Áp dụng phương pháp giao thoa radar để xác định hiện tượng lún đất trong vùng đô thị trung tâm thành phố Hà Nội
Tóm tắt: Với phương pháp phân tích giao thoa đa
thời gian, chúng tôi khảo sát hiện tượng lún đất tại
vùng đô thị trung tâm của thành phố Hà Nội bằng ảnh
vệ tinh ALOS PALSAR thu chụp trong giai đoạn 2007-
2011. Bản đồ tốc độ lún trung bình cho thấy khu vực
phía bờ bắc sông Hồng khá ổn định, trái lại một số
khu vực ở bờ phía nam đang bị lún với vận tốc cực đại
đạt 68 mm/năm. Mặt đất bị biến dạng trong ba khu
vực chính: quận Hoàng Mai, quận Hà Đông – Thanh
Xuân, huyện Từ Liêm – Hoài Đức, tại những nơi mà
việc xây dựng đang phát triển rầm rộ và việc hút nước
ngầm đang diễn ra mạnh mẽ trong thập niên vừa qua.
Ngoài ra còn phải kể đến 1 số khu vực lún có diện tích
nhỏ hơn trong các quận nội thành. Kết quả thu được
từ phương pháp giao thoa radar tương ứng với giá trị
đo đạc bằng phương pháp thủy chuẩn trong giai đoạn
2007-2008. Điều này chứng minh khả năng áp dụng
phương pháp giao thoa vào quan trắc lún đất trên
diện rộng của thành phố Hà Nội với độ tin cậy cao và
giá thành hợp lý
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng phương pháp giao thoa radar để xác định hiện tượng lún đất trong vùng đô thị trung tâm thành phố Hà Nội
ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA Tạp chí KHCN Xây dựng - số 2/2015 61 ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIAO THOA RADAR ĐỂ XÁC ĐỊNH HIỆN TƯỢNG LÚN ĐẤT TRONG VÙNG ĐÔ THỊ TRUNG TÂM THÀNH PHỐ HÀ NỘI TS. ĐẶNG VŨ KHẮC Trường đại học Sư phạm Hà Nội ThS. NGUYỄN CÔNG KIÊN, ThS. ĐỒNG MINH TÂM Viện KHCN Xây dựng Tóm tắt: Với phương pháp phân tích giao thoa đa thời gian, chúng tôi khảo sát hiện tượng lún đất tại vùng đô thị trung tâm của thành phố Hà Nội bằng ảnh vệ tinh ALOS PALSAR thu chụp trong giai đoạn 2007- 2011. Bản đồ tốc độ lún trung bình cho thấy khu vực phía bờ bắc sông Hồng khá ổn định, trái lại một số khu vực ở bờ phía nam đang bị lún với vận tốc cực đại đạt 68 mm/năm. Mặt đất bị biến dạng trong ba khu vực chính: quận Hoàng Mai, quận Hà Đông – Thanh Xuân, huyện Từ Liêm – Hoài Đức, tại những nơi mà việc xây dựng đang phát triển rầm rộ và việc hút nước ngầm đang diễn ra mạnh mẽ trong thập niên vừa qua. Ngoài ra còn phải kể đến 1 số khu vực lún có diện tích nhỏ hơn trong các quận nội thành. Kết quả thu được từ phương pháp giao thoa radar tương ứng với giá trị đo đạc bằng phương pháp thủy chuẩn trong giai đoạn 2007-2008. Điều này chứng minh khả năng áp dụng phương pháp giao thoa vào quan trắc lún đất trên diện rộng của thành phố Hà Nội với độ tin cậy cao và giá thành hợp lý. Từ khóa: lún đất, đô thị hóa, giao thoa radar, vật tán xạ ổn định, nước ngầm. 1. Giới thiệu Hiện tượng lún đất do khai thác tài nguyên thiên nhiên dưới lòng đất ngày càng phổ biến trong những thập niên vừa qua do nhu cầu tiêu thụ tài nguyên ngày càng tăng của xã hội loài người [16]. Lún mặt đất đang được đặc biệt quan tâm khi nó xảy ra tại nhiều thành phố, nơi mà quá trình đô thị hóa mạnh mẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ nước với lượng nước ngầm lớn được hút lên từ lòng đất. Vấn đề này đã được ghi nhận tại các thành phố lớn như: Mexico-City, Bangkok, Thượng Hải, Venice, và Las Vegas. Tác động còn đáng quan tâm hơn khi các đô thị nằm trên đồng bằng bồi tích được lấp đầy bởi các thành tạo trầm tích bở rời, dễ nén ép. Từ những năm 1960, các nghiên cứu về lún đất đã được thực hiện với nhiều phương pháp khảo sát [28] để có những hiểu biết tốt hơn về cơ chế hình thành [7] và về hậu quả tác động lên môi trường [12]. Các kỹ thuật đo đạc biến dạng bề mặt một cách định lượng thay đổi từ phép đo mặt đất như phương pháp thủy chuẩn [3] và phương pháp đo giãn kế [28] tới kỹ thuật không gian như phương pháp đo GPS tĩnh [15], phương pháp giao thoa radar InSAR [19], hay phương pháp LiDAR hàng không [9]. Thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình về thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh trong các nước đang phát triển, nơi mà nước ngầm là nguồn tài nguyên chính cho nhu cầu nước sạch [17]. Từ sau Đổi Mới năm 1986, sự năng động trong phát triển kinh tế cùng các chính sách quản lý mới đã làm cho thành phố Hà Nội, đặc biệt là các quận nội thành trở nên hấp dẫn hơn đối với người nhập cư từ nhiều tỉnh lân cận. Hiện tại, thành phố này được chia ra thành 10 quận nội thành, 19 huyện ngoại thành sau bốn lần điều chỉnh địa giới hành chính. Điều này cho phép chuyển đổi đất nông nghiệp ngoại ô thành đất đô thị với việc thành lập một số quận mới như Tây Hồ năm 1995, Thanh Xuân và Cầu Giấy năm 1996, Long Biên và Hoàng Mai năm 2003 và Hà Đông năm 2008 (hình 1). Do đó, dân số toàn thành phố tăng từ 2.431x106 tới 3.184x106 người từ năm 1995 đến năm 2006, trong khi dân số của các quận nội thành tăng gấp đôi từ 1.082x106 lên 2.050x106 trong cùng thời kỳ. Sự gia tăng dân số đạt đến 6.472x106 vào năm 2009 với mật độ là 1979 người/km2 và xấp xỉ 35000 người/km2 tại một số quận trung tâm như Đống Đa hay Hoàn Kiếm [11]. Với việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích đô thị, nhiều quận mới được thiết lập xung quanh khu nội đô lịch sử để đáp ứng nhu cầu về nhà ở. Điều này dẫn đến sự tập trung dân cư và khai thác nước ngầm mạnh mẽ từ một số bãi giếng hút nước ngầm ở khu vực các quận mới thành lập. Điều này thể hiện qua sự hình thành của ba nhà máy nước mới được xây dựng trong giai đoạn 2002-2005, với công suất của mỗi nhà máy khoảng 30000 m3/ngày đêm [29]. ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA Tạp chí KHCN Xây dựng - số 2/2015 62 Hiện tượng hạ thấp mực nước ngầm [19] cùng với việc phát triển nhà cửa trên nền đất yếu đã dẫn đến lún đất cục bộ và gây ra nhiều hư hỏng cho nền móng công trình hạ tầng, nhà ở của cư dân và kể cả một số tòa nhà cao tầng cũ. Trong bối cảnh quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng sau khi điều chỉnh địa giới hành chính của thành phố Hà Nội năm 2008, sự hiểu biết tốt hơn về biến dạng mặt đất trong vùng đô thị trung tâm – được xác định bởi “Đồ án Quy hoạch chung Xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và Tầm nhìn đến năm 2050”’ tỏ ra cấp bách vì đây sẽ là khu vực tập trung phát triển nhiều công trình xây dựng quan trọng trong tương lai. Mục tiêu là một mặt nhằm triển khai quy hoạch chi tiết một cách hợp ... . Đối với các điểm cục bộ này, kích thước theo chiều ngang của chúng không quá 1-2 km2 mỗi điểm, vận tốc lún trung bình theo phương thẳng đứng tối đa là 15 mm/năm. Ở bờ phía nam sông Hồng, vùng phía giáp sông, tương ứng với các quận Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy và huyện Từ Liêm có thể phân biệt rất rõ với các biến dạng nhỏ, ngoại trừ khu vực dọc sông Hồng, nơi mà lún đất xảy ra với tốc độ chậm, nhỏ hơn 10 mm/năm. (a) (b) (c) Hình 3. Bản đồ phóng to và lát cắt của tốc độ lún theo phương thẳng đứng tại (a) khu vực lún Hoàng Mai (b) khu vực lún Hà Đông - Thanh Xuân (Khung vuông trình bày khu vực theo dõi lún bằng phương pháp đo mặt đất tại khu đô thị mới Văn Quán), và (c) khu vục lún Hoài Đức – Từ Liêm. Vị trí khung hình và thang giá trị, tham khảo hình 2 Ở phía nam sông Hồng, lún đất xảy ra trong 3 khu vực chính về phía nam và phía tây của các quận trung tâm (hình 2). Đầu tiên, khu vực lớn nhất tương ứng với quận Hoàng Mai ở phía nam của trung tâm thành phố. Biến dạng tương ứng với vận tốc lún trung bình lớn hơn 30 mm/năm và bao trùm diện tích 5x5 km, và được bao quanh ở phía bắc bởi những biến thiên vận tốc lún rất đột ngột (hình 2 và Hình 3a). Vận tốc lún trung bình tối đa đạt 68 mm/năm, chỉ cách khu vực ổn định 1 km. Chúng tôi ghi nhận hai vùng biến dạng rộng với kích thước 2x2 km trong khu vực lún chính và một số điểm lún với kích thước không quá 0.5x0.5 km và tốc độ lún đạt 50 mm/năm ở phía đông của khu vực lún thứ nhất này. Khu vực lún thứ hai nằm tại quận Hà Đông – Thanh Xuân ở phía tây nam của trung tâm thành phố (hình 2 và 3b). Kích thước ngang của khu vực lún này rất lớn, tới 7 x 4 km nhưng ít vị trí trong khu vực này thể hiện tốc độ lún thẳng đứng vượt quá 45 mm/năm. Chúng tôi chỉ nhận ra một vị trí nhỏ với tốc độ lún 60 mm/năm ở phía nam. Ở phía tây của vùng đô thị, khu vực lún chính thứ ba có vẻ hiện ra một cách mờ nhạt do sự phân tán của các vật tán xạ ở huyện ngoại thành Từ Liêm – Hoài Đức, nơi mà những cánh đồng nông nghiệp vẫn còn chiếm ưu thế (hình 2 và 3c). Các điểm lún vạch ra một khu vực 8 x 3 km2 kéo dài theo hướng nam bắc mà ở đó vận tốc thẳng đứng thay đổi từ 30 đến 60 mm/năm. Trong nhiều phần khác của vùng đô thị, một số điểm lún với kích thước nhỏ hơn 1 km2 phân bố tại các quận nội thành như Đống Đa, Thanh Xuân, hay Hai Bà Trưng với vận tốc theo chiều thẳng đứng thay đổi từ 10 đến 25 mm/năm, nghĩa là nhỏ hơn nhiều so với ba khu vực lún chính đã mô tả. ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA Tạp chí KHCN Xây dựng - số 2/2015 66 3.2 Kiểm chứng kết quả Để kiểm chứng kết quả xử lý InSAR của mình, chúng tôi so sánh tốc độ lún theo phương thẳng đứng cho một khu vực cụ thể, nơi có sẵn số liệu đo đạc bằng phương pháp thủy chuẩn. Từ ngày 25/6/2007 đến ngày 26/9/2008, Tổng Công ty Phát triển Nhà ở và Đô thị Hà Nội tiến hành mười sáu đợt đo mặt đất tại một số khối nhà trong khu đô thị mới Văn Quán nằm ở khu vực lún thứ hai Hà Đông – Thanh Xuân (vị trí trên hình 3b). Chúng tôi xem xét một cách cụ thể hơn số liệu đo mặt đất của các khối nhà TT18A và TT18B do sự tồn tại của các điểm tán xạ cố định trên các khối nhà này (hình 4a). Vận tốc lún trung bình suy ra từ số liệu đo mặt đất tương ứng với vận tốc trung bình 35 mm/năm đối với khối nhà TT18A và 27.8 mm/năm đối với khối nhà TT18B (hình 4b). (a) (b) (c) Hình 4. (a) Khu vực được theo dõi lún bằng phương pháp đo mặt đất tại khu đô thị mới Văn Quán. Vị trí của khu vực đo mặt đất, tham khảo hình 3b, và các điểm ảnh trong khu vực (thang mầu), tham khảo hình 2. (b) Biểu đồ đo lún tích lũy của khối nhà TT18A. Nguồn: [8]. (c) Biểu đồ của một vật tán xạ cố định nằm trên khối nhà TT18B và giá trị đo lún của nó bằng phương pháp đo thủy chuẩn. Điểm thứ 3 của phân tích InSAR theo chuỗi thời gian nằm dọc theo đường hồi quy của số liệu đo bằng phương pháp thủy chuẩn Điều này thuyết phục rằng các giá trị trung bình đó phù hợp với kết quả xử lý InSAR của chúng tôi với giá trị 38.2 mm/năm và 25.6 mm/năm đối với các điểm tán xạ cố định nằm trên các tòa nhà tương ứng. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng các giá trị này nhỏ hơn vận tốc trung bình 90 mm trong thời gian 17 tháng (từ ngày 2/2/2007 đến ngày 22/6/2008) tương ứng với 63.5 mm/năm cho toàn bộ vùng nghiên cứu đã được [34] xác định. Như đã đề cập ở trên, nghiên cứu của Vöge chỉ xử lý hai ảnh bằng phương pháp DInSAR, với tất cả các bất định có liên quan do sự không đồng nhất về khí quyển, sự mất tương quan do thời gian, Chúng tôi nhận thấy sự tương đồng lớn giữa số liệu InSAR và số liệu đo mặt đất trong giai đoạn 6/2007 đến 9/2008, điều này mang tính quyết định đối với việc đánh giá kết quả thu được từ phương pháp giao thoa radar InSAR (hình 4c). Trong cùng giai đoạn cả hai tập hợp số liệu không tuân theo hàm số tuyến tính, phù hợp với vận tốc không đổi, nhưng vạch ra một hàm số đa thức bậc hai. Điều này cho thấy sự suy giảm chậm của vận tốc lún theo phương thẳng đứng theo thời gian, nó biểu lộ động thái của lớp đất ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA Tạp chí KHCN Xây dựng - số 2/2015 67 chịu sự giảm áp lực lỗ rỗng do hút nước ngầm. Do đó, trừ các nhiễu lớn chứa trong số liệu đối với giai đoạn sau 9/2008, tín hiệu lún là rõ ràng không ổn định nhưng bao gồm những dịch chuyển tạm thời. 4. Kết luận Trong những năm qua, quá trình đô thị hóa thúc đẩy sự mở rộng đô thị và mạng lưới cơ sở hạ tầng với nhiều dự án xây dựng xung quanh vùng đô thị Hà Nội. Các phương pháp phù hợp để theo dõi tai biến địa chất trong vùng đô thị mới là hết sức cần thiết đối với các nhà quản lý để theo dõi hiện tượng lún đất và hạn chế các hậu quả do nó gây ra. Sử dụng kỹ thuật giao thoa radar, chúng tôi khảo sát biến dạng mặt đất liên quan tới lún. Phương pháp này tỏ ra cạnh tranh với các kỹ thuật đo mặt đất truyền thống liên quan đến thời gian và giá thành, vì thuật toán ngày càng được cải thiện và số liệu vệ tinh radar ngày càng phong phú. Cách tiếp cận phân tích chuỗi số liệu đa thời gian cung cấp một độ phủ không gian hoàn chỉnh về khu vực nghiên cứu và việc sử dụng các ảnh vệ tinh ALOS thu chụp trên kênh L cho phép chúng tôi vượt qua vấn đề mất tương quan trong vùng nhiệt đới như thành phố Hà Nội. Do đó, lần đầu tiên, bản đồ vận tốc sụt lún trung bình của vùng đô thị thành phố Hà Nội được xây dựng. Bản đồ này chỉ ra tốc độ lún theo phương thẳng đứng trung bình biến đổi từ 0 đến 68 mm/năm, và các vùng biến dạng lớn nhất tương ứng với ba khu vực ở quận Hoàng Mai, quận Hà Đông – Thanh Xuân và huyện Hoài Đức- Từ Liêm. Nghiên cứu này chỉ ra rằng phương pháp phân tích chuỗi số liệu đa thời gian có hiệu quả đối với các khu vực nơi các công trình nhân tạo chiếm ưu thế như trong môi trường đô thị. Nhưng đối với các cánh đồng nông nghiệp, việc xác định lún trở nên khó khăn hơn do thiếu các vật tán xạ. Trong trường hợp này, cần thiết phải phối hợp một số phương pháp giao thoa radar để có kết quả phân tích biến dạng tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AMELUNG, F., D. GALLOWAY, J. BELL, H. ZEBKER & R. LACZNIAK (1999) Sensing the ups and downs of Las Vegas: InSAR reveals structural control of land subsidence and aquifer-system Geology, 27, 483-486. 2. AOBPAET, A., M. C. CUENCA, A. HOOPER & I. TRISIRISATAYAWONG (2009). Land subsidence evaluation using InSAR time series analysis in Bangkok metropolitan area. In Fringe 2009 Workshop, ed. H. Lacoste-Francis, s12_6aob. Frascati, Italy: ESA Communications. 3. BITELLI, G. & P. RUSSO (1991). Levelling data management for the monitoring of land subsidence. In Proceedings of Fourth International Symposium on Land Subsidence, ed. A. I. Johnson, 453-462. Houston, USA: IAHS Publication. 4. BÜRGMANN, R., P. A. ROSEN & E. J. FIELDING (2000) Synthetic aperture radar interferometry to measure Earth's suface topography and its deformation. Earth and Planetary Sciences, 28, 169-209. 5. CARNEC, C. & D. RAUCOULES (2001) Spécificite du milieu urbain tropical pour la cartographie des deformations de surface par interferometrie RADAR (ERS) - Application au pompage dans les systemes aquiferes a Djakarta et Hanoi. Bulletin - Société française de photogrammétrie et de télédétection, 161, 40-45. 6. CROSETTO, M., O. MONSERRAT, M. CUEVAS- GONZÁLEZ, N. DEVANTHÉRY & B. CRIPPA (2013). Analysis of X-band very high resolution Persistent Scatterer Interferometry data over urban area. In International Archives of the Photogrammetry, Remote Sensing and Spatial Information Science, 47-51. Hannover, Germany. 7. CUI, Z.-D. & J. YA-JIE (2012). Study on the mechanisms of the soil consolidation and land subsidence caused by the high-rise building group in the soft soil area. Disaster Advances, 5, 604-609. 8. ĐINH, V. X., et al. (2008). Báo cáo đo lún tại khu nhà mới tại Văn Quán - tỉnh Hà Tây Hà Nội, HUD-CIC Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Hà Nội. 9. FROESE, C. R. & S. MEI (2008). Mapping and monitoring coal mine subsidence using LiDAR and InSAR. In GeoEdmonton'08: 61st Canadian Geotechnical Conference, ed. Canadian-Geotechnical- Society, 1127-1133. Edmonton, Canada: Canadian Geotechnical Society. 10. GALLOWAY, D. L., K. W. HUDNUT, S. E. INGEBRITSEN, S. P. PHILLIPS, G. PELTZER, F. ROGEZ & P. A. ROSEN4 (1998) Detection of aquifer system compaction and land subsidence using interferometric synthetic aperture radar, Antelope Valley, Mojave Desert, California. Water Resour Research, 34, 2573-2585. 11. GSO (2009). Population and population density by province in 2009. Hanoi: General Statistics Office Vietnam. 12. HOLZER, T. L. & D. L. GALLOWAY (2005). Impact of land subsidence caused by withdrawal of underground fluids in the United States. In Humans as geologic agents, eds. J. Ehlen, W. C. Haneberg & R. A. Larson, 87-99. Boulder: The Geological Society of America. ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA Tạp chí KHCN Xây dựng - số 2/2015 68 13. HOOPER, A., D. BEKAERT, K. SPAANS & M. ARIKAN (2012). Recent advances in SAR interferometry time series analysis for measuring crustal deformation. Tectonophysics, 514-517, 1-13. 14. HOOPER, A., P. SEGALL & H. ZEBKER (2007) Persistent scatterer interferometric synthetic aperture radar for crustal deformation analysis, with application to Volcan Alcedo, Galapagos. Journal of Geophysical Research, 112, B07407. 15. IKEHARA, M. E. (1994) Global Positioning System surveying to monitor land subsidence in Sacramento Valley, California, USA. Journal des Sciences Hydrologiques, 39, 417-430. 16. JOHNSON, A. I. (1995). A quarter century of IAHS/UNESCO technology transfer regarding land subsidence occurrence and research In Fifth International Symposium on Land subsidence, eds. F. B. J. Barends, F. J. J. Brouwer & F. H. Schroder, ix-x. Hague, The Netherlands: IAHS Publication. 17. JUSSERET, S., C. BAETEMAN & A. DASSARGUES (2010). The stratigraphical architecture of the quaternary deposits as support for hydrogeological modelling of the central zone of Hanoi. Geologica Belgica, 13, 77-90. 18. LÊ, V. T. & T. M. Đ. HỒ (2008). Ứng dụng kỹ thuật InSAR vi phân trong quan trắc biến dạng mặt đất khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Phát triển KH và CN, 11, 121-130. 19. MASSONNET, D. & K. L. FEIGL (1998) Radar interferometry and its application to changes in the Earth's surface. Reviews of Geophysics, 36, 441-500. 20. MONTANGERO, A., L. N. CAU, N. V. ANH, V. D. TUAN, P. T. NGA & H. BELEVI (2007). Optimising water and phosphorus management in the urban environmental sanitation system of Hanoi, Vietnam. Science of The Total Environment, 384, 55-66. 21. NARENCA (2009). Bản đồ hành chính thành phố Hà Nội. C. H. Nguyễn. Ha Noi, Nhà xuất bản Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam. 22. NG, A. H.-M., L. GE, K. ZHANG, H.-C. CHANG, X. LI, C. RIZOS & M. OMUR (2011) Deformation mapping in three dimensions for underground mining using InSAR - Southern highland coal field in New South Wales, Australia. International Journal of Remote Sensing, 32, 7227-7256. 23. NGUYEN, N. M (2007). Review and analysis of Hanoi land subsidence monitoring data. In School of Engineering and Technology, 140. Bangkok: Asian Institute of Technology. 24. NGUYEN, Q. T. & D. C. HELM (1995). Land subsidence due to groundwater withdrawal in Hanoi, Vietnam In Fifth International Symposium on Land Subsidence, eds. F. B. J. Barends, F. J. J. Brouwer & F. H. Schroder, 55- 60. Hague, The Netherlands: IAHS Publication. 25. NOEL, A (2008). Apport de l'interférométrie radar dans la gestion des risques naturels: Cas de Hanoi, Vietnam. In Faculté des Science, 106. Liège: Université de Liège. 26. PELTZER, G., F. CRAMPÉ, S. HENSLEY & P. ROSEN (2001). Transient strain accumulation and fault interaction in the Eastern California shear zone Geology, 29, 975-978. 27. PHẠM, Q. V., T. T. H. LÊ, T. T. LÊ, T. A. LƯU, T. B. NGUYỄN, T. K. D. VŨ, X. P. ĐẶNG, S. NGUYỄN, D. T. NGUYỄN, N. T. TRỊNH, P. D. TRƯƠNG, N. C. ĐẶNG, V. A. TRẦN, H. L. PHẠM, B. D. NGUYỄN & T. N. TRẦN, (2009). Nghiên cứu ứng dụng phương pháp INSAR vi phân trong quan trắc lún đất do khai thác nước ngầm. Hà Nội: Viện Địa lý. 28. POLAND, J. F (1984). Guidebook to studies of land subsidence due to groundwater withdrawal. Paris: Unesco. 29. PPJ, VIAP & HUPI (2011). Hanoi Master Plan to 2030 and vision to 2050. 196. Hanoi: Ha Noi's Department of Planning and Architecture. 30. RAUCOULES, D. & C. CARNEC (1999). DEM derivation and subsidence detection on Hanoi from ERS SAR. In FRINGE99- Advancing ERS SAR Interferometry from applications towards operations, on CDROM. Liege, Belgium: ESA Publications Division. 31. TAKEUCHI, S. & S. YAMADA (2002). Comparison of InSAR Capability for Land Subsidence Detection between C-band and L-band SAR In International Geoscience and Remote Sensing Symposium, 2379- 2381. Toronto, Canada: IEEE Publications. 32. TRAN, V. A. (2007). Synthetic aperture radar interferometry for DEM generation and subsidence detection over Hanoi city, Vietnam. In Department of GeoScience, 102. Osaka: University of Osaka. 33. TRINH, M. T. & D. G. FREDLUND (2000) Modeling subsidence in the Hanoi city area. Canadian geotechnical journal 37, 621-636. 34. VÖGE, M. (2011). Subsidence Estimation Over the City of Hanoi using SAR Interferometry. Oslo: NGI. 35. WEI, M. & D. T. SANDWELL (2010). Decorrelation of L- band and C-band Interferometry over Vegetated Areas in California. IEEE Transaction on Geoscience and Remote Sensing, 48, 1-11. 36. ZEBKER, H. A., P. A. ROSEN & S. HENSLEY (1997) Atmospheric Effects in Interferometric Synthetic Aperture Radar Surface Deformation and Topographic Maps. Journal of Geophysical Research, 102, 7547–7563. Ngày nhận bài: 12/5/2015. Ngày nhận bài sửa lần cuối: 15/6/2015.
File đính kèm:
- ap_dung_phuong_phap_giao_thoa_radar_de_xac_dinh_hien_tuong_l.pdf