Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương
Trên thế giới, không có khái niệm đồng nhất
về sản phẩm đặc sản. Giới chuyên môn và các
nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ khác nhau
để nói tới các đặc sản bản địa: sản phẩm địa
phương (produit de terroir), sản phẩm nguồn
gốc xuất xứ (produit d’origin), sản phẩm địa
phương (local product, regional products), đặc
sản (specialty)
Theo nhóm công tác của Ủy ban nông thôn
Québec (Solidarité rural du Québec)(*), thì sản
phẩm địa phương (produit de terroir) là sản phẩm
(hoặc các thành phần chính của sản phẩm) được
sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định, đồng
nhất và các sản phẩm có đặc tính khác biệt đáng
kể với các sản phẩm khác trên thị trường dựa trên
những đặc trưng riêng của vùng sản xuất. Các đặc
trưng này phụ thuộc vào các yếu tố liên quan tới
vùng lãnh thổ như là điều kiện địa lý, khí hậu, hay
những tập quán sản xuất truyền thống và kiến
thức bản địa. Người sản xuất làm chủ các giai
đoạn sản xuất, chế biến và đưa sản phẩm ra thị
trường. Như vậy, để xác định như thế nào là đặc
sản, cần lưu ý tới 3 điểm: sự khác biệt (difference), gắn với vùng lãnh thổ (appartenance au
terroir) và tri thức truyền thống (neccessité du
savoir-faire). Ngoài ra, đặc sản đòi hỏi người sản
xuất phải tổ chức các kênh hàng phù hợp để
thương mại sản phẩm ra thị trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [5] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1. Đặc sản của địa phương Trên thế giới, không có khái niệm đồng nhất về sản phẩm đặc sản. Giới chuyên môn và các nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ khác nhau để nói tới các đặc sản bản địa: sản phẩm địa phương (produit de terroir), sản phẩm nguồn gốc xuất xứ (produit d’origin), sản phẩm địa phương (local product, regional products), đặc sản (specialty) Theo nhóm công tác của Ủy ban nông thôn Québec (Solidarité rural du Québec)(*), thì sản phẩm địa phương (produit de terroir) là sản phẩm (hoặc các thành phần chính của sản phẩm) được sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định, đồng nhất và các sản phẩm có đặc tính khác biệt đáng kể với các sản phẩm khác trên thị trường dựa trên những đặc trưng riêng của vùng sản xuất. Các đặc trưng này phụ thuộc vào các yếu tố liên quan tới vùng lãnh thổ như là điều kiện địa lý, khí hậu, hay những tập quán sản xuất truyền thống và kiến thức bản địa. Người sản xuất làm chủ các giai đoạn sản xuất, chế biến và đưa sản phẩm ra thị trường. Như vậy, để xác định như thế nào là đặc sản, cần lưu ý tới 3 điểm: sự khác biệt (differ- ence), gắn với vùng lãnh thổ (appartenance au terroir) và tri thức truyền thống (neccessité du savoir-faire). Ngoài ra, đặc sản đòi hỏi người sản xuất phải tổ chức các kênh hàng phù hợp để thương mại sản phẩm ra thị trường. Trên thực tế, các sản phẩm có liên hệ (ít, nhiều) tới địa danh vùng sản xuất thường được gọi là sản hoặc truyền thống (terroir, d’origine hoặc tradionnel). n Lưu Đức Thanh Cục Sở hữu trí tuệ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU CHO CÁC ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG Q uá trình hội nhập kinh tế quốc tế củaViệt Nam ngày càng diễn ra mạnhmẽ kể cả về chiều sâu và chiều rộng. Trong quá trình đó, hoạt động sản xuất và kinh doanh các đặc sản địa phương đã thu được nhiều thành quả to lớn, góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào khu vực có đặc sản. Nổi bật trong số các đặc sản là các sản phẩm: cà phê, gạo, chè, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, thuỷ sản... và các sản phẩm làng nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đã và đang ký kết các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA)... thì các biện pháp trợ cấp, bảo hộ mang tính chất khuyến nông, khuyến công của Nhà nước sẽ dần bị hạn chế, sản phẩm, bao gồm cả các đặc sản của Việt Nam sẽ không còn lợi thế về giá, do đó sẽ bị cạnh tranh gay gắt và quyết liệt không chỉ tại các thị trường xuất khẩu mà còn ngay cả ở thị trường nội địa. Vì vậy, chúng ta cần xây dựng chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh cho nông, lâm, thủy sản, các sản phẩm làng nghề và các chính sách hỗ trợ. Một trong những hướng ưu tiên để nâng cao sức cạnh tranh cho nông, lâm thủy sản, các sản phẩm làng nghề của Việt Nam là xây dựng, đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cho các loại sản phẩm này. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [6] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI - Sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ (Produit d’origine): là các sản phẩm có lợi thế về mặt tự nhiên, văn hóa địa phương và sở hữu đặc tính riêng nhưng không nhất thiết là sản phẩm được sản xuất theo phương thức sản xuất truyền thống, cổ truyền. - Sản phẩm truyền thống (Produit tradtionnel): là kết quả của thực hành sản xuất truyền thống, nhưng nguyên vật liệu ban đầu để sản xuất/chế biến có thể đến từ các nơi khác. Theo De Kop, Sautier và Gerz (2006), đặc sản là các sản phẩm chỉ có thể sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định mà tại đó thực hành sản xuất của con người cộng với yếu tố về văn hóa, trải qua thời gian dài, đã góp phần tạo ra những đặc tính sinh học riêng có cho sản phẩm. Do tính đặc thù về địa lý, danh tiếng và chất lượng, đặc sản thường có giá trị gia tăng lớn hơn so với sản phẩm thông thường cùng loại. Giá trị này thuộc về cộng đồng sản xuất sản phẩm trong nhiều năm, thậm chí qua nhiều thế hệ phát triển thành đặc sản mang lại lợi ích lâu dài, bền vững cho cộng đồng địa phương. Tóm lại, có thể định nghĩa đặc sản như sau: “Đặc sản là sản phẩm có nguồn gốc từ một khu vực, địa phương, vùng địa lý cụ thể, có những tính chất đặc thù về hình thái, chất lượng không giống các sản phẩm cùng loại khác và các đặc tính này chủ yếu có được do các điều kiện tự nhiên, con người vùng sản xuất, chế biến sản phẩm tạo ra”. Nói một cách đơn giản hơn, đặc sản là sản phẩm được sản xuất hay khai thác ở một vùng nhất định theo một quy trình, tập quán khai thác, sản xuất nhất định, có những đặc tính, đặc điểm, đặc trưng mà nơi khác không có được. 2. Thương hiệu cho đặc sản địa phương Cho đến nay, chưa có một văn bản pháp luật nào về SHTT quy định về “thương hiệu”, tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng nhiều trong thương mại và nó có thể được hiểu rằng “Thương hiệu là tổng hợp tất cả các yếu tố vật chất, thẩm mỹ, lý lẽ và cảm xúc của một sản phẩm, hoặc một dòng sản phẩm, bao gồm bản thân sản phẩm ... p thể, nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý cho các đặc sản. Việc đăng ký, bảo vệ và phát triển các địa danh gắn liền với sản phẩm không chỉ là trách nhiệm, quyền lợi của người dân trong mỗi khu vực mà còn là trách nhiệm của mỗi chúng ta. 2. Quản lý Nhà nước đối với địa danh Theo quy định tại Điều 4.22, Điều 11 Luật SHTT năm 2005 và Điều 3 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP, quản lý Nhà nước đối với các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý (địa danh) được quy định như sau: - Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện xác lập quyền cho các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý dùng cho các đặc sản địa phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống. - Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quản lý các dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý tại địa phương. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch hỗ trợ Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý các dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý tại địa phương dùng cho các đặc sản địa phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống liên quan đến lĩnh vực mà mỗi Bộ quản lý. 3. Hiện trạng đăng ký nhãn hiệu tập thể/nhãn hiệu chứng nhận Tính đến ngày 01/4/2016, Cục SHTT đã cấp giấy chứng nhận cho 722 nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận, trong đó 609 nhãn hiệu tâp thể, 113 nhãn hiệu chứng nhận. Trên cơ sở thẩm định các đơn đăng ký nhãn hiệu tập/nhãn hiệu chứng nhận, có thể rút ra một số nhận xét sau đây: Đối với nhãn hiệu tập thể - Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể rất đa dạng, bao gồm: tổ hợp tác, cơ sở sản xuất, Hợp tác xã nông nghiệp, Hợp tác xã sản xuất sản xuất, Liên hiệp hợp tác xã, Hội/Hiệp hội sản xuất/kinh doanh, Hội Nông dân, Hội làm vườn, Hội Liên hiệp phụ nữ, Công ty TNHH, Làng nghề, Câu lạc bộ, Trạm Khuyến nông, Trung tâm nghiên cứu. - Phần lớn các nhãn hiệu tập thể đều chưa thể hiện được chất lượng của sản phẩm/dịch vụ và khu vực địa lý tương ứng với địa danh (trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể). Đây cũng trở thành khó khăn trong hoạt động quản lý, phát triển của các nhãn hiệu tập thể, đặc biệt là vai trò và khả năng phát triển các nhãn hiệu tập thể của các chủ sở hữu. Với đặc điểm về sản xuất, đặc điểm hoạt động của các tổ chức chính trị như: hội nông dân, hội làm vườn, hội phụ nữ... hay năng lực hoạt động của các Hợp tác xã, hiệp hội/hội sản xuất kinh doanh... đã tạo ra nhiều khó khăn trong quản lý và khai thác nhãn hiệu tập thể. Sự phát triển của các nhãn hiệu tập thể phải được gắn liền với việc sử dụng các dấu hiệu “địa danh” trên sản phẩm, cung cấp các sản phẩm đảm Nhãn hiệu tập thể Hương trầm Quỳ Châu Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [10] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI bảo chất lượng, danh tiếng đến người tiêu dùng. Điều đó phụ thuộc vào việc hình thành các chuỗi giá trị, kênh phân phối... và đây cũng là điểm yếu của các chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể hiện nay. Cùng với đó, việc chất lượng sản phẩm/dịch vụ chưa được xác định rõ ràng đã gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động quản lý. Cụ thể như nhãn hiệu tập thể Hương trầm Quỳ Châu, việc xác định đâu là sản phẩm đặc thù mang nhãn hiệu tập thể Quỳ Châu trong bối cảnh yêu cầu của thị trường khó phát triển được hương sạch hay quy trình sản xuất sản phẩm khác biệt, đa dạng đã dẫn đến những khó khăn trong hoạt động quản lý của Hợp tác xã và địa phương. Ngoài ra, đối tượng địa danh dùng cho các sản phẩm nông nghiệp, các đặc sản thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước quản lý nhằm đảm bảo việc cấp quyền sử dụng công bằng và khách quan. Một trong những hình thức thực hiện điều này hiệu quả nhất là thành lập hoặc hỗ trợ thành lập Tổ chức chung (Hội, Hiệp hội, tổ chức đa ngành, hợp tác xã) đại diện cho quyền và quyền lợi của những người sản suất/kinh doanh/người cung cấp dịch vụ truyền thống. Những người này thống nhất thông qua một quy chế sử dụng địa danh làm nhãn hiệu tập thể (Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể), xin phép UBND tỉnh được sử dụng địa danh này và nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể. Tuy nhiên, mặc dù những chủ thể đăng ký rất ý thức được việc phải đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhưng họ lúng túng trong việc xin phép sử dụng địa danh và xây dựng cơ chế chung (Quy chế) để quản lý và sử dụng nhãn hiệu tập thể. Hơn nữa, chưa có gì đảm bảo là phần lớn các chủ thể đăng ký được liệt kê trên đây đều là các tổ chức đại diện cho quyền và quyền lợi của những người sản suất/kinh doanh/người cung cấp dịch vụ truyền thống trong khu vực địa lý đồng thời còn có thể làm giảm uy tín/danh tiếng của sản phẩm/dịch vụ do không có cơ chế chung để kiểm soát chất lượng sản phẩm. Đối với nhãn hiệu chứng nhận: - Tất cả các chủ nhãn hiệu chứng nhận là cơ quan Nhà nước (UBND tỉnh/huyện, Sở Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Khuyến nông, Khuyến công); - Các hồ sơ đơn đều thực hiện đúng quy định pháp luật, đặc biệt là Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận bao gồm đầy đủ các nội dung theo quy định pháp luật. Mặc dù các địa phương đã xây dựng các bộ hồ sơ đăng ký nhãn hiệu chứng nhận tương đối hoàn chỉnh, song do thời gian thực hiện còn tương đối ngắn nên chưa thể đánh giá được hiệu lực và hiệu quả của các nhãn hiệu chứng nhận này. Tuy nhiên, theo ghi nhận mới đây của Cục SHTT, một số nhãn hiệu chứng nhận đã thu được hiệu quả mong muốn như: “Hoa Đà Lạt”, “Rau an toàn Mộc Châu”, nước mắm Cát Hải... 4. Hiện trạng đăng ký chỉ dẫn địa lý Tính đến 30/5/2016, Cục SHTT đã cấp 47 Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý (trong đó có 4 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài). Trên cơ sở thẩm định các đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý nêu trên và trong quá trình sử dụng các chỉ dẫn địa lý trên thực tế, có thể rút ra một số nhận xét sau đây: - Chủ thể đăng ký (người nộp đơn): chủ thể đăng ký chỉ dẫn địa lý của các chỉ dẫn địa lý chủ yếu là Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc cơ quan được ủy quyền như: Sở khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân huyện/thành phố trực thuộc tỉnh hoặc Hiệp hội, Hội (được UBND tỉnh cho phép) như: Hội sản xuất nước mắm Phú Quốc, Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu, Hiệp hội thanh long Bình Thuận. - Chủ thể quản lý: Tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý được ghi nhận chủ yếu là Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc cơ quan được ủy quyền (Sở khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân huyện/thành phố trực thuộc tỉnh) và một Hiệp hội (Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu). Trong số 43 chỉ dẫn địa lý đã có 35 chỉ dẫn địa lý có các quy chế quản lý, theo đó chủ thể quản lý là Sở Khoa học và Công nghệ chiếm tỷ trọng chính trong các mô hình quản lý chỉ dẫn địa lý của Việt Nam với 63% (tương đương 22 chỉ dẫn địa lý), 34% là do UBND huyện là chủ thể quản lý, chỉ có 1 chỉ dẫn địa lý có chủ thể quản lý là Hội. Như vậy, thực tế hiện nay là nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý chỉ dẫn địa lý, quản lý chỉ dẫn địa lý trở thành một đối tượng trong quản lý nhà nước ở địa phương, trở thành chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị đang thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Có thể thấy là các chỉ dẫn địa lý đều được đặt dưới sự Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [11] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI quản lý trực tiếp của Nhà nước (Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân Huyện). Sở dĩ có hiện trạng này là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nhưng chủ yếu nhất vẫn là chưa có Tổ chức đại diện chung cho quyền và quyền lợi của các nhà sản xuất/kinh doanh trong khu vực địa lý, đồng thời tổ chức đó phải có đủ năng lực để đảm nhận đầy đủ các hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý. Theo kết quả ghi nhận của Cục SHTT, hiện nay đa số các chỉ dẫn địa lý đã thành lập hội/hiệp hội. Tuy nhiên, phần lớn các Hiệp hội này vẫn còn lúng túng trong việc quản lý chỉ dẫn địa lý, họ chỉ đóng vai trò phối hợp chứ chưa thực sự là chủ thể trong quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý. Do tại các khu vực địa lý, các nhà sản xuất/kinh doanh chưa thể tập trung được nguồn lực để bảo vệ, quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý của mình. Nên Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (thông qua Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân huyện) phải đứng ra yêu cầu xác lập quyền cho chỉ dẫn địa lý (lập hồ sơ và đăng ký) và sau đó cũng đứng ra quản lý chỉ dẫn địa lý, và đương nhiên là Nhà nước phải bỏ ra một chi phí rất lớn. Thực tế hiện nay cho thấy, các địa phương mới chỉ hoàn thành việc xác lập quyền, trong khi cơ chế và các thao tác quản lý chưa được thiết lập hoặc nếu có thì cũng chưa hoạt động hiệu quả. Điều này dẫn đến hiệu lực và hiệu quả của Văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý chưa được như mong muốn. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU CHO ĐẶC SẢN ĐỊA PHƯƠNG Xuất phát từ các phân tích trên đây, và từ thực tiễn, có thể đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển thương hiệu cho nông sản Việt Nam như sau: 1. Ở cấp Trung ương - Hoàn thiện khung pháp lý cho việc đăng ký quyền SHTT cho địa danh sử dụng cho đặc sản/dịch vụ truyền thống. Hiện nay, pháp luật về SHTT của chúng ta còn thiếu quy định về kiểm soát chỉ dẫn địa lý và các quy định về biểu tượng chung (ví dụ biểu tượng chỉ dẫn địa lý quốc gia) cho đặc sản. + Việt Nam hiện nay không có quy định pháp luật ở mức độ quốc gia (Luật, Nghị định, Thông tư...) cụ thể về kiểm soát chỉ dẫn địa lý, nghĩa là pháp luật hiện nay chưa quy định là chỉ dẫn địa lý được kiểm soát như thế nào, kiểm soát gì và ai kiểm soát. Thực tế hiện nay, mỗi chỉ dẫn địa lý sẽ có một quy chế kiểm soát chỉ dẫn địa lý riêng, quy định cụ thể về tổ chức bộ máy, quy trình và cách thức tổ chức kiểm soát. Việc xây dựng quy định về Tổ chức chứng nhận với nhiệm vụ kiểm soát và chứng nhận chất lượng, nguồn gốc sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý là cần thiết. Tổ chức này hoàn toàn độc lập với tổ chức tập thể của các nhà sản xuất/ kinh doanh, vì thế còn được gọi là tổ chức thứ ba. Tổ chức chứng nhận đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động nhằm kiểm tra chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm, đảm bảo tính khách quan, trung thực trong việc tuân thủ các quy định. Nếu như việc xác lập quyền cho các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đảm bảo cho quyền sử dụng địa danh như một dấu hiệu đặc biệt chỉ dẫn nguồn gốc cho sản phẩm của cộng đồng những người sản xuất ở địa phương thì việc thiết lập các tổ chức chứng nhận lại được coi là một khâu thiết yếu để đảm bảo rằng sản phẩm được cung ứng ra thị trường xứng đáng với chất lượng và danh tiếng mà nó đã được công nhận. + Cần có các quy định về biểu tượng chung nhằm xây dựng hình ảnh của các khu vực và/hoặc của quốc gia thông qua đặc sản của các khu vực đó và sản phẩm nông nghiệp chủ đạo của quốc gia (như: thủy sản, lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, chè...). Một doanh nghiệp muốn cho sản phẩm của họ được mang biểu tượng chung, thì cần phải đảm bảo các tiêu chí về chất lượng và nguồn gốc (được quy định trong quy chế sử dụng biểu tượng) và phải được một tổ chức chứng nhận chứng nhận là đã tuân thủ các quy định trong quy chế. - Cần có chính sách tổng thể của Nhà nước hỗ trợ thành lập các tổ chức tập thể có đủ năng lực để quản lý, đăng ký và bảo vệ và phát triển một nhãn hiệu chung (nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận). Chính sách tổng thể như vậy ít nhất cần phải bao gồm các vấn đề sau: quy hoạch, tài chính, hỗ trợ pháp lý, kỹ thuật, đào tạo nhân lực, môi trường, thông tin, quảng bá sản phẩm, sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền - Cần đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền SHTT nói Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [12] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI chung và đặc biệt là cho đặc sản (phối hợp với các địa phương và trên phạm vi toàn quốc). Nếu công tác bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận được thực hiện quyết liệt và có hiệu quả, các nhà sản xuất/ kinh doanh đặc sản có thể yên tâm đầu tư, sản suất/kinh doanh, quyết định giá bán sản phẩm phù hợp mà không còn e ngại về hàng giả, hàng kém chất lượng và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể làm giảm uy tín của sản phẩm của họ hay làm lũng đoạn thị trường. 2. Ở cấp địa phương - Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập và hỗ trợ thành lập tổ chức tập thể, đồng thời cho phép tổ chức này đăng ký và quản lý chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có thể chỉ định một cơ quan cấp dưới (Ủy ban nhân dân huyện/xã) hoặc một cơ quan chuyên môn (Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) của mình đăng ký và quản lý chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận. - Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thông qua các cơ quan chuyên môn của mình kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức tập thể nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các thành viên thuộc tổ chức. - Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thông qua các cơ quan chuyên môn của mình hoặc thành lập tổ chức riêng để kiểm soát chất lượng và nguồn gốc sản phẩm do các thành viên của tổ chức tập thể sản xuất. - Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng các chính sách hỗ trợ sản xuất, quảng bá sản phẩm và bảo vệ quyền SHTT đối với các đặc sản thuộc địa phương. 3. Đối với các nhà sản xuất/kinh doanh Để bảo vệ chất lượng và danh tiếng cho các đặc sản của mình, các nhà sản xuất/kinh doanh tại địa phương nên cùng tập hợp nhau lại trong một tổ chức tập thể (ví dụ một Hiệp hội) để tập trung sức mạnh, thống nhất chiến lược/kế hoạch từng bước xây dựng thương hiệu cho các đặc sản của mình. Để thành lập được Hiệp hội các nhà sản xuất, trước hết cần phải tuyên truyền để người dân, các nhà sản, kinh doanh xuất ý thức được vai trò của việc bảo vệ tài sản trí tuệ liên quan đến sản phẩm của mình và ý thức được lợi ích của việc thành lập, tham gia Hiệp hội các nhà sản xuất. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh có thể tạo lập cho mình các nhãn hiệu riêng đồng thời tham gia vào các Hiệp hội sản xuất để tận dụng nhiều lợi thế đưa lại từ cộng đồng. Để các Hiệp hội này thành lập và hoạt động hiệu quả, trước hết cần đến tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các nhà sản xuất sau đó mới cần đến chiến lược phát triển đúng đắn của Hiệp hội. Sau khi đã thành công trong việc thành lập các Hiệp hội, các địa phương cần phải cân nhắc để lựa chọn hình thức xác lập quyền cho sản phẩm mang tên địa danh của địa phương mình. Nếu sản phẩm đã có danh tiếng trên thị trường và có các tính chất, chất lượng đặc thù được quyết định bởi điều kiện địa lý, địa phương có thể bảo hộ địa danh theo hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Đối với các sản phẩm không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ theo hình thức chỉ dẫn địa lý, có thể lựa chọn hình thức bảo hộ nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận. Tùy theo từng hình thức đăng ký, tổ chức tập thể cần phải xây dựng quy chế sử dụng đối tượng này, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và kiểm soát chất lượng sản phẩm phù hợp./. (*) Báo cáo Thương mại các sản phẩm đặc sản vùng, miền (La mise en marche des produits de terroir: defies et strategie) Hội chợ Cam Vinh - Nghệ An (12/2017)
File đính kèm:
- xay_dung_va_phat_trien_thuong_hieu_cho_cac_dac_san_cua_dia_p.pdf