Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật

Mục tiêu

• Giúp học viên có kiến thức cơ bản nhất về sự ra đời và bản chất của pháp luật.

• Trang bị cho học viên kiến thức về kiểu pháp luật và hình thức pháp luật.

• Giúp học viên hiểu được mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 1

Trang 1

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 2

Trang 2

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 3

Trang 3

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 4

Trang 4

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 5

Trang 5

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 6

Trang 6

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 7

Trang 7

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 8

Trang 8

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 9

Trang 9

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 18 trang Trúc Khang 12/01/2024 2420
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật

Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Lý luận về pháp luật
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
 25 
Nội dung 
• Nguồn gốc và đặc điểm của pháp luật. 
• Bản chất của pháp luật. 
• Kiểu pháp luật. 
• Hình thức pháp luật. 
Mục tiêu Hướng dẫn học 
• Giúp học viên có kiến thức cơ bản nhất về 
sự ra đời và bản chất của pháp luật. 
• Trang bị cho học viên kiến thức về kiểu 
pháp luật và hình thức pháp luật. 
• Giúp học viên hiểu được mối quan hệ 
giữa nhà nước và pháp luật. 
Thời lượng học
 • 05 tiết học 
Để học tốt bài này, học viên cần: 
• Tham dự đầy đủ các buổi học. 
• Tích cực thảo luận trong quá trình học tập. 
• Đọc các tài liệu sau: 
o Giáo trình pháp luật đại cương của 
chương trình TOPICA. 
o Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 
năm 2001). 
o Giáo trình Lý luận nhà nước và 
pháp luật, Đại học Luật Hà Nội. 
BÀI 3: LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
26 
Hình minh họa 
TẠI SAO LẠI GỌI LÀ LUẬT MUỜNG HAI BẢNG? 
Luật La Mã là pháp luật thành văn của nhà nước La Mã cổ đại, nhà nước chủ nô 
của hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ. Đạo luật đầu tiên là “Luật mười hai 
bảng” (Loi des douze tables) được ghi vào năm 456 trước Công nguyên trên 12 tấm 
bảng bằng đồng. Luật La Mã thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô, chủ yếu là bảo vệ 
lợi ích cho giai cấp thống trị, trấn áp giai cấp nô lệ, nhưng mặt khác cũng có những 
quy định quan trọng điều chỉnh các quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ giai 
cấp thống trị với nhau. Vì vậy Luật La Mã đã có rất nhiều khái niệm, chế định, đặc 
biệt là trong lĩnh vực luật dân sự cho đến nay vẫn phát huy được giá trị trong khoa 
học luật dân sự hiệp định, như khái niệm về quyền sở hữu, vật quyền, hợp đồng, về 
hôn nhân – gia đình, thừa kế Theo Enghen, Luật La Mã thể hiện về mặt pháp lí 
có tính chất kinh điển về điều kiện và xung đột xã hội trong đó có sự ngự trị của 
chế độ tư hữu thuần túy mà sau này các văn bản pháp luật khó có thể phủ nhận giá 
trị của nó. Lí luận pháp luật dân sự nói chung và nhất là luật dân sự của các nước tư 
sản trên thực tế đã dựa rất nhiều vào kết quả nghiên cứu sáng tạo của các luật gia 
La Mã cổ đại. Ví dụ như các bộ luật dân sự hiện hành của Cộng hòa Pháp và nhiều 
nước khác trong hệ thống luật germano romain Luật La Mã cổ cũng để lại những 
nguyên tắc pháp quyền có giá trị phổ biến trên thế giới hiện nay như: “Các đức tính 
của luật pháp là truyền lệnh, cấm đoán, cho phép, trừng phạt” (legis virtus haec est 
imperare, vetare, perimttere, punire); “Không ai có thể làm quan tòa xử vụ kiện của 
mình” (nemo esse judex in sua causa); “Không có hình phạt nào không có luật” 
(nulla poena sine lege) để nói về nguyên tắc không ai bị phạt nếu không phạm luật, 
hoặc tòa án chỉ tuyên phạt nếu có luật trừng trị; “Không có tội phạm nào mà không 
do luật định” (nullum crimen sine lege; hoặc nullum dilictum sine lege) 
 Xem tại trang web: 
Như vậy, pháp luật đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Vấn đề đặt ra là 
pháp luật đã ra đời như thế nào, mang bản chất gì và có thể được tìm thấy ở đâu (ở các 
tấm bảng đồng, truyền miệng hay các quy định thành văn)? Bài học này sẽ nghiên cứu 
các vấn đề nói trên. 
3.1. Nguồn gốc và đặc điểm của pháp luật 
3.1.1. Sự ra đời của pháp luật 
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng luôn đi liền với 
nhau. Nói cách khác, nếu điều kiện để Nhà nước ra đời 
là có sự phân chia giai cấp và xuất hiện chế độ tư hữu 
trong xã hội thì đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra 
đời của pháp luật. Xã hội loài người xuất hiện tất yếu 
phải có các quy phạm xã hội để điều chỉnh mối quan hệ 
giữa con người với con người. Trong xã hội cộng sản 
nguyên thủy những quy phạm xã hội này tồn tại dưới dạng 
các tập quán, thói quen hoặc các tín điều tôn giáo. Những 
tập quán này thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng và 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
27 
mọi người tự giác tuân thủ. Tuy nhiên, trải qua ba lần phân công lao động xã hội, xã 
hội cộng sản nguyên thủy đã có những biến đổi sâu sắc với sự xuất hiện của chế độ tư 
hữu và sự ra đời của các giai cấp khác nhau. Sự phân hóa giàu nghèo đã dẫn đến tình 
trạng người bóc lột người và đấu tranh giai cấp trở nên không thể điều hòa được. 
Những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội đòi hỏi phải có một loại quy phạm mới thay 
thế các quy phạm của thị tộc, bộ lạc trước đây nhằm thể hiện ý chí của giai cấp thống 
trị và giữ cho xã hội nằm trong vòng trật tự. Loại quy phạm mới này gọi là quy phạm 
pháp luật. Như vậy, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, trở thành công 
cụ để giai cấp thống trị thực hiện và duy trì sự thống trị giai cấp của mình trên ba 
phương diện: Thống trị về kinh tế, chính trị và tư tưởng. 
Sự ra đời của pháp luật ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử là tất yếu, 
nhưng vấn đề đặt ra là pháp luật được hình thành bằng những phương thức nào. Trong 
thực tế có hai con đường chủ yếu để hình thành pháp luật: 
• Thứ nhất là thừa nhận các tập quán sẵn có trong xã hội và nâng chúng lên thành 
các quy phạm pháp luật có giá trị bắt b ... phổ biến hình thức tập quán pháp, pháp luật phong kiến tiến bộ 
hơn pháp luật chủ nô nhưng vẫn mang tính chất tùy tiện và không có sự 
thống nhất trên toàn quốc, pháp luật tư sản mặc dù vẫn là công cụ bảo vệ chế 
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nhưng đã để lại những giá trị xã hội 
nhất định. Theo quy luật phát triển tất yếu, pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ là 
kiểu pháp luật hoàn thiện và tiến bộ nhất trong lịch sử. 
3.4. Hình thức pháp luật 
3.4.1. Định nghĩa hình thức pháp luật 
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp 
thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp 
mình lên thành pháp luật. Có ba hình thức pháp 
luật là: Tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản 
pháp luật. 
Nghiên cứu về hình thức pháp luật cần phân biệt 
với phương thức hình thành pháp luật. Hình thức 
pháp luật là khái niệm để chỉ những hình thức 
tồn tại mà ở đó có chứa đựng các quy phạm pháp 
luật. Chẳng hạn như: Tập quán pháp là hình thức pháp luật tồn tại trong các tập quán 
xã hội, tiền lệ pháp là hình thức pháp luật tồn tại trong các án lệ (các bản án đã được 
tuyên), văn bản pháp luật là hình thức pháp luật tồn tại trong các văn bản do nhà nước 
ban hành. 
Đối với phương thức hình thành pháp luật, như 
đã phân tích ở phần 1.1, có hai con đường chủ 
yếu: Một là Nhà nước thừa nhận hoặc ghi nhận 
các tập quán đã tồn tại trong xã hội và nâng 
chúng lên thành pháp luật, hai là Nhà nước ban 
hành các văn bản pháp luật thông qua các bản án 
của tòa án (hệ thống luật án lệ) hoặc các văn bản 
pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 
ban hành (đối với hệ thống luật thành văn). Có 
rất nhiều quy định trong các văn bản pháp luật là 
sự ghi nhận lại các tập quán đã tồn tại trong xã 
hội, tuy nhiên đây không phải là hình thức tập 
quán pháp mà là hình thức văn bản pháp luật. 
Tức là, việc ghi nhận các tập quán vào văn bản pháp luật và làm cho nó có giá trị bắt 
buộc thi hành nói lên nguồn gốc của pháp luật là từ các tập quán xã hội chứ không 
phải nói nên nguồn của pháp luật. Ví dụ: Đạo luật Mười hai bảng của Nhà nước La 
Hình minh họa 
Hình minh họa 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
37 
Hình minh họa 
Mã cổ đại đã quy định chế độ sở hữu bằng cách ghi chép lại các tập quán sở hữu đất 
đai đã tồn tại trong xã hội. Điều đó cho thấy rằng pháp luật về sở hữu được ghi nhận 
trong Đạo luật này có nguồn gốc từ các tập quán đã lưu truyền trong xã hội, còn cách 
thức mà giai cấp thống trị thể hiện ý chí của mình liên quan đến quyền sở hữu ở đây 
được thể hiện dưới hình thức văn bản pháp luật. 
Nói tóm lại, hình thức pháp luật là khái niệm để chỉ nguồn của pháp luật (tức là các 
quy phạm pháp luật được tìm thấy ở đâu), còn phương thức hình thành pháp luật là 
khái niệm để chỉ nguồn gốc của pháp luật. Do đó, phân biệt hình thức pháp luật với 
phương thức hình thành pháp luật chính là phân biệt hai khái niệm nguồn của pháp luật và 
nguồn gốc của pháp luật. 
3.4.2. Tập quán pháp 
Tập quán pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận 
một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù 
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng 
thành những quy tắc xử sự chung được Nhà nước 
bảo đảm thực hiện. 
Tập quán pháp là hình thức pháp luật xuất hiện 
sớm nhất, được sử dụng nhiều trong Nhà nước 
chủ nô và Nhà nước phong kiến. Đây là hình 
thức Nhà nước thừa nhận giá trị của các tập quán 
đã tồn tại trong xã hội nhưng không ghi nhận các 
tập quán đó vào các văn bản pháp luật mà cho phép trực tiếp áp dụng các tập quán đó. 
Hình thức tập quán pháp tồn tại từ những ngày đầu xuất hiện Nhà nước bởi ở thời kỳ 
đó kỹ thuật lập pháp chưa phát triển buộc giai cấp thống trị phải sử dụng các tập quán 
như là nguồn của pháp luật để quản lý xã hội. Hiện nay, hình thức tập quán pháp vẫn 
được sử dụng một cách hạn chế trong các trường hợp cần bổ sung cho sự thiếu hụt của 
các quy định pháp luật thành văn. Hình thức này có ưu điểm là dễ được mọi người 
chấp nhận và tự giác thi hành nhưng hạn chế ở chỗ không có sự thống nhất chung bởi 
vì ở mỗi địa phương thường có những tập quán không giống nhau, do đó khi áp dụng 
tập quán rất dễ phát sinh tranh chấp. 
Luật tục của người dân tộc thiểu số với việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em 
Cũng như người Kinh, các dân tộc thiểu số miền núi có truyền thống yêu quý trẻ em. Điều 
này chẳng những thể hiện trong phong tục tập quán qua các lễ hội như lễ thổi tai, lễ đặt tên, 
lễ cầu phúc, cầu sức khỏe cho đứa trẻ; trong ca dao, tục ngữ khuyên răn người ta về dạy 
dỗ, nuôi nấng trẻ em mà còn phản ánh rõ nét trong luật tục (tập quán pháp). 
Trong hệ thống các “điều luật” của dân tộc thiểu số có khá nhiều điều đề cập đến trẻ em, 
nêu lên trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc trẻ em của cộng đồng. Đó là những quy định về 
trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái trong việc nuôi nấng, dạy bảo, đối xử với trẻ em; 
về các tội danh làm xúc phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, sức khỏe và các quyền lợi 
khác của trẻ em. Tìm hiểu luật tục các dân tộc như Êđê, M'nông, Giarai... ta sẽ thấy được 
nhiều điều luật rất cụ thể nêu lên các hành vi, mức độ phạm tội như tội giết trẻ sơ sinh; tội 
hiếp dâm trẻ vị thành niên; tội không giáo dục và quản lý con cái của các bậc cha mẹ để 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
38 
chúng phạm tội; tội dụ dỗ trẻ em v.v 
Trong mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ với con cháu, luật tục Êđê nêu rõ : Ông bà, cha mẹ 
phải nuôi dưỡng, giáo dục con cháu chu đáo. Vì trẻ em như “con voi chưa biết đường nào 
để đi; bông hoa chưa biết nhìn; mùi thơm chưa biết ngửi; bông đỏ, vàng chưa nhận ra nên 
cha mẹ phải bảo ban chúng”. Người M'nông có vô số câu khuyên răn con người về trách 
nhiệm dạy dỗ, nuôi nấng những búp non trên ngàn: “Nuôi con lớn khôn/nuôi cháu hiền 
lành/đầu con không được có chấy/tay cháu không được dính cứt mũi/con cháu không được 
mặc khố rách/con khóc phải cho bú ngay/em khóc phải cưới chồng ngay...”. Ngoài việc 
chăm sóc con cái chu đáo, người M'nông đề cập đến việc dạy chúng thành người giỏi 
giang: “Con trai lớn lên phải học đan gùi/con trai lớn lên phải học làm ná/con trai lớn lên 
phải học luật tục. Con gái lớn lên phải học dệt vải/con gái lớn lên phải tập kéo chỉ/con gái 
lớn lên phải học nhuộm chỉ vải”. 
Luật tục các dân tộc thiểu số miền núi cũng đặc biệt quan tâm đến các “tội phạm 
hình sự” liên quan đến việc bảo vệ trẻ em. Chẳng những các “quan tòa dân gian” có 
những lý lẽ thuyết phục trong việc phân xử, luận tội mà còn nêu ra các hình phạt 
phù hợp với mức độ phạm tội của các bị cáo. Kẻ nào đầu độc, giết chết trẻ em, dù 
là con ruột của mình đều phải bị tuyên phạt với mức án cao nhất là phạt đền bằng 
voi: “Chết trẻ thơ đền voi mẹ; chết người già đền voi đực”. Vì rằng, theo truyền 
thống dân tộc, chỉ có con voi mới đạt thang giá trị thay thế mạng người. Xin dẫn ra 
đây lời luận tội về trường hợp vi phạm đến tính mạng trẻ em: “Hắn (kẻ phạm tội) 
là người độc ác. Biết đâu đứa bé lớn lên, nếu là con gái lại không thể trở thành bà 
phù thủy chữa bệnh, nếu là con trai lại không thể trở thành một tay khiên tài giỏi, 
có thể chiến thắng kẻ thù, bắt được tù binh, thu được vòng đồng, bát đĩa, trở thành 
một tù trưởng giàu có”. Luật tục còn dành những hình phạt thích đáng để xử tội 
hiếp dâm trẻ vị thành niên: “Hắn đã ép đứa bé gái như ép ngựa phải nhận cương, ép 
trâu phải nhận thừng. Hắn vồ như con cọp, xáp lại như con thú, hãm hại đứa bé, 
hành động như con chó con lợn mà không biết xấu hổ... Hắn là kẻ có tội, có việc 
nghiêm trọng phải đưa hắn ra xét xử”. Ngoài những trọng tội, luật tục còn nêu 
những tội khác vi phạm đến quyền lợi vật chất của trẻ em như dụ dỗ chúng để đoạt 
của cải... 
Trong bộ luật cổ của các dân tộc thiểu số vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, từ lâu đã 
đề cập đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, một thế hệ măng non tương lai của dân 
tộc. Nhiều quy định, luật lệ cổ truyền của đồng bào cho đến nay vẫn phù hợp và 
thiết thực, góp phần vào việc tuyên truyền trong cộng đồng về trách nhiệm chăm 
sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em. 
Theo Tấn Vịnh, bài đăng trên báo Quang Nam điện tử 
d=133 
3.4.3. Tiền lệ pháp 
Tiền lệ pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính 
Nhà nước hoặc cơ quan xét xử khi giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với 
các trường hợp tương tự. 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
39 
Hình thức tiền lệ pháp còn được gọi là pháp luật án 
lệ, tồn tại chủ yếu ở các quốc gia theo hệ thống luật 
chung Anh – Mỹ (còn gọi là hệ thống thông luật). 
Theo hình thức này, nguồn của pháp luật là các bản 
án đã được tuyên hoặc các quyết định của cơ quan 
Nhà nước đã được ban hành. Việc áp dụng án lệ có 
những nguyên tắc rất chặt chẽ và không phải mọi 
bản án đã tuyên đều trở thành pháp luật ràng buộc 
sau đó. Thông thường, chỉ những bản án do tòa án 
cấp trên tuyên mới có hiệu lực ràng buộc tòa án cấp dưới và khi đó nó trở thành án lệ 
bắt buộc (pháp luật). Đối với tòa án cấp trên, bản án của tòa án cấp dưới chỉ có tính 
chất tham khảo và bản án đó được gọi là án lệ tham khảo (không phải là pháp luật). 
Khi thừa nhận nguồn của pháp luật là các án lệ có nghĩa là Nhà nước thừa nhận tòa án 
(thông qua hoạt động của thẩm phán) vừa là cơ quan xét xử vừa là cơ quan ban hành 
pháp luật. Hình thức này có ưu điểm là tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động xét xử của 
tòa án và có thể giúp cho tòa án xét xử “vừa hợp tình vừa hợp lý”. Tuy nhiên, tiền lệ 
pháp có thể tạo ra sự tùy tiện trong ban hành pháp luật và không phân định rõ chức 
năng của các cơ quan Nhà nước. Hơn nữa, tiền lệ pháp sẽ làm cho hệ thống pháp luật 
trở nên phức tạp và người dân (những người không có trình độ pháp luật nói chung) sẽ 
khó tiếp cận và thực hiện đầy đủ được các quy định của pháp luật. 
3.4.4. Văn bản quy phạm pháp luật 
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức nhà nước ghi nhận các quy phạm pháp luật 
trong các văn bản được ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định bởi các chủ thể có 
thẩm quyền. 
Hình thức văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng trong tất cả các kiểu nhà nước, 
tuy nhiên trong Nhà nước chủ nô và phong kiến, văn bản quy phạm pháp luật còn 
chưa hoàn chỉnh bởi nội dung khá đơn giản và kỹ thuật lập pháp còn hạn chế. Pháp 
luật tư sản đã phát triển hình thức văn bản quy phạm pháp luật lên trình độ cao với kỹ 
thuật lập pháp tiên tiến và nội dung điều chỉnh 
tương đối đa dạng, phức tạp đặc biệt ở những nước 
theo hệ thống luật thành văn. Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa sử dụng hình thức văn bản quy phạm pháp 
luật với tư cách là nguồn chủ yếu điều chỉnh các 
quan hệ xã hội. Điều này là do hình thức văn bản 
quy phạm pháp luật có ưu điểm nổi bật là được ban 
hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ nội dung rõ 
ràng và tạo ra sự thống nhất trong thực hiện pháp 
luật. Tuy nhiên, hình thức văn bản quy phạm pháp 
luật có hạn chế là pháp luật có thể không theo kịp sự thay đổi của xã hội do các quan 
hệ xã hội không ngừng vận động và phát triển trong khi pháp luật thành văn có tính ổn 
định tương đối của nó. Hơn nữa, không phải lúc nào nhà làm luật cũng có thể dự liệu 
được đa dạng, phức tạp đặc biệt ở những nước theo hệ thống luật thành văn. Nhà nước xã 
hội chủ nghĩa sử dụng hình thức văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là nguồn chủ 
yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Điều này là do hình thức văn bản quy phạm 
 Hình minh họa 
Hình minh họa 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
40 
pháp luật có ưu điểm nổi bật là được ban hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ nội dung 
rõ ràng và tạo ra sự thống nhất trong thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, hình thức văn bản 
quy phạm pháp luật có hạn chế là pháp luật có thể không theo kịp sự thay đổi của xã 
hội do các quan hệ xã hội không ngừng vận động và phát triển trong khi pháp luật 
thành văn có tính ổn định tương đối hết các tình huống xảy ra trong thực tế bởi vậy có 
khả năng là một số quan hệ xã hội phát sinh mà không được pháp luật điều chỉnh. 
Chính vì lý do này mà bên cạnh hình thức văn bản quy phạm pháp luật ở chừng mực 
nhất định và không phải là chủ yếu thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận các 
hình thức pháp luật khác như tập quán pháp và tiền lệ pháp. Điều 3 Bộ luật Dân sự 
năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Trong trường 
hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập 
quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán 
và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định 
trong Bộ luật này”, hay Điều 13 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp 
pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen đã 
được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái 
với những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật Dân sự”. Như vậy, 
trong các trường hợp này, pháp luật Việt Nam cho phép sử dụng tập quán với tư cách 
là nguồn của pháp luật. Bên cạnh tập quán pháp, đôi khi hình thức tiền lệ pháp cũng 
được áp dụng ở nước ta, chẳng hạn như việc tổng kết xét xử của Tòa án tối cao đóng 
vai trò như các văn bản hướng dẫn tòa án cấp dưới xét xử những vụ việc có tình tiết 
tương tự. Điều đó cho thấy tuy không phổ biến nhưng trong những trường hợp nhất 
định Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận hình thức tập quán pháp và tiền lệ 
pháp bên cạnh hình thức chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật. 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
41 
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI 
Bài này nghiên cứu những vấn đề lý luận chung nhất về pháp luật, bao gồm nguồn gốc, đặc 
điểm, bản chất, các kiểu và các hình thức pháp luật. 
Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước khi có các điều kiện về kinh tế và xã hội, cụ thể là : 
• Về mặt kinh tế : trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu 
• Về xã hội : có sự phân chia giai cấp, hình thức nên các giai cấp bóc lột và bị bóc lột. 
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng lịch sử mang bản chất giai cấp và bản chất xã hội. Có bốn 
kiểu pháp luật là pháp luật chủ nô (pháp luật chiếm hữu nô lệ, pháp luật phong kiến, pháp luật tư 
sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa). 
Bài này cũng đồng thời chỉ ra nguồn chứa đựng các quy phạm pháp luật – còn gọi là hình thức 
pháp luật. Có ba hình thức pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. 
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
42 
CÂU HỎI THƯỜNG GẶP 
1. Nhà nước và pháp luật có xuất hiện cùng lúc không? 
2. Phân biệt nguồn của pháp luật và nguồn gốc của pháp luật? 
3. Nhà nước phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam hàng trăn năm. Có những văn bản quy phạm pháp 
luật nào của các nhà nước phong kiến còn tồn tại cho đến nay? 
. 
CÂU HỎI CUỐI BÀI 
1. Phân tích bản chất giai cấp của pháp luật? 
2. Phân tích giá trị xã hội của pháp luật? 
3. Khái niệm kiểu pháp luật ? Tại sao nói pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật tiến bộ 
nhất trong lịch sử? 
4. Pháp luật chủ nô và pháp luật phong kiến có đặc điểm gì? Tại sao lại có những đặc điểm như vậy? 
5. Phân tích giá trị xã hội của pháp luật tư sản? 
6. Phân tích khái niệm hình thức pháp luật? 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_phap_luat_dai_cuong_bai_3_ly_luan_ve_phap_luat.pdf