảo 
hiểm).
Những yếu tố của rủi ro có thể BH
Mặc dù về lý thuyết thì tất cả những khả năng xẩy ra 
tổn thất đều có thể được bảo hiểm, song một số rủi 
ro sẽ không thể bảo hiểm được với một mức giá hợp 
lý. Một đối tượng được coi là có thể bảo hiểm phải 
mang những đặc trưng sau:
Phải có một số lượng đủ lớn các đơn vị có rủi ro giống 
nhau để tạo ra khả năng dự đoán được tổn thất một cách 
hợp lý.
Những yếu tố của rủi ro có thể BH
Tổn thất do rủi ro tạo ra phải là xác định (khó làm 
giả) và có thể đo lường về mặt tài chính.
Tổn thất phải mang tính chất ngẫu nhiên và không 
may, tức là có thể xẩy ra và có thể không xẩy ra.
Tổn thất không mang tính thảm họa trên diện rộng.
Các hoạt động của công ty bảo hiểm
Xác định mức giá bảo hiểm (insurance rate) 
Bán hàng và marketing
Phân loại rủi ro và lựa chọn khách hàng
Đánh giá và thanh toán tổn thất
Đầu tư
Hoạt động khác
Xác định mức phí bảo hiểm
Giá bảo hiểm là mức giá trên đơn vị bảo vệ, và cần 
được phân biệt với một mức phí (premium) được 
xác định bằng cách nhân mức giá với số đơn vị bảo 
vệ đã mua. Đơn vị bảo vệ theo đó một mức giá được 
áp vào là khác nhau giữa các dòng bảo hiểm khác 
nhau. Ví dụ trong bảo hiểm nhân thọ, giá được tính 
cho 1000$ bảo vệ
Xác định mức phí bảo hiểm
Thu từ phí bảo hiểm phải đủ để trang trải các 
khoản tổn thất và chi phí. Mức giá gộp lại bao 
gồm hai phần:
Mức phí thuần được xác định bằng cách chia khoản 
tổn thất dự tính của tất cả hợp đồng phân bổ giữa các 
hợp đồng đó
Các khoản chi phí cần thiết cho việc duy trì hoạt động 
của công ty bảo hiểm
Bán hàng và marketing
Phòng bán hàng và marketing chịu trách nhiệm:
Lựa chọn và bổ nhiệm các đại lý hay các đại diện
được trả lương của công ty - những người chịu trách
nhiệm bán hợp đồng bảo hiểm
Trợ giúp việc bán hàng trong các vấn đề kỹ thuật
Giám sát những nỗ lực bán hàng
Phân loại rủi ro và lựa chọn KH
Tiến hành chọn lọc từ những đơn xin mua bảo hiểm 
để tránh sự lựa chọn nghịch bất lợi cho công ty 
Mục tiêu của bảo lãnh không phải là lựa chọn những 
đối tượng có mức độ rủi ro thấp sao cho không xẩy 
ra tổn thất, mà là tránh một con số mất cân đối 
những trường hợp rủi ro cao và một số trường hợp 
rủi ro quá cao, bằng cách đó làm cho tổn thất thực tế 
xấp xỉ với mức tổn thất kỳ vọng. Tỷ lệ giữa những 
người có rủi ro thấp và những người có rủi ro cao 
trong nhóm được bảo hiểm phải tương đương với tỷ 
lệ thu được từ thống kê. 
Đánh giá và thanh toán tổn thất
Công ty bảo hiểm phải đảm bảo trả tiền cho những
yêu cầu bảo hiểm một cách nhanh chóng và hợp lý
nhưng cũng phải tránh những đòi hỏi không đúng
đắn và việc thanh toán quá mức cho các yêu cầu bảo
hiểm. Quá trình thanh toán vì thế bao gồm bốn bước
chính:
Bên được bảo hiểm thông báo về tổn thất đã xẩy ra
Điều tra để xác định có thực sự xẩy ra tổn thất không, tổn
thất đó có thuộc diện được thanh toán theo hợp đồng hay
không và khối lượng tổn thất là bao nhiêu
Cung cấp bằng chứng cho tổn thất
Thanh toán hoặc từ chối.
Đầu tư
Kết quả của quá trình hoạt động của công ty bảo 
hiểm là họ tích lũy được một khối lượng tiền dùng 
để thanh toán cho những đòi hỏi về bảo hiểm trong 
tương lai. Phòng tài chính trong công ty bảo hiểm 
chịu trách nhiệm đầu tư số tiền đó một cách hợp lý.
Vì một phần trong quỹ được đầu tư phải được giành 
để đáp ứng những đòi hỏi thanh toán trong tương lai 
nên yêu cầu đầu tiên đối với các khoản đầu tư của 
công ty bảo hiểm là sự an toàn của vốn gốc. 
Lợi nhuận kiếm được trên các khoản đầu tư là một 
biến số quan trọng trong quá trình định giá
Các hoạt động khác
Để đảm bảo sự thành công trong hoạt động của
công ty bảo hiểm, công ty còn phải vận hành
các hoạt động pháp lý, kế toán và kỹ thuật. Tất
cả những chức năng này đều mang những đặc
trưng riêng biệt của một lĩnh vực chuyên sâu
đặc thù.
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho khách 
hàng bảo vệ trước rủi ro bị mất mát thu nhập do 
chết, thương tật hoặc hưu trí
Luật số lớn: Công ty bảo hiểm nhân thọ tính toán 
phí bảo hiểm trên cơ sở dự tính nghĩa vụ căn cứ 
vào dự đoán về tuổi thọ trung bình hoặc xác suất 
một người bị tàn tật, bị chết. Việc dự đoán những 
giá trị này cho một người là rất khó. Tuy nhiên, 
theo luật số lớn, nếu có nhiều người được bảo 
hiểm thì xác suất xảy ra thiệt hại phân bố chuẩn 
và có thể dự đoán được một cách chính xác
Ví dụ về tính phí bảo hiểm
 Giả sử một hãng bảo hiểm nhân thọ có 100000 chủ hợp đồng bảo 
hiểm, mỗi người 40 tuổi và có một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 1 
triệu $. 
 Xác định số lượng tử vong dự tính trong năm nay: Khoa học định 
phí đã tạo ra những bảng tính sẵn, dự đoán tỷ lệ chết dự tính cho 
những người 40 tuổi là 4 trên 1000 nên:
Số lượng chết dự tính = số lượng chủ hợp đồng trong độ tuổi × tỷ lệ 
chết dự tính = 100.000 × 4 /1000 = 400
Số tiền yêu cầu thanh toán dự tính = Số chết dự tính × Số tiền được 
hứa hẹn trên hợp đồng = 400 × 1.000.000 = 400.000.000
 Công ty dự tính thu được lợi tức đầu tư 8% trong năm nên phí 
thuần trên 1 hợp đồng: 
[400.000.000/(1 + 0,08)]/100.000 = 370.400.000/100.000 = 3704 
 Giả sử cần tới 2,6 triệu $ để phục vụ nhu cầu bảo hiểm của các 
chủ hợp đồng trong năm nay thì phí gộp là:
Mức phí gộp = (370.400.000+ 2.600.000)/100000 = 3730 
Các loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm có thời hạn (bảo hiểm thuần túy khi qua 
đời): Thanh toán bảo hiểm nếu người được bảo hiểm 
qua đời trong thời hạn của hợp đồng. Loại bảo hiểm 
này không có tiền tích lũy, không mang yếu tố đầu 
tư. 
Bảo hiểm trọn đời (BH/đầu tư): Thanh toán bảo 
hiểm nếu người được bảo hiểm qua đời đồng thời 
tích lũy một khoản tiền mà người được bảo hiểm có 
thể vay và được rút ra khi kết thúc hợp đồng hoặc 
khi anh ta lựa chọn chấm dứt hợp đồng. Lãi suất của 
khoản tiền vay được quy định rõ trong hợp đồng
Các loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm toàn diện (bảo hiểm nhân thọ phổ thông): 
Kết hợp lợi ích của bảo hiểm có thời hạn và bảo 
hiểm trọn đời nhưng khoản tiền tích lũy được đầu tư 
để thu lợi tức cao hơn so với trường hợp bảo hiểm 
trọn đời. Ưu điểm của loại hợp đồng bảo hiểm này 
là thuế trên lợi tức được hoãn cho đến ngày rút tiền.
Niên kim: Thanh toán cho người thụ hưởng một số 
tiền xác định hàng năm cho đến khi chết. Hợp đồng 
này giúp bảo hiểm rủi ro “sống”, nghĩa là giúp cho 
người về hưu tránh khả năng tiêu hết quỹ hưu trí 
trước khi họ qua đời.
Các loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
 Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể thay đổi là một hợp đồng bảo 
hiểm cung cấp một lợi ích khi qua đời, lợi ích đó phụ thuộc vào 
giá trị thị trường của danh mục đầu tư của người được bảo hiểm 
tại thời điểm chết. Tuy nhiên, công ty bảo hiểm thường đảm bảo 
một lợi ích tối thiểu khi chủ hợp đồng chết, bất kể giá trị thị 
trường của danh mục đầu tư là bao nhiêu. 
 Các hợp đồng bảo hiểm đầu tư thuần tuý (GIC) là một sản phẩm 
đầu tư thuần tuý. Công ty bảo hiểm chấp nhận sẽ trả vốn gốc và 
một khoản lãi tín dụng hàng năm được xác định trước cho suốt 
khoảng thời gian tồn tại của khoản đầu tư này, tất cả được thanh 
toán vào ngày đáo hạn. Công ty bảo hiểm bảo đảm phần lãi suất 
tín dụng mà không bảo đảm phần vốn gốc. Việc hoàn trả vốn gốc 
tuỳ thuộc vào khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của công ty. GIC 
thực chất là một trái phiếu không trả lãi định kỳ được phát hành 
bởi một công ty bảo hiểm nhân thọ 
Đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ
Đầu tư vào các chứng khoán Kho bạc, các trái phiếu 
đô thị và trái phiếu nước ngoài để vừa đảm bảo an 
toàn và tính thanh khoản, đồng thời cũng tăng thêm 
lợi nhuận.
Các chứng khoán công ty là tài sản lớn nhất của các 
công ty bảo hiểm nhân thọ. Họ thường nắm giữ một 
hỗn hợp các trái phiếu trung và dài hạn phục vụ các 
nhu cầu về thanh khoản và lợi nhuận.
Đầu tư của công ty bảo hiểm nhân 
thọ
Các công ty bảo hiểm cũng đầu tư vào các cổ 
phiếu công ty, các khoản vay cầm cố, bất động 
sản, cho vay mặc dù tỷ lệ cổ phiếu được nắm giữ 
thường nhỏ hơn nhiều so với trái phiếu.
Rủi ro của công ty BH nhân thọ
Rủi ro lãi suất. Vì các công ty bảo hiểm nhân thọ 
có một khối lượng lớn các chứng khoán dài hạn 
có lãi suất cố định, nên giá trị thị trường của các 
danh mục tài sản có thể rất nhạy cảm với những 
biến động lãi suất. 
Phòng chống rủi ro lãi suất: giảm thời hạn bình 
quân trên các chứng khoán, đầu tư vào những tài 
sản dài hạn chào lãi suất thả nổi, như các khoản 
vay cầm cố thương mại, sử dụng các hợp đồng 
tương lai và swap lãi suất 
Rủi ro của công ty BH nhân thọ
Rủi ro tín dụng. Trái phiếu công ty, khoản vay cầm 
cố, các chứng khoán chính phủ và bất động sản được 
nắm giữ trong danh mục tài sản của các công ty bảo 
hiểm đều chịu rủi ro tín dụng. Để đối phó với loại rủi 
ro này, một số công ty thường chỉ đầu tư vào những 
chứng khoán có xếp hạng tín nhiệm cao, đa dạng hóa 
các nhà phát hành chứng khoán Tuy nhiên cũng có 
những công ty bảo hiểm khác đầu tư mạnh vào các 
tài sản rủi ro. 
Rủi ro thị trường. Giá trị của các danh mục cổ phiếu, 
hay bất động sản mà công ty BH nắm giữ bị suy giảm 
khi nền kinh tế suy giảm. Những tổn thất đó rất có 
thể khiến các công ty BH mất khả năng thanh toán.
Rủi ro của công ty BH nhân thọ
Rủi ro thanh khoản. Tần suất cao của những đòi hỏi 
thanh toán bảo hiểm vào cùng một thời điểm có thể 
buộc một công ty phải thanh lý tài sản vào lúc mà 
giá trị thị trường đang thấp. Tuy thế những đòi hỏi 
về thanh toán bảo hiểm do có sự kiện chết ít khi xẩy 
ra đồng thời. Vì thế các công ty bảo hiểm nhân thọ 
có thể giảm nguy cơ chịu rủi ro này của họ bằng 
cách đa dạng hóa độ tuổi của cơ sở khách hàng của 
họ. Nếu cơ sở khách hàng này trở nên không cân đối 
và tập trung mạnh vào nhóm tuổi cao hơn, thì các 
công ty bảo hiểm nhân thọ cần tăng tỷ trọng tài sản 
thanh khoản để sẵn dàng đáp ứng tần suất cao hơn 
của các nhu cầu thanh toán bảo hiểm. 
Quản trị danh mục tài sản
Công ty bảo hiểm nhân thọ điều chỉnh danh mục tài 
sản của mình để đạt được yêu cầu về lợi nhuận và 
đối phó với những thay đổi trong các yếu tố tác 
động tới rủi ro và lợi suất. Nói chung, các công ty 
bảo hiểm nhân thọ muốn kiếm được một mức lợi 
suất hợp lý trong khi vẫn duy trì được rủi ro của họ 
ở mức có thể chấp nhận. 
Để ứng phó với các dạng rủi ro đang tồn tại, các 
công ty BHNT cố gắng cân đối danh mục đầu tư sao 
cho bất kỳ biến động bất lợi nào trong giá trị thị 
trường của một số tài sản sẽ được bù đắp bởi những 
biến động có lợi ở một số tài sản khác. VD: nếu dự 
tính nền KT suy yếu, họ có thể giảm bớt phần cổ 
phiếu công ty và bất động sản đang nắm giữ. 
Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn
Cung cấp bảo hiểm cho những rủi ro sau:
Mất mát, hư hỏng hay hủy hoại tài sản.
Mất hoặc giảm khả năng tạo ra thu nhập.
Những đòi hỏi bồi thường cho bên thứ ba 
cho những hư hại được xem là do bất cẩn.
Thiệt hại do bị thương hoặc chết do tai nạn 
nghề nghiệp
Đặc điểm của công ty BH TS và TN
Hợp đồng bảo hiểm thường là ngắn hạn, từ 
một năm trở xuống.
Các công ty này bảo hiểm để chống lại nhiều 
loại rủi ro hơn so với công ty bảo hiểm nhân 
thọ.
Rất khó để dự tính nghĩa vụ mà công ty phải 
trả nên những công ty này nắm giữ nhiều tài 
sản thanh khoản hơn các công ty bảo hiểm 
nhân thọ.
Tính phí BH của công ty BHTS và TN
 Chi trả tổn thất trên các hợp đồng bảo hiểm: Dự đoán chi phí này phụ 
thuộc vào một số đặc trưng của các sự cố được bảo hiểm: 
 Tài sản hay trách nhiệm: Mức thiệt hại của những hợp đồng về tài sản 
thường dễ dự đoán hơn so với các hợp đồng trách nhiệm.
 Tính nghiêm trọng hay tần suất: Nói chung, tỷ lệ thiệt hại đối với 
những loại hợp đồng có mức độ nghiêm trọng thấp nhưng tần suất cao 
(bảo hiểm cháy, ô tô) thường dễ dự đoán hơn (áp dụng luật số lớn) 
so với những loại hợp đồng có mức độ nghiêm trọng cao nhưng tần 
suất thấp (động đất, bão, hay bảo lãnh tài chính). 
 Thời điểm trước hay sau khi bán hợp đồng bảo hiểm: Một số khoản 
thanh toán bảo hiểm trách nhiệm sự kiện được bảo hiểm xẩy ra trong 
giai đoạn hợp đồng có hiệu lực, nhưng việc nộp đơn xin bảo hiểm lại 
được thực hiện sau đó mấy năm nên khó dự đoán khoản chi trả
 Lạm phát sản phẩm hay lạm phát xã hội. Tỷ lệ tổn thất trên các hợp 
đồng bảo hiểm tài sản của PC bị tác động xấu của các mức gia tăng 
lạm phát ngoài dự tính 
Tính phí BH của công ty BHTS và TN
Các loại chi phí khác
Chi phí đánh giá tổn thất (LAE)
Hoa hồng cho các hãng môi giới bảo hiểm và các đại 
lý bán và các khoản chi quản lý công tykhác
Lợi suất đầu tư 
Chi phí và lợi nhuận
Hệ số kết hợp sau cổ tức = Hệ số tổn thất + Hệ số 
LAE và các chi phí khác + Hệ số cổ tức (trả cho 
chủ hợp đồng BH)
Hệ số hoạt động = Hệ số kết hợp sau cổ tức - Lợi 
suất đầu tư
Khả năng thu lợi nhuận tổng thể = 1 - Hệ số hoạt 
động
(Các hệ số này tính theo tỷ lệ trên tổng phí thu 
được)
Rủi ro của công ty BH TS và TN
Rủi ro tổn thất khi các sự kiện bảo hiểm phát sinh
Rủi ro địa lý phát sinh khi một công ty bảo hiểm 
có những hợp đồng trong khuôn khổ những khu 
vực địa lý xác định. Nếu một tai họa nào đó xảy 
ra trong khu vực đó, ví dụ như bão lụt hay động 
đất, thì khả năng phải thực hiện nghĩa vụ tăng 
lên. 
Rủi ro pháp lý về định giá phát sinh khi các cơ 
quan quản lý hạn chế tỷ lệ phí bảo hiểm mà công 
ty được phép đòi 
Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức 
trong BH
Lựa chọn nghịch: Xảy ra khi các cá nhân có nhiều 
khả năng được lợi nhất từ hợp đồng bảo hiểm là 
những người tích cực tìm kiếm hợp đồng nhất và do 
đó cũng có nhiều khả năng được chấp nhận nhất. Vì 
vậy công ty bảo hiểm phải thu thập thông tin, lựa 
chọn các hợp đồng bảo hiểm và định giá thích hợp.
Rủi ro đạo đức: Xẩy ra khi người được BH không áp 
dụng những biện pháp phòng ngừa thích hợp để 
tránh thiệt hại bởi thiệt hại đã được trang trải bằng 
BH. Cách chống rủi ro đạo đức là đòi hỏi khoản 
khấu trừ, yêu cầu người được BH phòng ngừa rủi ro.
Quỹ hưu trí
• Quỹ hưu trí là định chế tài chính bảo 
vệ các cá nhân và gia đình trước sự 
mất mát thu nhập khi về hưu bằng 
cách cho phép người lao động dành 
riêng và đầu tư một phần thu nhập 
hiện thời của họ
Chương trình phúc lợi xác định
Chương trình phúc lợi xác định: Theo loại 
chương trình này, người tài trợ chương 
trình hứa hẹn trả cho người lao động của 
mình một khoản phúc lợi xác định khi họ 
về hưu. Khoản tiền chi trả thường được 
xác định bằng bằng một công thức có sử 
dụng số năm lao động và mức tiền lương 
cuối cùng của người lao động. Người sử 
dụng phải đảm bảo cung cấp lượng quỹ 
đủ để thực hiện các khoản thanh toán đã 
thỏa thuận
Chương trình hưu trí đóng góp xác 
định
Chương trình quy định số tiền sẽ được đóng góp vào 
quỹ, phúc lợi hưu trí hoàn toàn phụ thuộc vào thu 
nhập của quỹ. Phần lớn khoản đóng góp cho quỹ là 
từ người chủ lao động nhưng trong một số trường 
hợp người lao động cũng đóng góp.
• Quỹ thu được sẽ được ủy thác cho một công ty bảo hiểm 
hoặc giám đốc quỹ tiến hành đầu tư. Người lao động có 
quyền quyết định cách thức đầu tư.
• Quỹ này đang ngày càng trở nên phổ biến vì những ưu 
điểm như giảm bớt gánh nặng cho ông chủ, giúp người 
lao động đa dạng hóa rủi ro và quỹ được quản lý bởi các 
nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Quỹ hưu trí của nhà nước và của tư 
nhân
• Quỹ hưu trí của nhà nước: Được bảo trợ bởi một cơ 
quan chính phủ. Hầu hết quỹ hưu trí của nhà nước 
được thiết kế theo hệ thống “pay-as-you-go”: tiền mà 
người lao động hiện nay đóng góp được dùng để trả 
cho những người đang nghỉ hưu. Nhược điểm: Nhiều 
người lao động lo ngại quỹ sẽ không có khả năng chi 
trả khi họ đến tuổi về hưu.
• Quỹ hưu trí tư nhân: Được hỗ trợ bởi chủ lao động, 
các nhóm hoặc các cá nhân. Số lượng các quỹ này tăng 
nhanh chóng do lo ngại về khả năng chi trả của quỹ 
hưu trí nhà nước. 
Chiến lược đầu tư của quỹ hưu trí
• Có nhu cầu hạn chế về thanh khoản do dòng tiền 
vào và ra tương đối dễ dự đoán
• Đầu tư nhiều vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động 
sản và nắm giữ các tài sản này lâu dài
• Thu nhập lãi và lợi vốn được miễn thuế
• Tuy nhiên, hoạt động đầu tư thường bị quản lý 
chặt chẽ

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_thi_truong_tai_chinh_va_dinh_che_tai_chinh_chuong.pdf