Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già

Mục tiêu: Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người

≥ 65 tuổi.

Phương pháp: Dùng thang điểm MMSE sàng lọc suy giảm chức năng nhận thức trong 139 người già ≥ 65

tuổi. Có 69 người có MMSE ≤ 26 điểm và 70 người có điểm MMSE > 26 đều được đưa vào nghiên cứu này. Tất

cả đều được đánh giá lâm sàng và các trắc nghiệm tâm thần kinh học để chẩn đoán SSTT. Sau đó, tất cả những

trường hợp có và không có SSTT đều được phân loại bình thường, MCI, SSTT nhẹ, trung bình và nặng theo

thang điểm CDR Việt hóa.

Kết quả: Độ nhạy cảm của CDR: 87,50%, đặc hiệu:100%, chính xác: 97,12%. Trong số 139 người được

chọn, 107 (77%) người được phân loại là bình thường theo MMSE khi đánh giá lại bằng thang điểm CDR có 70

(50.4%) là bình thường (CDR=0) và 41(29,5%) là MCI (CDR=0,5). Trong số 32 người được chẩn đoán là

SSTT, có 11 (7,9%) là SSTT nhẹ (CDR=1), 14 (10,1%) trung bình (CDR=2) và 3 (2,2%) nặng (CDR=3). Chỉ có

4 (2,93%) trường hợp được coi là MCI qua đánh giá lại bằng thang điểm CDR.

Kết luận: Thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) là công cụ có giá trị trong phân loại sa sút trí tuệ ở

người già. Gần 1/2 các trường hợp qua đánh giá bằng thang điểm MMSE được coi như là bình thường, khi đánh

giá lại bằng thang điểm CDR đã được phân loại như các trường hợp nghi ngờ (MCI), gia tăng nguy cơ chuyển

thành SSTT. Vì vậy, phát hiện này là quan trọng trong phòng ngừa và theo dõi tiến triển của SSTT.

Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già trang 1

Trang 1

Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già trang 2

Trang 2

Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già trang 3

Trang 3

Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già trang 4

Trang 4

Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 12060
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già

Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người già
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 332
ÁP DỤNG THANG ĐIỂM SA SÚT TRÍ TUỆ LÂM SÀNG (CDR) 
TRONG ĐÁNH GIÁ SUY GIẢM NHẬN THỨC Ở NGƯỜI GIÀ 
Vũ Anh Nhị*, Phan Mỹ Hạnh** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Áp dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) trong đánh giá suy giảm nhận thức ở người 
≥ 65 tuổi. 
Phương pháp: Dùng thang điểm MMSE sàng lọc suy giảm chức năng nhận thức trong 139 người già ≥ 65 
tuổi. Có 69 người có MMSE ≤ 26 điểm và 70 người có điểm MMSE > 26 đều được đưa vào nghiên cứu này. Tất 
cả đều được đánh giá lâm sàng và các trắc nghiệm tâm thần kinh học để chẩn đoán SSTT. Sau đó, tất cả những 
trường hợp có và không có SSTT đều được phân loại bình thường, MCI, SSTT nhẹ, trung bình và nặng theo 
thang điểm CDR Việt hóa. 
Kết quả: Độ nhạy cảm của CDR: 87,50%, đặc hiệu:100%, chính xác: 97,12%. Trong số 139 người được 
chọn, 107 (77%) người được phân loại là bình thường theo MMSE khi đánh giá lại bằng thang điểm CDR có 70 
(50.4%) là bình thường (CDR=0) và 41(29,5%) là MCI (CDR=0,5). Trong số 32 người được chẩn đoán là 
SSTT, có 11 (7,9%) là SSTT nhẹ (CDR=1), 14 (10,1%) trung bình (CDR=2) và 3 (2,2%) nặng (CDR=3). Chỉ có 
4 (2,93%) trường hợp được coi là MCI qua đánh giá lại bằng thang điểm CDR. 
Kết luận: Thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng (CDR) là công cụ có giá trị trong phân loại sa sút trí tuệ ở 
người già. Gần 1/2 các trường hợp qua đánh giá bằng thang điểm MMSE được coi như là bình thường, khi đánh 
giá lại bằng thang điểm CDR đã được phân loại như các trường hợp nghi ngờ (MCI), gia tăng nguy cơ chuyển 
thành SSTT. Vì vậy, phát hiện này là quan trọng trong phòng ngừa và theo dõi tiến triển của SSTT. 
Từ khóa: sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức 
ABSTRACT 
APPLY THE CLINICAL DEMENTIA RATING FOR EVALUATION THE COGNITIVE DEFICIT 
AMONG THE ELDERLY. 
Phan My Hanh, Vu Anh Nhi* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 332 - 326 
Objective: To apply the Clinical Dementia Rating for evaluation cognitive deficit among the elderly ≥ 65 
years old. 
Methods: The Mini Mental State Examination was utilized as a screening method for cognitive deficit 
among the 139 elderly. All those who scored ≤ 26 points (69 elderly) and 70 elderly with scores > 26 points were 
included in the study. The 139 subjects selected were submitted to clinical evaluation and neuropsychological 
tests for the diagnosis of dementia. Afterwards, both cases and non-cases were classified, according to the 
Vietnamese version of the Clinical Dementia Rating, in the categories normal, borderline, mild, moderate and 
severe dementia. 
Results: The sensibility of CDR was 87.50%, the specificity was 100% and the accuracy was 97.12%. 
Among the 139 subjects selected, 107 (77 %) was non cases, 70 (50.4%) were classified as normal (CDR=0), 
41(29.5%) as questionable (CDR=0.5). Among the 32 cases of dementia, 11(7.9%) were classified as mild 
dementia (CDR=1), 14(10.1%) as moderate (CDR=2), 3(2.2%) as severe dementia (CDR=3). Only four (2.93%) 
* Bộ môn Thần kinh, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 
Tác giả liên lạc BS Phan Mỹ Hạnh, ĐT: 0122 3333 063, Email: h_phanmy@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 333
of the cases were considered questionable cases by the Clinical Dementia Rating. 
Conclusions: The Clinical Dementia Rating is a valid instrument for classifying the dementia status of the 
elderly. Almost half the cases considered normal by the diagnostic criteria of the Mini Mental State Examination 
were borderline cases according to the Clinical Dementia Rating and might correspond to cases of mild cognitive 
impairment with an increased risk of conversion to dementia cases. This detection is important in preventing and 
following dementia ‘s progression. 
Keywords: Dementia, cognitive deficit 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sa sút trí tuệ là một vấn đề nổi bật trong sức 
khỏe cộng đồng ở người cao tuổi hiện nay, 
không chỉ vì tỉ lệ mắc bệnh gia tăng, chi phí điều 
trị rất tốn kém mà còn vì gia tăng tỷ lệ tử vong. 
Đánh giá và công nhận SSTT ngay từ lần 
thăm khám đầu tiên sẽ đảm bảo được sự chăm 
sóc thích hợp, nhằm nâng cao chất lượng cuộc 
sống của cả bệnh nhân và người chăm sóc. 
Chính khuynh hướng này là hồi chuông 
cảnh báo về các phương pháp có giá trị và độ tin 
cậy cao trong việc phân loại chẩn đoán SSTT. 
Ở các nước đang phát triển, các thang điểm 
khác nhau cho độ nhạy cảm và độ đặc hiệu khác 
nhau. Thang điểm phù hợp nhất cho mỗi quốc 
gia là thay đổi phụ thuộc vào nền văn hóa và 
nền giáo dục của nước đó. 
Thang điểm MMSE được sử dụng nhiều 
nhất, đặc biệt trong sàng lọc SSTT do đánh giá 
nhanh và dễ sử dụng. Tuy nhiên không thể 
dùng cho người giảm thị, thính lực cũng như 
người mù chữ. 
Thang điểm CDR là thang điểm vừa có thể 
phân loại từ người khỏe mạnh đến những người 
có SSTT lại vừa có thể phân độ SSTT. Ngày nay, 
đã được sử dụng như một tiêu chuẩn vàng cho 
việc đánh giá SSTT lâm sàng với lợi thế là áp 
dụng hàng loạt để theo dõi diễn tiến từ MCI đến 
SSTT nặng. 
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là áp 
dụng thang điểm SSTT lâm sàng (CDR) Việt hóa 
trong phân loại suy giảm chức năng nhận thức ở 
người ≥ 65t, nhằm làm cơ sở cho việc theo dõi và 
điều trị sớm các đối tượng có nguy cơ cao. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Người già ≥ 65 tuổi. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Mọi đối tượng trong dân số chọn đều được 
sàng lọc qua thực hiện test MMSE. Đối tượng có 
điểm MMSE ≤ 26 đ sẽ được khám tâm thần kinh 
và chẩn đoán SSTT dựa vào tiêu chí lâm sàng 
(DSM-IV). Sau đó, tất cả các đối tượng với 
MMSE >26 đ và ≤ 26 đ đều được đánh giá lại 
bằng thang điểm CDR. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Rối loạn tri giác, bệnh TKTW, tâm thần, 
động kinh, Parkinson, nghiện rượu, nghiện 
thuốc, chấn thương đầu, bị bệnh nội khoa nặng 
khác, giảm thính lực, thị lực nặng, mù chữ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. 
Thu thập số liệu 
Bệnh nhân và thân nhân được lựa chọn 
ngẫu nhiên thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và không 
có một trong các tiêu chuẩn loại trừ. Trực tiếp 
thu thập bệnh sử và tiền sử cũng như thăm 
khám lâm sàng, tâm -thần kinh. Trực tiếp thu 
thập số liệu từ bệnh nhân và thân nhân bệnh 
nhân theo bảng thu thập số liệu mẫu. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu được xử lý và phân tích bằng SPSS 
13.0. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Xác định giá trị của thang điểm CDR 
Qua nghiên cứu của chúng tôi, điểm MMSE: 
thấp nhất là 3, cao nhất là 30 và điểm trung bình 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 334
là 24,71 ± 5,46. Số người có số điểm MMSE > 26 
đ là 70 (50,3%), ≤ 26 đ là 69 người (49,7%). 
Điểm số trung bình của các trường hợp 
được coi là bình thường là 27,93 điểm (tối 
thiểu là 27 và tối đa là 30 điểm), trong khi 
điểm trung bình cho các trường hợp SSTT là 
21,45 điểm (tối thiểu là 0 và tối đa là 26 điểm). 
Không có trường hợp SSTT nào được tìm 
thấy trong số các trường hợp bình thường (độ 
đặc hiệu của MMSE là 100% tại điểm giới 
hạn này). 
Khi mức độ nặng của SSTT tăng lên, điểm số 
của MMSE giảm xuống một cách đáng kể; với 
các đối tượng bình thường (CDR= 0), điểm trung 
bình MMSE là 27,93 với độ lệch chuẩn 1,98 (SD); 
với các đối tượng nghi ngờ (CDR=0,5) điểm 
trung bình MMSE là 25,17 (SD = 1, 69), với các 
đối tượng SSTT nhẹ (CDR=1) điểm trung bình 
MMSE là 20,64 (SD = 2,9), với các đối tượng với 
SSTT trung bình (CDR=2) điểm trung bình 
MMSE là 14,79 (SD = 1,53) và với các trường hợp 
SSTT nặng (CDR=3) điểm trung bình MMSE là 
4,67 (SD = 1,53). (hình 1). 
Qua nghiên cứu này, chúng tôi cũng nhận 
thấy rằng: trong số những người bình thường 
(77%), gần ½ (29,5%) trường hợp đã được phân 
loại như các trường hợp nghi ngờ SSTT(MCI), 
phù hợp với nghiên cứu Motario và cộng sự(10). 
Điểm trung bình của MMSE giảm đáng kể 
theo các mức độ nặng của SSTT giúp xác nhận 
việc phân loại CDR theo MMSE. 
0
5
10
15
20
25
30
0 0.5 1 2 3
Hình 1: So sánh tương quan giữa điểm trung bình 
CDR và MMSE 
Một phân tích gộp của 34 nghiên cứu STT và 
5 nghiên cứu MCI cho thấy MMSE có độ nhạy 
cảm là 79,8%, độ đặc hiệu là 81,3%, đã kết luận: 
MMSE với độ chính xác trung bình, sử dụng tốt 
nhất cho chẩn đoán loại trừ SSTT trong cộng 
đồng và trong lần thăm khám đầu tiên, và nên 
được sử dụng kết hợp với các phương pháp 
khác(8). 
Qua nghiên cứu của chúng tôi: độ nhạy của 
CDR: 87,50%, độ đặc hiệu: 100%, và độ chính 
xác: 97,12%. So với nghiên cứu của Chaves và 
cs: CDR có độ nhạy là 86% khi phát hiện SSTT 
trong số những người già khỏe mạnh, hay độ 
nhạy là 80% khi phát hiện những người nghi 
ngờ có SSTT và có độ đặc hiệu là 100% cho cả 
hai nhóm người này(3). Nghiên cứu của Motario 
và cs, độ nhạy của CDR là 91,2%, độ đặc hiệu là 
100%(10). 
Trong số 139 người được chọn, 107 (77%) 
người được phân loại là bình thường theo 
MMSE khi đánh giá lại bằng thang điểm CDR 
có 70 (50.4%) là bình thường (CDR=0) và 
41(29,5%) là MCI (CDR=0,5), đối tượng có nguy 
cơ cao chuyển thành SSTT. 
Trong số 32 người được chẩn đoán là SSTT, 
có 11 (7,9%) SSTT nhẹ (CDR=1), 14 (10,1%) SSTT 
trung bình (CDR=2) và 3 (2,2%) SSTT nặng 
(CDR=3). Chỉ có 4(2,93%) trường hợp SSTT, 
được phân loại lại là MCI (CDR= 0,5). Không có 
trường hợp nào chẩn đoán SSTT từ các trường 
hợp bình thường (bảng 1). 
Bảng 1: So sánh CDR với chẩn đoán lâm sàng trong 
chẩn đoán SSTT 
CDR Chẩn đoán * Tổng 
SSTT Bình thường 
SSTT (1.2.3) 28 0 28 
Bình thường (0. 0,5) 4 107 111 
Tổng 32 107 139 
Điều này cũng đã cho thấy có một sự thống 
nhất cao giữa các tiêu chí lâm sàng và CDR, xác 
nhận tính giá trị của CDR trong việc tách các đối 
tượng bình thường từ các trường hợp SSTT(10). 
Phân loại suy giảm nhận thức 
SSTT đặc biệt xảy ra ở người châu Á, chiếm 
46% trên tổng số 25 tỉ người sa sút trí tuệ trên 
toàn thế giới. Trong các nghiên cứu của các tác 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 335
giả ở Châu Á như Liu, Ishii, de Silva, Lee, Lim 
và cs: tỷ lệ hiện mắc SSTT của người ≥ 65 tuổi ở 
Trung Quốc từ 1,8 – 6,3%, ở Nhật Bản: 3,3 – 8%, 
ở Ấn Độ: 1.4 – 4%, ở Hàn Quốc: 8,2 – 10,8%, ở 
Đông Nam Á: 2,5 – 7%. Một vài nghiên cứu tiền 
cứu đưa ra tỉ lệ hiện mắc ở người từ 65 tuổi trở 
lên từ 3,2 – 8,9 trên 1000 người hàng năm, tỉ lệ 
này thấp hơn so với Châu Mỹ và Châu Âu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ SSTT 
theo tiêu chí lâm sàng là 23%, theo đánh giá 
bằng thang điểm CDR là 20,2% (bảng 2). 
Độ rộng này có thể được giải thích bởi sự 
khác biệt về đặc tính của mẫu khảo sát, các 
phương thức tầm soát và các phương pháp xác 
định sa sút trí tuệ.(6) 
Bảng 2: Phân loại SSTT theo CDR 
 Tần số Tỷ lệ % 
0 Không SSTT 
0,5 MCI: 
- Thể suy giảm trí nhớ 
- Suy giảm một lĩnh vực 
-Suy giảm nhiều lĩnh vực 
1 SSTT nhẹ 
2 SSTT trung bình 
3 SSTT nặng 
70 
41 
4 
2 
35 
11 
14 
3 
50,4 
29,5 
9,8 
4,9 
85,4 
7,9 
10,1 
2,2 
Các nghiên cứu đoàn hệ những người cao 
tuổi ở Mỹ đã cho thấy: tỷ lệ mắc toàn bộ của suy 
giảm nhận thức nhẹ (MCI) từ 4,6- 28,3%, từ 2- 
30% trong dân số nói chung và từ 6 – 85% trong 
tiến trình lâm sàng nói riêng (trung bình 40%). 
Tỷ lệ này càng tăng trong những người càng 
lớn tuổi và trình độ học vấn càng thấp. 
Hai nghiên cứu của Meguro và cs (2001, 
2004) cũng cho thấy: tỉ lệ hiện mắc của CDR= 0,5 
chiếm 30,2% người bản xứ trong dự án Tajiri của 
Nhật và 29,5% người Nhật nhập cư đến Sao 
Paulo ở Brazil(6). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ hiện 
mắc CDR=0,5 là 29,5%, phù hợp với kết quả 
trên. Sa sút trí tuệ chiếm tỷ lệ chung là 20,2%, 
trong đó: SSTT nhẹ: 7,9%, SSTT trung bình: 
10,1%, và SSTT nặng: 2,2%. 
Điều này cho thấy xu hướng sử dụng CDR 
hiện nay như là một công cụ phân độ sa sút trí 
tuệ ngày càng được áp dụng nhiều hơn do bởi 2 
đặc tính sẵn có: 
+ Giá trị của thứ bậc: trong đó mức độ 3 
nặng hơn mức độ 2 và mức độ 2 nặng hơn mức 
độ 1. 
+ Giá trị của sự phù hợp trong bảng điểm 
của 6 lãnh vực, như trong trường hợp điển hình 
của bệnh Alzheimer giai đoạn nhẹ, hầu hết các 
điểm khác nhau của các lãnh vực khác nhau chỉ 
dao động trong khoảng 0,5 -1đ(12). 
KẾT LUẬN 
Qua ứng dụng thang điểm sa sút trí tuệ lâm 
sàng (CDR) trong phân loại suy giảm nhận thức 
ở người ≥ 65 tuổi, chúng tôi có: 
+ Độ nhạy cảm của CDR: 87,50%, đặc hiệu: 
100%, chính xác: 97,12%. 
+ Phân loại: Bình thường: 50,4%; MCI: 
29,5%; SSTT: 20,2%. Trong đó: SSTT nhẹ: 7,9%, 
trung bình: 10,1%, nặng: 2,2%. 
Gần ½ các trường hợp được coi là bình 
thường theo tiêu chí lâm sàng, khi đánh giá lại 
bằng thang điểm CDR đã được phân loại lại là 
MCI, những đối tượng có nguy cơ chuyển thành 
SSTT trong tương lai. Chỉ có 4 (2,93%) trường 
hợp SSTT, được xếp loại lại là MCI (CDR= 0,5). 
Không có trường hợp SSTT nào được chẩn đoán 
từ các trường hợp bình thường. Điều này cho 
thấy có sự phù hợp giữa thang điểm CDR và 
MMSE cũng như tiêu chí lâm sàng. 
Tóm lại: Thang điểm sa sút trí tuệ lâm sàng 
(CDR) là công cụ có giá trị trong phân loại SSTT 
ở người già. Gần ½ các trường hợp được coi 
như là bình thường, đã được phân loại như các 
trường hợp nghi ngờ (MCI), gia tăng nguy cơ 
chuyển thành SSTT về sau. Phát hiện này là 
quan trọng trong theo dõi và phòng ngừa tiến 
triển của SSTT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anderson H.S. (2010), “Dementia and mild cognitive 
impairment”, Neurology; 75(1), p. 27-34. 
2. Chandra V., Pandav R., Dodge H.H., Johnston J.M., Belle S.H., 
DeKosky ST, Ganguli M (2001), “Incidence of Alzheimer’s 
disease in a rural community in India: the Indo-US study”, 
Neurology, 57, p. 985–989. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 336
3. Chaves M.L.F., et al (2007),”Validity of the Clinical Dementia 
Rating Scale for the Detection and Staging of Dementia in 
Brazilian Patients”, Alzheimer Dis Assoc Disord, 21, p.210-217. 
4. Hughes C.P., Berg L., Danziger W.L., Coben L.A., Martin R.L 
.(1982),”A new clinical scale for the staging of dementia”, Br 
Psychiatry, 140, p. 566-72. 
5. Lê Minh (2004).”Sa sút trí tuệ”, Thần kinh học lâm sàng, Nhà 
xuất bản Y học, tr. 524-43. 
6. Lim W.S., MRCP, MMed, Mei Sian Chong, MRCP, and Suresh 
Sahadevan, FRCP (2007), “Utility of the Clinical Dementia 
Rating in Asian Populations”. Clin MedRes, 5(1), p. 61–7 
7. Liu H.C., Lin K.N., Teng E.L., Wang S.J., Fuh J.L., Guo N.W., 
Chou P., Hu H.H., Chiang B.N. (1995),”Prevalence and subtypes 
of dementia in Taiwan: a community survey of 5297 
individuals”, J Am Geriatr Soc, 43, p.144–149. 
8. Mitchell A.J. (2009). “A meta-analysis of the accuracy of the 
mini-mental state examination in the detection of dementia and 
mild cognitive impairment”, J Psychiatr Res, 43(4), p. 411-431. 
9. Morris J. (1993),”The Clinical Dementia Rating (CDR): current 
version and scoring rules”, Neurology, 43(11), p. 2412-4. 
10. Motario M.B.M.M., Ramos L.R. (2005), “Validity of the 
Portuguese version of Clinical Dementia Rating”, Rev Saúde 
Pública, 39(6), p.1-8. 
11. Petersen R.C., Smith G.E., Waring S.C., et al (1999),”Mild 
cognitive impairment: Clinical characterization and outcome”, 
Arch Neurol, 56, p.303-308. 
12. Sahadevan S., Rockwood K., Morris J.C. (1999),”Global 
assessment measures in dementia. In: Gauthier S, ed. Clinical 
Diagnosis and Management of Alzheimer’s disease. 2nd ed. 
London: Martin Dunitz, p.167–177. 
13. Vũ Anh Nhị (2008), ”Sa sút trí tuệ: bệnh Alzheimer”, Sách giáo 
khoa.: tr.15-29. 

File đính kèm:

  • pdfap_dung_thang_diem_sa_sut_tri_tue_lam_sang_cdr_trong_danh_gi.pdf