Xuất khẩu lao động trực tiếp góp phần giải quyết việc làm cho người lao động tại Hải Phòng
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển có nguồn lao động lớn như Việt nam; giải quyết việc làm cho
người lao động trong quá trình phát triển của nền kinh tế là tiền đề quan trọng để sử dụng có
hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào sự hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng
thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực thế giới nhận thức rõ tầm quan trọng của
vấn đề giải quyết việc làm, Đảng đã đề ra chủ trương và đường lối thiết thực, hiệu quả nhằm
phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng
yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để giải quyết việc làm cho người lao
động một trong những giải pháp hiệu quả đó là XKLĐ, trong đó XKLĐ trực tiếp ra nước
ngoài đóng vai trò quan trọng, một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm góp phần giải quyết việc
làm, phát triển nguồn nhân lực, tạo thu nhập và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao
động, tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta và các nước
trên thế giới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xuất khẩu lao động trực tiếp góp phần giải quyết việc làm cho người lao động tại Hải Phòng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 282 XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG TẠI HẢI PHÒNG ThS. Đinh Thị Hồng Tuyết Khoa Kinh tế & QTKD, Trƣờng Đại học Hải Phòng TÓM TẮT Để giải quyết việc làm cho người lao động, một trong những giải pháp hiệu quả đó là xuất khẩu lao động, trong đó xuất khẩu lao động trực tiếp ra nước ngoài đóng vai trò quan trọng. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động trực tiếp trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2012-2016, đề tài đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết những khó khăn trong việc tổ chức đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Từ khóa: xuất khẩu lao động (XKLĐ), xuất khẩu lao động trực tiếp. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển có nguồn lao động lớn như Việt nam; giải quyết việc làm cho người lao động trong quá trình phát triển của nền kinh tế là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào sự hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực thế giới nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng đã đề ra chủ trương và đường lối thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để giải quyết việc làm cho người lao động một trong những giải pháp hiệu quả đó là XKLĐ, trong đó XKLĐ trực tiếp ra nước ngoài đóng vai trò quan trọng, một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực, tạo thu nhập và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta và các nước trên thế giới. 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG 2.1. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nh nƣớc v doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu lao động - Trong công tác xuất khẩu lao động rất cần sự phối hợp chặt chẽ, chủ động giữa các cơ quan: Lao động - Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Công an (quản lý xuất cảnh,nhập cảnh), Y tế, Uỷ ban nhân dân các quận/huyện, các cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các sở, ngành chức năng, chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp chưa được tốt dẫn tới công tác tham mưu, quán triệt và tổ chức triển khai công tác XKLĐ còn thiếu đồng bộ, chặt chẽ, sâu rộng, còn tình trạng “mạnh ai nấy làm”. - Công tác xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát, thông tin báo cáo chưa tốt. 2.2. Công tác đ o tạo nghề tạo nguồn lao động xuất khẩu Bước đầu các doanh nghiệp đã liên kết với các cơ sở đào tạo nghề để tạo nguồn lao động có chất lượng cao phục vụ cho chiến lược XKLĐ của doanh nghiệp mình, song hiệu quả liên kết thấp, do các cơ sở đào tạo không có các trang thiết bị đáp ứng đúng cho đào tạo loại hình XKLĐ, đồng thời đội ngũ cán bộ giảng dạy ít kiến thức và kinh nghiệm về vấn đề XKLĐ. Hiện nay, các doanh nghiệp lấy nguồn lao động ở các địa phương đưa về tự đào tạo- giáo dục định hướng để thực hiện các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài. 2.3. Cơ chế vay vốn cho xuất khẩu lao động - Các công ty có chức năng xuất khẩu lao động luôn tạo điều kiện thuận lợi về mặt TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 283 pháp lý, cung cấp hồ sơ, giấy tờ để người lao động được vay vốn tại hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hải Phòng, Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Hải Phòng triển khai thực hiện Quyết định số 440/QĐ-NHNN ngày 17/4/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước mới cho được gần 300 hộ có người đi lao động nước ngoài vay gần 9 tỷ đồng trong giai đoạn 2012-2016, do có một thực tế là người dân không mặn mà với chương trình cho vay XKLĐ nằm trong chương trình Quốc gia việc làm do thủ tục vay còn phức tạp và mức vay thấp (tối đa là 30 triệu đồng) chỉ đáp ứng được khoảng 40% tổng số chi phí để người lao động được đi XKLĐ ở nước ngoài, do vậy chưa hấp dẫn được người lao động. 2.4. Các doanh nghiệp, đơn vị có chức năng xuất khẩu lao động Trong giai đoạn 2012-2016, số lượng doanh nghiệp, đơn vị có chức năng XKLĐ trên địa bàn giảm dần. Đến năm 2015 chỉ còn 09 đơn vị, giảm 04 đơn vị so với thời điểm năm 2012 (năm 2012: 13 đơn vị; năm 2013: 11 đơn vị; năm 2014: 10 đơn vị; năm 2015: 09 đơn vị; năm 2016: 09 đơn vị). Các doanh nghiệp có chức năng XKLĐ trên địa bàn hoạt động còn rời rạc và còn yếu do mỗi doanh nghiệp này thường chuyên XKLĐ sang một vài thị trường quen thuộc, hầu hết các đơn vị đều không có văn phòng đại diện ở nước ngoài do đó việc giải quyết các tranh chấp lao động ở nước ngoài cũng như v ... những chính sách giải quyết việc làm cho người lao động khi họ trở về nước để ổn định cuộc sống của bản thân họ và gia đình. Những đối tượng còn có nhu cầu tiếp tục đi XKLĐ thì cũng phải có những chính sách hỗ trợ cho họ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể tiếp tục đi XKLĐ. Những chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, đối tượng nghèo, bộ đội xuất ngũ, cũng phải được hoàn thiện hơn nữa đồng thời có những biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn, quỹ hỗ trợ đó sao cho hợp lý và hiệu quả nhất. Nhà nước cũng phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ và chỉ đạo đúng đắn cho công tác đào tạo nghề, đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài sao cho chất lượng lao động của ta ngày càng được nâng cao hơn nữa. Quy định các mức phí cần thiết để vừa đảm bảo lợi nhuận cho các cơ sở đào tạo vừa giảm thiểu chi phí một cách tối đa cho người lao động. Tăng cường hiệu quả hoạt động cho các trung tâm dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh. Tăng cường hơn nữa các công tác kiểm tra, thanh tra cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành trong công tác này nhằm hạn chế những tiêu cực và nâng cao hiệu quả thực sự. Song song với đó, sẽ xây dựng một lộ trình sắp xếp phát triển các doanh nghiệp XKLĐ theo định hướng, tiêu chí của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển, tăng cường năng lực cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong công tác XKLĐ lao động. 4.2. Biện pháp từ phía các doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần tập trung các biện pháp trước mắt là nâng cao số lượng và chất lượng cho lao động xuất khẩu, cụ thể: Tăng cường các hoạt động marketing để tìm kiếm và mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp phải xác định được những thị trường nào đang có nhu cầu cao về lao động những thị trường nào đã bão hoà, những thị trưòng nào có tiềm năng, để từ đó có những biện pháp thúc đẩy hoặc hạn chế XKLĐ sang từng thị trường. Nghiên cứu, tìm hiểu kỹ nguồn lao động của doanh nghiệp từ đó có những biện pháp thu hút người lao động tham gia vào quá trình tuyển mộ, tuyển chọn, nắm rõ những đặc điểm của lao động ở từng địa phương để có kế hoạch đào tạo cho phù hợp. Đặc biệt là các doanh nghiệp cần phải nắm rõ được những đối thủ cạnh tranh của mình ở trong nước cũng như ngoài nước để xem đối thủ nào mạnh, đối thủ nào yếu, đối thủ nào ngang sức để đối phó kịp thời. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng một kế hoạch XKLĐ theo đúng yêu cầu của thực tế và của bản thân doanh nghiệp. Bản kế hoạch này phải chỉ ra được rằng trong năm này, quý này, tháng này các doanh nghiệp sẽ phải đưa được bao nhiêu lao động đi làm việc có thời hạn tại từng nước cụ thể? Bản kế hoạch này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp cần phải tập trung phát triển những thị trường nào? Yêu cầu của các thị trường ấy ra sao từ đó đề ra các phương hướng tuyển chọn, đào tạo lao động một cách phù hợp nhất. Bản kế hoạch của các doanh nghiệp cũng phải chỉ ra nguồn cung lao động chủ yếu của doanh nghiệp tập trung tại đâu? Yêu cầu đối với lao động trên thị trường đó như thế nào? vv Để nâng cao chất lượng lao động các doanh nghiệp phải sử dụng các biện pháp sau: - Hoàn thiện quy trình tuyển chọn, đào tạo – giáo dục định hướng cho lao động trước khi đưa họ đi xuất khẩu đồng thời gắn kết trách nhiệm đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động của các cơ sở đào tạo với chính quyền địa phương cơ sở nơi lao động cư trú thông qua các hình thức tuyên truyền đường lối, chính sách và những điều lao động cần biết như: quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia vào hoạt động XKLĐ. - Nâng cao chất lượng đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động bằng cách sửa đổi, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 287 bổ sung thêm những nội dung thiết thực vào trong giáo trình đào tạo, có cơ chế ưu tiên đối với những lao động có tay nghề cao, đã qua đào tạo như cộng thêm điểm khi tuyển chọn, Đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như hiểu biết cho đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng như cán bộ làm công tác tuyển mộ, tuyển chọn. Các doanh nghiệp cần có những biện pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp làm công tác XKLĐ đặc biệt là các cán bộ quản lý trong và ngoài nước. Đội ngũ cán bộ này không những phải giỏi về trình độ học vấn, trình độ quản lý, ngoại ngữ mà còn cần có những hiểu biết nhất định về pháp luật của nước ta cũng như các nước tiếp nhận lao động của các doanh nghiệp và luật pháp quốc tế cũng như về mặt phẩm chất đạo đức, nhân cách. Triển khai tốt hơn nữa mô hình liên kết trách nhiệm giữa chính quyền địa phương với các doanh nghiệp XKLĐ nhằm giảm thiểu cho người lao động những chi phí không cần thiết như chi phí đi lại, môi giới, đồng thời đảm bảo nguồn lao động có chất lượng cao cho các doanh nghiệp. Phối hợp với các trung tâm dịch vụ việc làm trong việc tuyển chọn và đào tạo giáo dục lao động. Kết hợp với các cơ sở y tế, bệnh viện để tiến hành kiểm tra sức khoẻ cho người lao động. Các doanh nghiệp cần thường xuyên báo cáo định kỳ và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước hữu quan như Cục quản lý lao động ngoài nước, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội để cùng quản lý chặt chẽ hoạt động tuyển mộ, tuyển chọn, đào tạo - giáo dục định hướng cho người lao động tránh tối đa những hiện tượng tiêu cực. Khi lao động làm việc ở nước ngoài các doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi, giám sát, quản lý việc thực hiện hợp đồng của lao động bằng nhiều cách khác nhau. Có thể liên hệ với bên chủ sử dụng lao động và trực tiếp với người lao động theo định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý đối với những thị trường có ít lao động. Với những thị trường có nhiều lao động, các doanh nghiệp phải mở văn phòng đại diện và cử cán bộ có đủ năng lực sang nước đó để trực tiếp quản lý lao động. Trong trường hợp có tranh chấp hoặc biến cố xảy ra thì cán bộ phụ trách quản lý đó phải có trách nhiệm giải quyết, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên là chủ sử dụng và đặc biệt là người lao động. Nếu tranh chấp hoặc sự cố xảy ra cán bộ quản lý phải báo cáo ngay với cơ quan chủ quản, Cục quản lý lao động ngoài nước và cơ quan đại diện phía Việt Nam ở nước sở tại để cùng phối hợp giải quyết. Các doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống những biện pháp trừng phạt đối với những người lao động vi phạm hợp đồng như đơn phương chấm dứt hợp đồng, tự động trở về nước, bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp bên nước bạn,như yêu cầu đặt tiền đặt cọc, quản lý chặt chẽ chế độ tiền lương để răn đe và ngăn chặn, hạn chế tối thiểu những thiệt hại do người lao động gây ra cho bản thân doanh nghiệp và chủ sử dụng lao động nước ngoài. Các doanh nghiệp cần có trách nhiệm hơn nữa với lao động khi lao động trở về nước trong việc hoàn tất thủ tục cho người lao động cũng như thủ tục cho họ gia hạn hợp đồng hoặc ký kết hợp đồng mới nếu họ có nhu cầu. Cuối cùng, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới mình, đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Tạo lập uy tín và xây dựng cho mình một “thương hiệu” mạnh là một trong những mục tiêu phấn đấu hàng đầu của các doanh nghiệp XKLĐ hiện nay bởi đó là cách thức tốt nhất để họ nâng cao năng lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ trong và ngoài nước. 4.3. Biện pháp từ phía ngƣời lao động Thứ nhất, phải nâng cao trình độ học vấn thông qua việc tích cực học tập rèn luyện trong các nhà trường. Hệ thống giáo dục là nơi không chỉ rèn luyện và trau dồi học vấn, kiến thức cho người lao động mà còn là nơi nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão cũng như nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho người lao động, do đó không chỉ Nhà nước cần quan tâm chú ý tới công tác này mà bản thân người lao động cũng cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 288 việc học tập rèn luyện của bản thân mình. Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề thông qua việc tham gia vào các lớp đào tạo nghề. Việc này không phải là chờ các doanh nghiệp tới tuyển dụng hay Nhà nước ra chính sách thì người lao động mới bắt đầu đi học mà người lao động cần phải chủ động tham gia vào các khoá đào tạo nghề này để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân mình, chuẩn bị cho việc đăng ký tuyển mộ, tuyển chọn đi lao động xuất khẩu. Thứ ba, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp thông qua các lớp học tiếng nước ngoài và các chương trình đào tạo – giáo dục định hướng của các đơn vị XKLĐ tổ chức. Thứ tư, cần phải nhận thức một cách đúng đắn về hoạt động XKLĐ, tìm hiểu và nắm rõ những quy định của nhà nước về hoạt động này để xác định rõ ràng rằng mình đi lao động chứ không phải là đi du lịch từ đó có ý thức lao động và tuân thủ kỷ luật lao động. Nhận thức rõ hơn nữa những hậu quả mình sẽ phải trả giá nếu vi phạm hợp đồng hoặc pháp luật của Việt Nam và nước sở tại. Thứ năm, thường xuyên liên hệ với các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại và cơ quan đại diện hoặc người quản lý của doanh nghiệp XKLĐ của mình để khi cần thiết có thể giúp mình giải quyết những tranh chấp hoặc sự cố xảy ra. Khi ở nước ngoài, người lao động phải luôn luôn có ý thức làm việc và chấp hành quy định của chủ sử dụng lao động, Ngoài ra, người lao động phải luôn luôn chấp hành tốt pháp luật và quy định của nước sở tại về người lao động nước ngoài cũng như các công ước quốc tế, Tìm hiểu kỹ về những thủ tục cần thiết để chuẩn bị tốt tránh tự gây ra cho mình những phiền phức không đáng có và để đảm bảo tính hợp pháp cho việc đi XKLĐ của mình. Khi trở về nước, người lao động phải thực hiện tốt những nghĩa vụ khai báo, làm thủ tục cần thiết với cơ quan Nhà nước để nhập cảnh trở về quê hương. Về với gia đình, người lao động cần phải tích cực tìm kiếm việc làm cho bản thân và sử dụng hợp lý khoản thu nhập mà bản thân dành dụm được trong thời gian lao động ở nước ngoài. Tích cực tìm kiếm việc làm để ổn định cuộc sống chứ không được có tư tưởng có tiền rồi không phải làm gì. Xu hướng phát triển kinh tế thế giới ngày nay chuyển mạnh sang đầu tư chiều sâu, tăng cường cơ giới hoá, tự động hoá, các quá trình sản xuất, dịch vụ để giảm lao động sống, nhất là lao đông chân tay, giản đơn. Vì vậy nhu cầu nhập khẩu giản đơn sẽ giảm dần mà còn tập trung chủ yếu vào lao động chuyên gia, có tay nghề cao. Mặt khác các nước dư thừa lao động mặc dù đang cố gắng giảm tỷ lệ tăng dân số, song giảm triệt để là không thể được. Nếu cộng với trên 450 triệu người thất nghiệp hiện nay (và còn tăng thêm) thì nhu cầu về XKLĐ còn rất lớn: như 6 nước Vùng Vịnh hàng năm cần khoảng 5,5 triệu lao động nước ngoài, ngoài ra còn một số nước đang phát triển thiếu lao động trầm trọng như Đài Loan (Trung Quốc) hàng năm cần khoảng 11 vạn lao động ( trong đó 9,5 vạn lao động trong công nghiệp, số còn lại trong xây dựng và dịch vụ ), Hàn Quốc khoảng 10 vạn, Nhật Bản đang thiếu khoảng 10 vạn, các nước khác như Malaysia, Singapo, Brunei cũng cần hàng vạn lao động, do đó sẽ có sự cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Nước XKLĐ thắng lợi sẽ là nước có tỷ lệ lao động lành nghề cao, đáp ứng được nhu cầu các ngành nghề mà các nước nhập khẩu lao động có nhu cầu. Bên cạnh đó thì đặc điểm của thị trường lao động quốc tế hiện nay là nhu cầu sử dụng lao động lớn tập trung ở ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ; yêu cầu của chủ sử dụng lao động đối với người lao động là có văn hoá, có ngoại ngữ, có sức khoẻ và tuổi đời từ 20 - 25; tỷ trọng lao động không nghề và mới vào nghề cao chiếm khoảng 60 - 70%. Người lao động đáp ứng được yêu cầu trên sẽ có một thế mạnh là tiếp thu nhanh kỹ thuật và công nghệ, làm việc có năng suất cao, khả năng làm thêm giờ cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ sử dụng lao động hoặc các nhà thầu quốc tế cạnh tranh chiến lược thị trường và thu được lợi nhuận cao. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 289 5. KẾT LUẬN Xuất khẩu lao động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước nói chung cũng như sự phát triển kinh tế của thành phố Hải Phòng nói riêng, không chỉ thông qua việc góp phần tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước mà còn cả nguồn thu ngoại tệ do người lao động làm việc ở nước ngoài gửi về. Đồng thời thông qua việc XKLĐ thì nước ta có cơ hội tiếp cận với các nền kinh tế phát triển trên thế giới để quáng bá hình ảnh của Việt Nam, thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo tiền đề để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng khác ra thị trường thế giới. Thị trường ngày càng đòi hỏi và đối tác bao giờ cũng ngưỡng mộ, chào đón doanh nghiệp đi vào các yếu tố chất lượng. Đây chính là chìa khoá cho sự phát triển, thành công của các doanh nghiệp, các địa phương và của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; [2] Nghị định số 95/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22 tháng 8 năm 2013 về việc “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”. [3] Nghị định số 88/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 07 tháng 10 năm 2015 về việc “Sửa đồi, bổ sung một số điều của nghị định số 95/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.”. [4] Thông tư số 21/2007/TT-LĐTBXH ngày 08/10/2007 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. [5] Quyết định số 18/2007/QĐ-BLĐTBXH ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. [6] Quyết định số 19/2007/QĐ-BLĐTBXH ban hành “Quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài”. [7] Thị trường lao động và việc làm (tập 1, 2), NXB Thống kê Hà Nội. [8] Báo cáo thống kê hàng năm của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hải Phòng giai đoạn 2012- 2016. [9] Báo cáo thống kê hàng năm của Công ty Cổ phần Cung ứng lao động và Thương mại Hải Phòng giai đoạn 2012- 2016. ABSTRACT To tackle the issue of employment for workers, one of the effective solutions is labour exporting, in which the direct labour exporting to foreign countries plays an important role. Based upon the practical study of direct labour export activities throughout Haiphong City, during the period of 2012 - 2016, the thesis proposes several solutions to tackle difficulties in organizing, setting up Vietnamese labour exporting abroad at labour exporting businesses in Haiphong City. Keywords: labour exporting, direct labour exporting.
File đính kèm:
- xuat_khau_lao_dong_truc_tiep_gop_phan_giai_quyet_viec_lam_ch.pdf