Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ

Mở đầu: Hầu hết những người cao tuổi khi đến phòng khám bệnh đều phàn nàn với bác sỹ họ bị khó ngủ

hoặc mất ngủ. Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng

đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi. Tỷ lệ mất ngủ ở người cao tuổi ngày càng cao và có

rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến giấc ngủ ở người cao tuổi. Nghiên cứu này nhằm tìm ra những bệnh lý nội

khoa, những rối loạn tâm thần và những thuốc đang sử dụng ở người cao tuổi bị mất ngủ.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên cứu phân thành 2

nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra đầy đủ như nhau

về các đặc điểm dịch tễ học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen cá nhân và các

đặc điểm của giấc ngủ của họ.

Kết quả: Các yếu tố có liên quan ghi nhận gồm bệnh lý dạ dày (OR=2,67), bệnh khớp mãn (OR=2,07), suy

thận mãn (OR=4,51), bệnh mạch vành (OR=2,28), bệnh lý trầm cảm và rối loạn lo âu (p<0,001), dùng corticoides

(OR=2,14), dãn phế quản (OR=2,04).

Kết luận: Có nhiều yếu tố liên quan đến mất ngủ người cao tuổi trong đó số lượng các bệnh lý nội khoa, số

lượng thuốc sử dụng, một số bệnh lý nội khoa và nhất là các rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu là ghi nhận có liên

quan mạnh.

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 6920
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ

Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 376
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC BỆNH LÝ NỘI KHOA, CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN VÀ 
VIỆC SỬ DỤNG THUỐC TRÊN NGƯỜI CAO TUỔI MẤT NGỦ 
Đỗ Thị Xuân Hương*, Nguyễn Minh Đức**, Nguyễn Văn Trí ***, Ngô Tích Linh **** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Hầu hết những người cao tuổi khi đến phòng khám bệnh đều phàn nàn với bác sỹ họ bị khó ngủ 
hoặc mất ngủ. Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng 
đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi. Tỷ lệ mất ngủ ở người cao tuổi ngày càng cao và có 
rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến giấc ngủ ở người cao tuổi. Nghiên cứu này nhằm tìm ra những bệnh lý nội 
khoa, những rối loạn tâm thần và những thuốc đang sử dụng ở người cao tuổi bị mất ngủ. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên cứu phân thành 2 
nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra đầy đủ như nhau 
về các đặc điểm dịch tễ học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen cá nhân và các 
đặc điểm của giấc ngủ của họ. 
Kết quả: Các yếu tố có liên quan ghi nhận gồm bệnh lý dạ dày (OR=2,67), bệnh khớp mãn (OR=2,07), suy 
thận mãn (OR=4,51), bệnh mạch vành (OR=2,28), bệnh lý trầm cảm và rối loạn lo âu (p<0,001), dùng corticoides 
(OR=2,14), dãn phế quản (OR=2,04). 
Kết luận: Có nhiều yếu tố liên quan đến mất ngủ người cao tuổi trong đó số lượng các bệnh lý nội khoa, số 
lượng thuốc sử dụng, một số bệnh lý nội khoa và nhất là các rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu là ghi nhận có liên 
quan mạnh. 
Từ khóa: mất ngủ, người cao tuổi. 
ABSTRACT 
THE ASSOCIATION OF MEDICAL DISEASES, MENTAL DISORDERS AND THE USE OF DRUGS IN THE 
INSOMNIA ELDERLY 
Do Thi Xuan Huong, Nguyen Minh Duc, Nguyen Van Tri, Ngo Tich Linh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 376 - 381 
Introduction: Most elderly patients who went to the clinic complained to doctors that they had trouble with 
sleeping or insomnia. Today, insomnia has been acknowleged as one of the causes affecting the health and quality 
of life of the elderly.The rate of insomnia in the elderly is increasing and there are many factors affecting the sleep 
in the elderly. The aim of this study is to find out the medical conditions, mental disorders and the drugs that have 
been being used in the insomnia elderly. 
Research methodology: case-control study. There are 306 patients in the study divided into two groups: 
insomnia (161) and control group (145). The participants were equally under full investigation of the 
epidemiological characteristics, other medical conditions, mental, environmental factors, personal habits and 
characteristics of their sleep. 
Results: The factors related records, including gastric pathology (OR = 2.67), arthritis patients (OR = 2:07), 
** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. ** Bộ môn Lão khoa, ĐHYD TP Hồ Chí Minh 
*** Bộ Môn Tâm Thần, ĐHYD TP Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: BS Đỗ Thị Xuân Hương ĐT :0903883573 Email: thxuanh@yahoo.com.vn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 377
chronic renal failure (OR = 4:51), coronary artery disease (OR = 2.28), disease Management of depression and 
anxiety disorders (p <0.001), use corticoides (OR = 2.14), bronchodilators (OR = 2:04). 
Conclusion: There are many factors associated with insomnia in the elderly, however the number of medical 
conditions, the numbers of drug used, some medical conditions and particularly depressive disorders, anxiety 
disorders are recorded that strongly related. 
Key words: insomnia, elderly. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Tỷ lệ mất ngủ ở người cao tuổi ngày càng 
cao. Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến giấc 
ngủ ở người cao tuổi: bệnh lý nội khoa, tâm 
thần, thuốc men, môi trường....Vấn đề nghiên 
cứu là “tại sao tỉ lệ mất ngủ ở người cao tuổi 
đang gia tăng?”. Ở nước ta giấc ngủ người cao 
tuổi chưa được quan tâm đến, rất ít công trình 
nghiên cứu về vấn đề nầy. Từ thực tiễn này 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu về các yếu tố 
liên quan góp phần ảnh hưởng gây mất ngủ ở 
người cao tuổi mà trong nghiên cứu này là 
những bệnh lý nội khoa, những rối loạn tâm 
thần và những thuốc đang sử dụng ở người cao 
tuổi. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Dân số mục tiêu 
Tất cả bệnh nhân cao tuổi ≥ 60 tuổi có mất 
ngủ và không mất ngủ đến khám và điều trị nội 
ngoại trú tại BV Thống Nhất và BV Nguyễn Tri 
Phương từ tháng 5 năm 2009 đến tháng 5 năm 
2010 vì những nguyên nhân khác nhau. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
 - Nhóm bệnh: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥ 
60 tuổi) có vấn đề về mất ngủ đồng ý tham gia 
nghiên cứu: 
Thời gian đi vào giấc ngủ kéo dài trên 30 
phút. 
Trong giấc ngủ, thời gian tỉnh giấc nhiều 
lần, thời gian tổng cộng trên 30 phút. 
Thức dậy buổi sáng quá sớm. 
Cảm giác mệt mỏi sau khi thức dậy và ngủ 
ngày quá nhiều. 
Những rối loạn nầy xảy ra ít nhất 3 lần trong 
1 tuần, kéo dài ít nhất 1 tháng, gây ra những khó 
chịu và biến chứng trong ngày. 
Khó duy trì tình trạng thức ngủ hay chu kỳ 
thức ngủ hằng định. 
Có các vấn đề khác gây cản trở giấc ngủ. 
 - Nhóm chứng: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥ 
60 tuổi) có vấn đề về nội khoa, tâm thần ... đến 
BV khám và điều trị nhưng không bị mất ngủ. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân có rối loạn tri giác hoặc hôn mê. 
Bệnh nhân bệnh tâm thần thuộc nhóm loạn 
thần đã được chẩn đoán xác định trước đó và 
đang điều trị. 
Cỡ mẫu 
 Được tính theo công thức sau: 
 
2
1 1 1 1 2 21 / 2 1
2
1 2
Z 2P 1 P Z P 1 P P 1 P
n
P P
 
→ n = 121 người cho mỗi nhóm bệnh và chứng. 
Thực tế chúng tôi thu thập được 161 BN nhóm 
mất ngủ và 145 bệnh nhân nhóm chứng. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu bệnh chứng. 
Phương pháp tiến hành nghiên cứu 
- Trực tiếp thu thập dữ liệu từ bệnh nhân 
đến khám tại Khoa Khám bệnh, Khoa Lão, các 
Khoa Nội Tổng hợp BV Nguyễn Tri Phương và 
BV Thống Nhất với các tiêu chuẩn chọn bệnh và 
các tiêu chuẩn loại trừ nêu trên. 
 - Các bệnh nhân được chọn vào mẫu nghiên 
cứu sẽ được: 
 * Khám lâm sàng đánh giá tình trạng mất 
ngủ và không mất ngủ. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 378
 * Thực hiện bảng câu hỏi khảo sát về rối 
loạn giấc ngủ (RLGN) và các thang điểm đánh 
giá tình trạng tâm thần. 
 - Sau đó nhóm bệnh nhân này được tiếp tục 
tái khám và theo dõi ít nhất 2 lần sau đó để xác 
định tình trạng mất ngủ. 
Công cụ thu thập số liệu 
* Bảng câu hỏi khảo sát về RLGN. 
* Thang HDRS (Thang HAM-D). 
* Thang WS (Worry Scale for Older Adulds). 
* Thang buồn ngủ EPWORTH. 
 Phương pháp xử lý số liệu 
Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 
13.0 for Windows. 
KẾT QỦA 
Đặc điểm bệnh lý nội khoa 
Bệnh lý cấp tính nặng 
Bảng 1. Số bệnh lý cấp tính trên một bệnh nhân 
Số bệnh lý 
Nhóm NC Nhóm chứng 
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % 
Không 60 37,3 89 61,4 
1 bệnh 68 42,2 46 31,7 
≥ 2 bệnh 33 20,5 10 6,9 
Tổng 161 100,0 145 100,0 
2 = 21,414, p < 0,001 
 Di chứng bệnh lý cấp tính nặng 
Bảng 2. Di chứng 
Di chứng* 
Nhóm NC Nhóm chứng 
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % 
Có 47 29,4 30 20,7 
Không 113 70,6 115 79,3 
Tổng 161 100,0 145 100,0 
2 = 3,041, p = 0,081; * Liệt nửa người, liệt hạ chi, gãy 
xương, suy hô hấp mãn 
Bệnh lý mãn tính 
Bảng 3. Tiền căn có bệnh mãn tính 
Bệnh mãn 
tính 
Nhóm NC Nhóm chứng Chung 
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % 
Có 156 96,9 135 93,1 291 95,1 
Không 5 3,1 10 6,9 15 4,9 
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0 
2 = 2,352, p = 0,125 
Bảng 4. Số bệnh lý mãn tính trên một bệnh nhân 
Số bệnh 
lý 
Nhóm NC Nhóm chứng Chung 
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % 
Không 5 3,1 10 6,9 15 4,9 
1 bệnh 25 15,5 44 30,3 69 22,5 
2 bệnh 46 28,6 45 31,0 91 29,7 
> 2 bệnh 85 52,8 46 31,7 131 42,8 
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0 
2 = 17,732, p < 0,001 
Bảng 5. Thời gian phát hiện bệnh lý mãn tính 
Thời gian 
Nhóm NC Nhóm chứng Chung 
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % 
≤ 6 tháng 1 0,6 0 1 0,3 
6 - 12 tháng 2 1,3 3 2,2 5 1,7 
> 12 tháng 153 98,1 132 97,8 285 97,9 
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0 
2 = 1,238, p = 0,538 
Mô tả bệnh lý mãn tính 
Bảng 6. Các bệnh mãn tính 
Bệnh mãn 
tính 
Nhóm 
P 
OR 
(95%KTC) NC Chứng 
Tâm thần 4 (2,5) 0 0,125 
1,92 
(1,72 – 2,14) 
Parkinson 3 (1,9) 4 (2,8) 0,601 
0,67 
(0,15 – 3,04) 
Bệnh lý mạch 
máu não 
14 (8,7) 5 (3,4) 0,058 
2,67 
(0,94 – 7,59) 
Bệnh lý dạ dày 10 (6,2) 2 (1,4) 0,038 
4,37 
(1,02 – 21,98) 
Bệnh lý gan 
mật 
1 (0,6) 5 (3,4) 0,075 
0,17 
(0,02 – 1,52) 
Suy thận mạn 14 (8,7) 3 (2,1) 0,012 
4,51 
(1,27 – 16,02) 
Bệnh lý TLT 15 (9,3) 4 (2,8) 0,018 
3,62 
(1,17 – 11,18) 
Bệnh khớp 
mãn 
58 (36,0) 
31 
(21,4) 
0,005 
2,07 
(1,24 – 3,45) 
Bệnh ĐTĐ 36 (22,4) 
37 
(25,5) 
0,518 
0,84 
(0,49 – 1,42) 
Bệnh phổi mãn 31 (19,3) 
19 
(13,1) 
0,146 
1,58 
(0,85 – 2,94) 
Suy tim mãn 8 (5,0) 2 (1,4) 0,078 
3,74 
(0,78 – 17,91) 
Bệnh huyết áp 119 (73,9) 
110 
(75,9) 
0,695 
0,90 
(0,54 – 1,51) 
Rối loạn nhịp 
tim 
4 (2,5) 1 (0,7) 0,216 
3,67 
(0,41 – 33,21) 
Bệnh mạch 
vành 
43 (26,7) 
20 
(13,8) 
0,005 
2,28 
(1,27 – 4,09) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 379
Đặc điểm về bệnh lý tâm thần 
Bảng 7. Rối loạn trầm cảm theo điểm thang HAM-D 
Nhóm 
bệnh nhân 
Nhóm NC Nhóm chứng Chung 
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % 
Không trầm 
cảm 
55 34,2 133 91,7 188 61,4 
Trầm cảm 
nhẹ 
100 62,1 11 7,6 111 36,3 
Trầm cảm 
nặng 
6 3,7 1 0,7 7 2,3 
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0 
2 = 106,749, p < 0,001 
Bảng 8. Rối loạn lo âu theo thang WS 
Điểm thang WS 
Nhóm 
P 
NC Chứng 
Điểm TB về tài chính 7,16 ± 3,56 6,29 ± 2,78 0,019 
Điểm TB về sức khỏe 
25,76 ± 
12,16 
17,69 ± 6,82 < 0,001 
Điểm TB về điều kiện 
xã hội 
15,92 ± 7,14 11,54 ± 4,04 < 0,001 
Điểm trung bình chung 
48,47 ± 
18,38 
35,28 ± 10,77 < 0,001 
Đặc điểm về dược phẩm 
Bảng 10. Số lượng thuốc trung bình sử dụng trên 
một bệnh nhân 
Nhóm NC Nhóm chứng Chung 
2,65 ± 1,73 2,13 ± 1,81 2,40 ± 1,79 
F = 6,437, p = 0,012 
Bảng 11. Loại thuốc điều trị 
Thuốc điều trị 
Nhóm 
P OR (95%KTC) 
NC Chứng 
Corticoids 
20 
(12,4) 
9 (6,2) 0,047 
2,14 
(0,94 – 4,87) 
Kháng viêm 
nonsteroids 
2 (1,2) 3 (2,1) 0,569 
0,59 
(0,09 – 3,61) 
Ức chế proton 5 (3,1) 3 (2,1) 0,570 
1,52 
(0,35 – 6,46) 
Dãn PQ 
25 
(15,5) 
12 (8,3) 0,038 
2,04 
(0,98 – 4,22) 
Sulfonylureas 16 (9,9) 18 (12,4) 0,419 
0,78 
(0,38 – 1,59) 
Biguanides 
17 
(10,6) 
13 (9,0) 0,640 
1,19 
(0,56 – 2,56) 
Insuline 6 (3,7) 5 (3,4) 0,896 
1,08 
(0,32 – 3,63) 
Ức chế calci 
72 
(44,7) 
58 (40,0) 0,404 
1,21 
(0,77 – 1,91) 
Ức chế men 
chuyển 
42 
(26,1) 
45 (31,0) 0,338 
0,78 
(0,48 – 1,29) 
Thuốc điều trị 
Nhóm 
P OR (95%KTC) 
NC Chứng 
Ức chế calci + Ức 
chế men chuyển 
8 (5,0) 15 (10,3) 0,075 
0,45 
(0,18 – 1,11) 
Ức chế beta 3 (1,9) 10 (6,9) 0,029 
0,25 
(0,07 – 0,95) 
Lợi tiểu 5 (3,1) 3 (2,1) 0,570 
1,52 
(0,36 – 6,46) 
Nitrat 
19 
(11,8) 
10 (6,9) 0,144 
1,81 
(0,81 – 4,02) 
BÀN LUẬN-KẾT LUẬN 
Đặc điểm về bệnh lý nội khoa 
Bệnh lý cấp tính nặng 
Trong nhóm tiền sử có bệnh lý cấp tính 
nặng, sự cố có bệnh cấp tính nặng và số bệnh 
cấp tính nặng có ảnh hưởng lên giấc ngủ, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001, trong 
khi các di chứng của bệnh lý cấp tính nặng lại 
không p=0,081. Điều này có lẽ do mắc di chứng 
bệnh trong một thời gian dài nên bệnh nhân đã 
thích nghi được và nó không ảnh hưởng đến 
giấc ngủ, còn sự cố có bệnh cấp tính nặng đã 
ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trí người bệnh và 
ảnh hưởng đến giấc ngủ. 
Bệnh lý mãn tính 
Trong nhóm tiền căn có bệnh mãn tính, thời 
gian mắc bệnh lý mãn tính không có gì khác biệt 
giữa 2 nhóm p=0,538 nhưng số lượng bệnh mãn 
tính mắc giữa 2 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê p<0,001. Điều này rõ ràng là đa số 
người cao tuổi thường mang trong người ít nhất 
một bệnh lý mãn tính nào đó và họ chấp nhận 
tình trạng này xem như đây là một sự thay đổi 
tất yếu trong quá trình lão hóa như tăng huyết 
áp, thoái hóa khớp, Parkinson, mờ mắt, ăn uống 
kémnhưng nếu số lượng bệnh mãn tính này 
tăng lên nhiều bệnh cùng lúc thì sẽ có ảnh 
hưởng lên thể chất và tâm lý của người cao tuổi 
từ đó gây mất ngủ. 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm 
bệnh nhân tiền căn có bệnh lý mãn tính sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm mất ngủ 
và nhóm chứng chỉ xảy ra ở nhóm bệnh lý mạch 
vành (p=0,005), bệnh lý khớp mãn tính (p=0,005), 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 380
bệnh lý thận mãn (p=0,012), bệnh lý tiền liệt 
tuyến (p=0,018) và bệnh lý dạ dày (p=0,038). Kết 
quả này phù hợp với Marci M (1), riêng những 
nhóm bệnh mạch máu não, tiểu đường, bệnh 
phổi sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, 
điều này có lẽ do mẫu nghiên cứu nhỏ chưa đủ 
sức khai thác hết những ảnh hưởng của bệnh lý 
nội khoa lên giấc ngủ. So sánh các nghiên cứu 
khác: 
Trong một nghiên cứu khảo sát ở Mỹ của 
Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2) về những 
yếu tố liên quan đến mất ngủ cũng chỉ ghi nhận 
những tình trạng có liên quan như béo phì 
(OR=1,15), tăng huyết áp (OR=1,32), suy tim 
sung huyết (OR=2,24). Trong nghiên cứu của Su 
TP (4) các tình trạng nội khoa ảnh hưởng đến 
giấc ngủ là tiểu đêm (OR=20,6), đau (OR=2,4), 
trầm cảm (OR=2,2). Theo Thái Minh Trung, 
những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy 
rằng chứng mất ngủ thường đi đôi với những 
bệnh lý tâm thần và thể xác. Những bệnh lý sau 
đây thường đi đôi với chứng mất ngủ: trầm cảm 
(OR=8,2), suy tim (OR=2,5), loét dạ dày (OR=1,8), 
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (OR=1,5). 
Đặc điểm về bệnh lý tâm thần kinh 
Các rối loạn trầm cảm và lo âu 
Các rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu đều 
có ảnh hưởng đến mất ngủ, sự khác biệt này có 
ý nghĩa thống kê p<0,001. So sánh với các 
nghiên cứu khác: 
Kết quả này phù hơp với Y văn, mất ngủ có 
mối liên quan chặt chẽ và có tính nhân quả với 
trầm cảm và rối loạn lo âu. Kết quả nghiên cứu 
của các tác giả Châu Á cũng phù hợp với nghiên 
cứu của chúng tôi, trong nghiên cứu của Su TP 
ở Đài Loan (4) có mối tương quan giữa trầm 
cảm và mất ngủ (OR=2,2). Tương tự, trong 
nghiên cứu của Pearson NJ ở Mỹ (2) có sự tương 
quan giữa rối loạn lo âu và trầm cảm với mất 
ngủ (OR=5,64). Ở Việt Nam, theo một thống kê 
của bệnh viện Tâm thần TP.HCM (1) hơn 80% 
bệnh nhân đến khám trầm cảm đều có triệu 
chứng mất ngủ. 
Qua các nghiên cứu chúng tôi nhận xét 
rằng mất ngủ và các rối loạn trầm cảm, lo âu 
có mối liên hệ nhân quả với nhau, chúng ta 
lần đầu tiếp xúc với bệnh nhân không thể biết 
đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả nhưng 
rõ ràng là tỷ lệ trầm cảm, lo âu trên bệnh nhân 
mất ngủ rất cao và ngược lại tỷ lệ mất ngủ 
xuất hiện trên bệnh nhân rối loạn trầm cảm, lo 
âu cũng cao không kém. 
Trong xã hội ngày nay, chính áp lực công 
việc, nhịp sống thời công nghiệp và lối sống với 
nhiều dịch vụ của cư dân thành thị là những 
nguyên nhân chính ảnh hưởng đến chất lượng 
giấc ngủ. Xu thế phát triển quá nhanh của kinh 
tế xã hội đã làm con người khó thích ứng kịp và 
áp lực về mức sống cũng góp phần không nhỏ 
làm mất ngủ. Đó là chứng mất ngủ do áp lực 
công việc, ban đầu chỉ là khó ngủ do chưa thích 
ứng khi thay đổi môi trường làm việc hoặc do 
sức ép công việc tác động lên tâm lý, dần dần 
nếu chứng khó ngủ không được điều trị hoặc do 
người bệnh lo lắng quá mức thì tình trạng nặng 
hơn, dẫn đến mất ngủ kéo dài, mãn tính và xuất 
hiện kèm theo những triệu chứng đau đầu, cáu 
gắt, suy nhược và trầm cảm. 
Đặc điểm về dược phẩm 
Theo Marci M & cs (1), số lượng thuốc đã và 
đang sử dụng ảnh hưởng mạnh đến mức độ 
nặng nhẹ của những RLGN do ảnh hưởng trực 
tiếp lên cấu trúc giấc ngủ hoặc là do tác dụng 
phụ của thuốc. Các nhóm thuốc chính được kê 
đơn có thể gây mất ngủ là: các thuốc chống trầm 
cảm (SSRIs), thuốc thông mũi, thuốc hạ huyết 
áp, thuốc dãn phế quản, nhóm thuốc beta-
blockers, và corticoides. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng vậy, 
rõ ràng là tổng lượng thuốc mà một bệnh nhân 
phải dùng có ảnh hưởng đến mất ngủ và sự 
khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê 
(p=0,012). Các nhóm thuốc có ảnh hưởng đến 
giấc ngủ là nhóm corticoides (p=0,047), nhóm 
thuốc dãn phế quản (p=0,038) và nhóm ức chế 
beta (p=0,029). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 381
Trên thực tế nước ta và có lẽ cũng ở nhiều 
nước khác, do sự tiến bộ của y khoa thường đi 
theo hướng chuyên khoa sâu nên một bệnh 
nhân nhất là bệnh nhân cao tuổi cơ bản mang 
trong người nhiều bệnh cùng lúc có thể được 
điều trị bởi nhiều bác sỹ trong nhiều lĩnh vực 
khác nhau và được sử dụng số lượng đơn thuốc 
tương ứng với từng bệnh lý mà họ mắc phải, kết 
quả cuối cùng là một bệnh nhân phải uống quá 
nhiều thuốc mà không có sự quản lý chung của 
một bác sỹ nào. Do đó, điều cần thiết là mỗi 
bệnh nhân cần phải có một bác sỹ quản lý tất cả 
các loại thuốc để biết được tình trạng bệnh lý 
của bệnh nhân một cách tổng hợp nhất. Để thực 
hiện được điều này cần thiết phải phát triển 
mạng lưới bác sỹ gia đình, khi đó bệnh nhân chỉ 
đến bác sỹ chuyên khoa khi thật sự cần thiết và 
từ đó tránh sử dụng cùng lúc nhiều loại thuốc 
ảnh hưởng đến giấc ngủ. 
KẾT LUẬN 
 Có nhiều yếu tố liên quan đến mất ngủ 
người cao tuổi trong đó số lượng các bệnh lý nội 
khoa, số lượng thuốc sử dụng, một số bệnh lý 
nội khoa- tâm thần nhất là các rối loạn trầm 
cảm, rối loạn lo âu là ghi nhận có liên quan 
mạnh, người bác sỹ lâm sàng phải biết xem xét 
nguyên nhân nào là chính từ đó có cái nhìn chính 
xác và thái độ điều trị thích hợp cho từng bệnh 
nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Marci M, Melanie K, et al (2009), “Sleep disturbances in aging. 
Advances in cell aging and gerontology”, Sleep and Aging, Vol. 
17, 33-60. 
2. Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2006), “Insomnia, trouble 
sleeping, and complementary and alternative medicine: Analysis 
of the 2002 national health interview survey data”, Arch Intern 
Med, 166(16): 1775-82. 
3. Robert E. Roberts, PhD, Sarah J. Shema, MS and George A. 
Kaplan, PhD (1999). Prospective Data on Sleep Complaints and 
Associated Risk Factors in an Older Cohort. Psychosomatic 
Medicine 61:188-196. 
4. Su TP, Huang SR, Chou P (2004), “Prevalence and risk factors of 
insomnia in community-dwelling Chinese elderly: a Taiwanese 
urban area survey”, Aust N Z J Psychiatry, 38(9): 706-13. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_cac_benh_ly_noi_khoa_cac_roi_loan_tam_than_va.pdf