Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường
Tóm tắt
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị quên
lãng và mất đi, nhưng “Cò ke ôống kháo” - một loại hình âm nhạc dân gian của người Mường vẫn tồn
tại một cách bền bỉ trong đời sống cộng đồng làng Mường. Tìm hiểu những thực hành âm nhạc “Cò ke
ôống kháo” cũng như vai trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” trong sinh hoạt tín ngưỡng và sinh hoạt đời
thường của người Mường, giúp chúng ta lý giải về sức sống bền bỉ và sự trường tồn của nó trong đời sống
văn hóa của cộng đồng làng Mường.
Từ khóa: Cò ke ôống kháo, âm nhạc dân gian, nghệ nhân dân gian, văn hóa dân gian, làng Mường,
người Mường, Hòa Bình
Abstract
In the context of modern society, many traditional cultural factors are facing the danger of being
forgotten and lost, but “Co ke oong khao” - a type of folk music of Muong people still exists persistently in
the life of Muong village community. Understanding the musical practices of “Co ke oong khao” as well
as the role and meaning of “Co ke oong khao” in the religious activities and daily life of the Muong people
is also to explain the enduring vitality and its longevity in the cultural life of Muong village community.
Keywords: Co ke oong khao, folk music, folk artisan, folklore, Muong village, Muong people,
Hoa Binh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường
DI SẢN VĂN HÓA ÂM NHẠC DÂN GIAN “CÒ KE ÔỐNG KHÁO” TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG LÀNG MƯỜNG TRẦN BẠCH DƯƠNG* Tóm tắt Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị quên lãng và mất đi, nhưng “Cò ke ôống kháo” - một loại hình âm nhạc dân gian của người Mường vẫn tồn tại một cách bền bỉ trong đời sống cộng đồng làng Mường. Tìm hiểu những thực hành âm nhạc “Cò ke ôống kháo” cũng như vai trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” trong sinh hoạt tín ngưỡng và sinh hoạt đời thường của người Mường, giúp chúng ta lý giải về sức sống bền bỉ và sự trường tồn của nó trong đời sống văn hóa của cộng đồng làng Mường. Từ khóa: Cò ke ôống kháo, âm nhạc dân gian, nghệ nhân dân gian, văn hóa dân gian, làng Mường, người Mường, Hòa Bình Abstract In the context of modern society, many traditional cultural factors are facing the danger of being forgotten and lost, but “Co ke oong khao” - a type of folk music of Muong people still exists persistently in the life of Muong village community. Understanding the musical practices of “Co ke oong khao” as well as the role and meaning of “Co ke oong khao” in the religious activities and daily life of the Muong people is also to explain the enduring vitality and its longevity in the cultural life of Muong village community. Keywords: Co ke oong khao, folk music, folk artisan, folklore, Muong village, Muong people, Hoa Binh m nhạc - theo cách hiểu đơn giản Mường có “Cò ke ôống kháo”. Thông qua mô nhất, đó là sự lựa chọn, tái tạo và tả, phân tích việc sử dụng âm nhạc “Cò ke Âsắp đặt âm thanh của con người. ôống kháo” của người Mường trong những bối Âm nhạc phổ biến ở mọi tộc người trên thế cảnh cụ thể, có thể lý giải những thông điệp giới, bởi vì con người ở mọi không gian và thời mà họ gửi gắm trong đó, đồng thời chỉ ra vai gian luôn có hứng thú với những âm thanh trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” đối với đời được sắp đặt ấy. Mỗi tộc người lại có những sống cộng đồng làng Mường. cách thức sáng tạo và sử dụng âm nhạc khác 1. Cộng đồng làng Mường trong mối tương nhau, tùy vào cách họ hiểu thế nào là âm nhạc quan với “Cò ke ôống kháo” và nó có ý nghĩa gì đối với họ. Người Mường thường dùng từ xóm hay Ở Việt Nam, nếu người Kinh có Nhã nhạc quêl để chỉ nơi cư trú của mình, những từ này cung đình, phường Bát âm; người Thái sở tương đương với làng. Dân số của một làng hữu các loại Pí, Tính Tẩu, Khèn bè,... thì người Mường thường ở trong khoảng vài chục gia đình, mỗi gia đình có khoảng 4 - 6 người. Về * ThS., Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội mặt địa lý, làng Mường được phân định bằng NGHIÊN CỨU Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂ N H ÓA 29 NGHIÊN CỨU VĂ N H ÓA ranh giới của đất ở, những cánh rừng và ruộng của làng. Số lượng các nghệ nhân thường biến canh tác [5, tr.28-29]. động (người mất do tuổi già, kẻ đi làm ăn xa...), Jeanne Cuisinier, trong cuốn Người Mường nhưng dù số lượng ít hay nhiều thì họ chỉ tập - địa lý nhân văn và xã hội học, đã dành nhiều hợp với nhau thành 01 ban nhạc ở mỗi làng. trang viết về làng Mường. Bà mô tả làng Theo khảo sát của tác giả bài viết, tại thời điểm Mường thường ở gần nguồn nước (suối, sông năm 2019, có những làng Mường chỉ còn 1 - 2 nhỏ), đây là nơi diễn ra các sinh hoạt thiết yếu nghệ nhân, không đủ để tạo thành một ban hàng ngày: lấy nước, tắm giặt, rửa rau, giết nhạc, mỗi khi cần đến âm nhạc “Cò ke ôống mổ gia súc, gia cầm,... và “nó rải ra trên một kháo”, họ phải “mượn” người hoặc ghép với diện tích rộng hơn diện tích cần thiết cho số ban nhạc của làng khác, thậm chí có làng hoàn dân” [2, tr.129]. Bà cũng viết về “lãnh chúa”1 toàn phải nhờ đến ban nhạc ở các làng lân cận. với tư cách là một đặc trưng xã hội của làng Song, đó chỉ là những trường hợp hãn hữu Mường, người Mường gọi vị “lãnh chúa” này không phổ biến. là lang. Pierre Grossin, trong cuốn Tỉnh Mường 2. Các không gian trình diễn âm nhạc “Cò ke Hòa Bình, cũng nhận định rằng, lang tức là các ôống kháo” chúa đất, đứng đầu một làng, tại đây quyền 2.1. Trình diễn âm nhạc “Cò ke ôống kháo” lực của lang là tuyệt đối, đặc biệt đối với việc tại đám tang sở hữu và phân chia sở hữu ruộng đất [4, Theo mô tả của Cuisinier, ban nhạc đám ma tr.72-82]. Mường là “một ban nhạc nhỏ gồm từ năm đến Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế mười bốn người chơi nhạc”, trong đó, người độ lang đạo bị xóa bỏ, vai trò của lang đã lui vào thợ kèn là quản đốc của ban nhạc, ông ta có quá khứ, nhưng ở làng Mường, một số vị trí xã quyền lựa chọn kết nạp hoặc khai trừ những hội và thiết chế văn hoá truyền thống như: thầy người chơi nhạc khác. Cuisinier cũng ghi nhận Mo, thầy Thường, ông T’lượng, bà Mỡi, miếu thờ chỉ có 04 bài nhạc và nhận xét rằng nội dung (hoặc đình), ban nhạc “Cò ke ôống kháo” hay các bài nhạc này “rất nghèo nàn” [2, tr.678-680]. phường Xắc Bùa, vẫn tồn tại đến bây giờ và Trong thực tế, thành viên của ban nhạc đ ... để người đã thấy họ mang tới đây đàn bầu, đàn nguyệt, ta dùng đến nó. mandolin, violon, các loại chũm chọe to nhỏ, Chúng tôi hỏi thầy Mo Bùi Văn T ở xã Sủ và cả những ống nứa để giữ nhịp,11 nhưng Ngòi: “Có khi nào đám tang không sử dụng âm có lẽ người ta dùng các nhạc khí này để làm nhạc “Cò ke ôống kháo”?”. Ông cho biết, việc đẹp về hình ảnh là chính, mà ít quan tâm đến không có âm nhạc “Cò ke ôống kháo” tại tang hiệu quả âm nhạc. lễ có lẽ chưa bao giờ xảy ra. Bản thân ông cho Thứ ba, người xem rất đông, song không rằng “Cò ke ôống kháo” là một yếu tố để tăng chú trọng đến việc thưởng thức âm nhạc, bởi thêm sự long trọng, uy nghi của các nghi lễ. họ liên tục nói chuyện, xô đẩy nhau, gây ồn ào, Còn những người trong gia đình tang chủ thì át cả phần trình diễn của ban nhạc. tin rằng âm nhạc “Cò ke ôống kháo” là một sự chăm sóc dành cho linh hồn người chết, giúp 2.3. Sinh hoạt âm nhạc “Cò ke ôống sáo” cho linh hồn ấy được trấn an, xoa dịu, thanh tại nhà riêng của nghệ nhân thản để trải qua các nghi lễ tang ma và về an Thời gian dành cho sinh hoạt âm nhạc nghỉ ở nơi chôn cất. Bên cạnh đó, chính bản thường là sau bữa cơm tối và kéo dài đến đêm thân họ cũng cảm thấy được âm nhạc an ủi khuya. Các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” sẽ tập trước nỗi buồn tang gia (PVS, ngày 29/4/2019). hợp tại nhà của một thành viên trong nhóm Chi tiết các gia đình tang chủ đi mời ban nhạc, theo lịch hẹn trước. Họ chuẩn bị một bàn uống chăm sóc và cảm ơn họ cũng cho thấy sự tôn nước trà (bàn trà nước lá), thêm vài chén rượu trọng của cộng đồng đối với ban nhạc “Cò ke để nhấm nháp. Họ hòa tấu các bài bản với ôống kháo”. nhau, nhận xét góp ý cho nhau về ngón đàn, Ở đám rước trong lễ hội, nếu âm thanh của câu nhạc, xen lẫn các câu chuyện tâm tình. Họ trống và chiêng vang xa nhằm báo hiệu cho cả cũng thường nhân dịp này để truyền dạy nghề làng Mường biết về hành trình của đám rước, cho học trò. Những buổi sinh hoạt âm nhạc thì âm nhạc “Cò ke ôống kháo” với âm lượng như thế diễn ra thường xuyên, nhất vào dịp nhỏ, nhẹ nhàng có lẽ là món ăn tinh thần mà đầu năm mới. Sau chén rượu xuân ấm áp và người ta chủ ý dành cho các vị thần trong đám những lời chúc tụng, việc chơi đàn và thưởng rước ấy. thức âm nhạc lúc này cho họ những cảm xúc Chúng tôi muốn luận xa hơn rằng, nếu thư giãn, thăng hoa tuyệt vời. sáng tạo và thưởng thức âm nhạc nhằm mục Sinh hoạt “Cò ke ôống kháo” được coi là đích thẩm mỹ là hiện tượng phổ biến ở các một thú vui tao nhã và không bị kiêng kỵ như nền văn hóa, thì mặt khác, nghi lễ tín ngưỡng luyện tập kèn đám, trống cái. Cả làng Mường là những thực hành luôn được người ta dành đều biết đến sinh hoạt này, đôi khi họ còn cho những ưu tiên. Nó biểu hiện từ sự chu tới thưởng thức âm nhạc và tham gia vào các đáo trong chuẩn bị, bài trí các lễ vật, đồ trang cuộc trò chuyện. trí, đến việc dùng lời hay ý đẹp trong các bài 3. Vai trò và ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” khấn Trong bối cảnh đó, âm nhạc được sử đối với cộng đồng làng Mường dụng ở đây là một sự sắp xếp hợp lý. “Cò ke ôống kháo” đã mang lại một không gian khác 3.1. “Cò ke ôống kháo” đáp ứng nhu cầu thường, nó như một thứ trang sức làm cho thẩm mỹ nghi lễ của người Mường trở nên đẹp đẽ và Ở hình thức sinh hoạt “Cò ke ôống kháo” linh thiêng hơn. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ tại nhà của các nghệ nhân, chúng ta dễ dàng trong âm nhạc “Cò ke ôống kháo” là một lý do nhận thấy lý do chính đáng là để thỏa mãn để người Mường dùng nó trong các thực hành nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của họ. Không chỉ tín ngưỡng của mình. NGHIÊN CỨU Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂ N H ÓA 33 NGHIÊN CỨU VĂ N H ÓA Như vậy, có thể khẳng định “Cò ke ôống Gia đình tang chủ là những người phải kháo” đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ trong sinh chịu đựng cảm giác đau đớn, xót xa khi mất đi hoạt đời thường và sinh hoạt tín ngưỡng của người thân. Họ phải trải qua các chi tiết trong cộng đồng làng Mường. tang lễ: sự khóc than, những người đến viếng, 3.2. “Cò ke ôống kháo” mang tính biểu mùi hương đậm đặc, tiếng chiêng trống, kèn tượng đám và những bài bản âm nhạc “Cò ke ôống kháo”. Sự chia sẻ từ âm nhạc khiến họ được an Khi tổ chức tang ma hay lễ hội, người ta đều ủi, thấu hiểu, có lẽ đó là lúc mà họ cảm thấy âm dùng đến “Cò ke ôống kháo”, nó trở thành dấu nhạc “Cò ke ôống kháo” trở nên gần gũi nhất. hiệu để cộng đồng biết rằng đang có sự kiện gì Ví dụ, người ta sẽ trình tấu bài Hót loóng12 mỗi diễn ra ở đây. Và bởi “Cò ke ôống kháo” là của khi gia đình tang chủ dùng bữa. Lúc này, họ người Mường nên nó trở thành một biểu tượng (những người chịu tang) ngồi lại bên nhau, an góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của họ. ủi và động viên nhau ăn uống, đảm bảo sức Mặt khác, cách sử dụng nhạc khí dường khỏe để tiếp tục trải qua các nghi thức của như còn phản ánh quan điểm vũ trụ luận của tang lễ. Âm nhạc của bài Hót loóng rất thong người Mường và cả những điều mà người thả, nhẹ nhàng, khiến người nghe có được Mường trông đợi. Đi sâu vào chiều cạnh này, những giây phút thư giãn, nghỉ ngơi. chúng tôi nhận thấy các quan niệm về cõi trần Đến sự đồng cảm trong cộng đồng làng gian và cõi thiêng được bộc lộ như sau: Mường + Kèn, trống cái được gắn với thế giới thần Tang lễ là sự kiện mà hầu hết ai cũng phải và ma (cõi thiêng), chỉ dùng trong các nghi lễ, trải qua trong cuộc đời của mình. Khi những không sử dụng để giải trí hàng ngày. người đã từng chịu tang đến thăm viếng các + Cò ke, ôống kháo và các nhạc khí khác đám tang khác, tại đây họ lại được chứng kiến gắn với thế giới người (cõi trần gian). Nó là một những chi tiết mà họ đã từng trải qua và ghi thành phần của cuộc sống con người, được nhớ: sự khóc than, mùi hương đậm đặc, tiếng các nghệ nhân dùng để giải trí hàng ngày. chiêng trống, kèn đám và những bài bản âm Điều thú vị ở chỗ, khi ban nhạc “Cò ke ôống nhạc “Cò ke ôống kháo”. Lúc này, cảm giác kháo” trình diễn tại đám tang hay lễ hội, các khi mất mát người thân trong chốc lát được nhạc khí của hai thế giới này sẽ cùng hòa tấu. tái hiện. Điều đó khiến họ dễ đồng cảm với Phải chăng đó là thông điệp mà người Mường gia đình tang chủ hơn. Họ nhận ra một điều muốn bày tỏ một cách kín đáo rằng đây là hiển nhiên rằng, nỗi đau bởi sự chia lìa sinh khoảng thời gian khác thường, là dịp để hai tử là chung đối với tất cả những người đang thế giới có thể giao tiếp, đồng hành với nhau. còn sống. Điều đó tạo nên một tâm lý đồng Qua đó, có thể thấy “Cò ke ôống kháo” cảm, chia sẻ chung trong cộng đồng, mà “Cò mang tính biểu tượng khá rõ. Trong phạm ke ôống kháo” là một yếu tố đóng góp vào đó. vi bài viết, chúng tôi chưa đề cập tới kết quả 3.4. “Cò ke ôống kháo” với vai trò giáo phân tích các bài bản âm nhạc của nó, bởi lẽ dục, truyền nghề mỗi tác phẩm âm nhạc sẽ mang trong nó tính Các thực hành nghề nghiệp cũng như các biểu tượng ít hay nhiều, điều đó xin được tiếp sinh hoạt và truyền dạy “Cò ke ôống kháo”, tục ở một bàn luận khác. phần nào cho thấy vai trò giáo dục của “Cò 3.3. “Cò ke ôống kháo” tạo sự đồng cảm ke ôống kháo”. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” và chia sẻ trong cộng đồng thường kết hợp việc luyện tập và sinh hoạt Từ sự đồng cảm giữa nghệ nhân “Cò ke ôống âm nhạc với truyền dạy nghề. Ngoài ra, học kháo” và gia đình tang chủ trò còn được đi cùng các nghệ nhân để thực 34 Số 31 (Tháng 3 - 2020) DI SẢN VĂN HÓA tập trong các dịp trình diễn “Cò ke ôống kháo”. “Cò ke ôống kháo” phần nào mang ý nghĩa Việc học nghề có thể kéo dài hoặc rút ngắn tùy biểu tượng, nó phản ánh quan niệm của người theo khả năng của học trò, những người học Mường về cõi trần gian, cõi thiêng và có thể giỏi thường thành nghề sau 2 - 3 năm [1]. Hơn có cả mong muốn của họ về mối quan hệ giữa nữa, trong quá trình truyền dạy bài bản và kỹ hai thế giới. Trong đời sống, các nghệ nhân thuật “Cò ke ôống kháo”, các nghệ nhân còn Mường sử dụng “Cò ke ôống kháo” vừa nhằm yêu cầu các học trò phải rèn luyện đạo đức, lối mục đích giải trí, vừa mang ý nghĩa giáo dục sống, cũng như phải am hiểu phong tục tập truyền thống. quán, chí ít là các thủ tục trong tang lễ để hành Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, cộng đồng xử sao cho đúng tại các không gian này. làng Mường trải qua nhiều biến động, bắt đầu Đạo đức và lối sống của các nghệ nhân từ việc xóa bỏ chế độ lang đạo, gần đây là sự cũng tạo nên uy tín của họ trong xã hội, qua biến đổi văn hóa dưới sự tác động ngày càng đó họ trở thành tấm gương, hình mẫu văn hóa mạnh mẽ của xu hướng giao lưu hội nhập. trong cộng đồng Mường. Sự kính trọng, yêu Trong bối cảnh đó, không ít yếu tố văn hóa cổ mến và gần gũi của người dân Mường với các truyền bị ảnh hưởng, thậm chí dần mai một. nghệ nhân là những minh chứng cụ thể cho Nhưng “Cò ke ôống kháo” vẫn âm thầm tồn vai trò giáo dục truyền thống của “Cò ke ôống tại, như mạch nước ngầm nuôi sống các thực kháo”. hành văn hóa cổ truyền gắn với nó. Điều đó Với người học, “Cò ke ôống kháo” là một càng khẳng định vai trò, ý nghĩa của “Cò ke môi trường để rèn luyện và bộc lộ tài năng. ôống kháo” đối với cộng đồng làng Mường và Có khá nhiều trường hợp nghệ nhân kèn và văn hóa Mường. các ông Mo bắt đầu sự nghiệp từ việc học tập T.B.D và rèn luyện “Cò ke ôống kháo”. Thầy Mo Đinh Công T. ở xã Mỹ Hòa, huyện Tân Lạc cho biết, Chú thích nhóm nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” của ông 1 Người Mường gọi là Thổ Lang, người Thái gọi hầu hết còn có thể thực hành diễn xướng Mo. là Thổ Ty, người Việt gọi là Quan Lang [2, tr. 440]. Hay như thầy Mo Nguyễn Văn T. ở xã Sủ Ngòi, 2 trước kia cũng là một nghệ nhân “Cò ke ôống Về phương diện âm nhạc học, “Cò ke ôống kháo”. kháo” là một dàn nhạc. Song ở bài viết này, chúng tôi dùng từ “ban nhạc” để nhấn mạnh yếu tố con Có thể nói rằng, ban nhạc “Cò ke ôống người trong dàn nhạc đó. Đây cũng là cách gọi kháo” như là một môi trường để các cá nhân thông thường của người Mường dành cho tổ được rèn luyện và phát triển tài năng, năng lực chức dàn nhạc này. của mình. Điều đó thêm một sự khẳng định về 3 “Cò ke ôống kháo” hiểu theo nghĩa đen là từ vai trò giáo dục của “Cò ke ôống kháo”. ghép của tên gọi hai nhạc khí: “Cò ke” và “ôống Kết luận kháo” (đàn nhị; sáo trúc). Đây là hai nhạc khí chủ “Cò ke ôống kháo” - một loại hình âm nhạc chốt vì chúng diễn tấu giai điệu chính. “Cò ke dân gian, được người Mường sử dụng ở không ôống kháo” theo nghĩa thường dùng là một tổ gian sinh hoạt tín ngưỡng và cả trong sinh chức dàn nhạc gồm có “Cò ke”, “ôống kháo” và các hoạt đời thường. nhạc khí khác như: trống con, chũm chọe, đàn tam, đàn bầu [1]. Người Mường xem âm nhạc “Cò ke ôống 4 kháo” là sản phẩm văn hóa tinh thần giàu Chiếc kèn này chỉ trình tấu một bài bản duy thẩm mỹ, vì thế họ dùng nó để trang sức cho nhất tên là Lâm khốc, ban nhạc “Cò ke ôống kháo” các nghi lễ tín ngưỡng, đồng thời là sợi dây kết thường sẽ cùng hòa tấu bài bản ấy, nhưng người nối tạo sự đồng cảm, chia sẻ trong cộng đồng. ta chỉ coi đó là sự hỗ trợ mà thôi. NGHIÊN CỨU Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂ N H ÓA 35 NGHIÊN CỨU VĂ N H ÓA 5 Có 02 người kể với tác giả bài viết câu chuyện 12 Hót loóng có nghĩa đen là uống nước cây về sự tích chiếc kèn đám ma như sau: Ngày xưa, chuối. Ông Nguyễn Văn Tân ở Sủ Ngòi giải thích có một anh chàng bị câm bẩm sinh, cũng vì thế rằng, tại các đám tang họ đun một nồi nước để nên anh chưa được cô gái nào ưng thuận lấy làm vừa luộc thịt, vừa ninh xương. Từ nồi nước này, chồng dù đã đến tuổi lập gia đình. Do đó, anh họ nấu thành món canh với lõi cây chuối rừng vẫn ở với cha mẹ. Đến một ngày cha mẹ mất vì thái nhỏ. Trong đám tang đông người, thường già yếu, anh rất đau buồn, muốn khóc lóc, than không thể tính toán được số lượng người ăn. Vì thở với linh hồn cha mẹ nhưng ngặt nỗi không vậy, món canh chuối trở nên thuận tiện, mỗi khi thốt được lời nào. Thế rồi anh chế tạo ra chiếc kèn gần hết họ chỉ cần cho thêm nước, gia vị và chuối và dùng nó để cất lên những giai điệu đau buồn (các nguyên liệu luôn có sẵn) để bổ sung. thay cho tiếng khóc của mình. Khi mọi người biết chuyện, ai cũng cảm động, và kể từ đó chiếc kèn Tài liệu tham khảo được người dân Mường dùng để thay lời khóc 1. Trần Bạch Dương (2019), “Nghệ nhân “Cò ke trong đám tang (PVS, thầy Mo Đinh Công Tỉnh, xã ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Mỹ Hòa, huyện Tân Lạc và ông Bùi Quang Hiên, Hoà Bình”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá, số 28. Phó chủ tịch UBND xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, 2. Jeanne Cuisinier (1948), Người Mường - Địa ngày 20-21/7/2019). lý nhân văn và xã hội học (Bản dịch của Sở Văn 6 “Hát khóc” là trình bày giọng hát có sự phụ hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, tái bản lần thứ họa của các nhạc khí. Người hát là một thành nhất 2007), Nxb. Lao động, Hà Nội. viên của ban nhạc đám ma, họ “thay lời” gia đình 3. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng tang chủ để thể hiện những bài ca than thở về (1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình, Ty Văn nỗi buồn trước sự ra đi của người chết. hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, Hòa Bình. 7 “Thết làng” nghĩa là “tết làng”. 4. Pierre Grossin (1926) (tái bản 1994), Tỉnh 8 Đó là nghi lễ rước nước, rước vía lúa trong Mường Hòa Bình, Lê Gia Hội dịch, Sở Văn hoá - lễ hội Khai hạ đình Ngòi; hay tới một cánh đồng Thông tin tỉnh Hòa Bình, Nxb. Lao động, Hà Nội. đã chọn sẵn để chứng kiến người dân thực hiện 5. Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Hồng Thu (chủ đường cày đầu tiên trong năm mới ở lễ hội Khai biên) (2009), Tri thức địa phương của người Mường hạ Mường Bi; hoặc đơn giản hơn là tại lễ hội rước trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Bụt, xã Nhân Nghĩa, đoàn rước chỉ thực hiện một Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. hành trình vòng quanh làng xóm, rồi dừng chân 6. Bùi Thiện (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu) ở cánh đồng trước nơi thờ tự để tiến hành lễ (2015), Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân cúng tế. văn Mường, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 9 Nhịp trống chiêng đánh trì thục: Tùng, tùng 7. Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình (2010), Mo - cheng (ứng với trường độ âm nhạc phương Tây mường Hòa Bình, Hòa Bình. là: đen, đen - trắng). 10 Bản nhạc Đi đường được dùng ở lễ hội Khai Ngày nhận bài: 16 - 01 - 2020 hạ Mường Bi và lễ rước Bụt xã Nhân Nghĩa. Riêng Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 2 - 2020 ở lễ Khai hạ đình Ngòi, Ban tổ chức yêu cầu ban Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020 nhạc “Cò ke ôống kháo” tập luyện và chơi theo bản nhạc Lưu thủy của người Kinh được phát trên một chiếc loa di động kéo đi cùng với đoàn rước. 11 Người ta cắt các ống nứa to, dài khoảng 1m hoặc ngắn hơn, giao cho các thiếu nữ mỗi người cầm hai ống, họ dộng một đầu ống xuống đất theo nhịp, và thỉnh thoảng lại đập hai ống này vào nhau. Có lẽ là một sáng kiến ở thời gian gần đây. 36 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
File đính kèm:
- am_nhac_dan_gian_co_ke_oong_khao_trong_doi_song_cong_dong_la.pdf