Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương

Trên thế giới, không có khái niệm đồng nhất

về sản phẩm đặc sản. Giới chuyên môn và các

nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ khác nhau

để nói tới các đặc sản bản địa: sản phẩm địa

phương (produit de terroir), sản phẩm nguồn

gốc xuất xứ (produit d’origin), sản phẩm địa

phương (local product, regional products), đặc

sản (specialty)

Theo nhóm công tác của Ủy ban nông thôn

Québec (Solidarité rural du Québec)(*), thì sản

phẩm địa phương (produit de terroir) là sản phẩm

(hoặc các thành phần chính của sản phẩm) được

sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định, đồng

nhất và các sản phẩm có đặc tính khác biệt đáng

kể với các sản phẩm khác trên thị trường dựa trên

những đặc trưng riêng của vùng sản xuất. Các đặc

trưng này phụ thuộc vào các yếu tố liên quan tới

vùng lãnh thổ như là điều kiện địa lý, khí hậu, hay

những tập quán sản xuất truyền thống và kiến

thức bản địa. Người sản xuất làm chủ các giai

đoạn sản xuất, chế biến và đưa sản phẩm ra thị

trường. Như vậy, để xác định như thế nào là đặc

sản, cần lưu ý tới 3 điểm: sự khác biệt (difference), gắn với vùng lãnh thổ (appartenance au

terroir) và tri thức truyền thống (neccessité du

savoir-faire). Ngoài ra, đặc sản đòi hỏi người sản

xuất phải tổ chức các kênh hàng phù hợp để

thương mại sản phẩm ra thị trường.

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 1

Trang 1

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 2

Trang 2

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 3

Trang 3

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 4

Trang 4

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 5

Trang 5

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 6

Trang 6

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 7

Trang 7

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 11160
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản của địa phương
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [5]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 
1. Đặc sản của địa phương
Trên thế giới, không có khái niệm đồng nhất
về sản phẩm đặc sản. Giới chuyên môn và các
nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ khác nhau
để nói tới các đặc sản bản địa: sản phẩm địa
phương (produit de terroir), sản phẩm nguồn
gốc xuất xứ (produit d’origin), sản phẩm địa
phương (local product, regional products), đặc
sản (specialty)
Theo nhóm công tác của Ủy ban nông thôn
Québec (Solidarité rural du Québec)(*), thì sản
phẩm địa phương (produit de terroir) là sản phẩm
(hoặc các thành phần chính của sản phẩm) được
sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định, đồng
nhất và các sản phẩm có đặc tính khác biệt đáng
kể với các sản phẩm khác trên thị trường dựa trên
những đặc trưng riêng của vùng sản xuất. Các đặc
trưng này phụ thuộc vào các yếu tố liên quan tới
vùng lãnh thổ như là điều kiện địa lý, khí hậu, hay
những tập quán sản xuất truyền thống và kiến
thức bản địa. Người sản xuất làm chủ các giai
đoạn sản xuất, chế biến và đưa sản phẩm ra thị
trường. Như vậy, để xác định như thế nào là đặc
sản, cần lưu ý tới 3 điểm: sự khác biệt (differ-
ence), gắn với vùng lãnh thổ (appartenance au
terroir) và tri thức truyền thống (neccessité du
savoir-faire). Ngoài ra, đặc sản đòi hỏi người sản
xuất phải tổ chức các kênh hàng phù hợp để
thương mại sản phẩm ra thị trường.
Trên thực tế, các sản phẩm có liên hệ (ít, nhiều) tới
địa danh vùng sản xuất thường được gọi là sản hoặc
truyền thống (terroir, d’origine hoặc tradionnel).
n Lưu Đức Thanh
Cục Sở hữu trí tuệ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU 
CHO CÁC ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG
Q uá trình hội nhập kinh tế quốc tế củaViệt Nam ngày càng diễn ra mạnhmẽ kể cả về chiều sâu và chiều rộng.
Trong quá trình đó, hoạt động sản xuất và kinh
doanh các đặc sản địa phương đã thu được nhiều
thành quả to lớn, góp phần nâng cao thu nhập
cho đồng bào khu vực có đặc sản. Nổi bật trong
số các đặc sản là các sản phẩm: cà phê, gạo,
chè, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, thuỷ sản... và các
sản phẩm làng nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh
Việt Nam đã và đang ký kết các Hiệp định
Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối
tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP),
Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu
Âu (EVFTA)... thì các biện pháp trợ cấp, bảo
hộ mang tính chất khuyến nông, khuyến công của
Nhà nước sẽ dần bị hạn chế, sản phẩm, bao gồm
cả các đặc sản của Việt Nam sẽ không còn lợi
thế về giá, do đó sẽ bị cạnh tranh gay gắt và
quyết liệt không chỉ tại các thị trường xuất khẩu
mà còn ngay cả ở thị trường nội địa. Vì vậy,
chúng ta cần xây dựng chiến lược nâng cao khả
năng cạnh tranh cho nông, lâm, thủy sản, các
sản phẩm làng nghề và các chính sách hỗ trợ.
Một trong những hướng ưu tiên để nâng cao sức
cạnh tranh cho nông, lâm thủy sản, các sản phẩm
làng nghề của Việt Nam là xây dựng, đăng ký và
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cho các loại
sản phẩm này.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [6]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
- Sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ
(Produit d’origine): là các sản phẩm có lợi
thế về mặt tự nhiên, văn hóa địa phương và
sở hữu đặc tính riêng nhưng không nhất thiết
là sản phẩm được sản xuất theo phương thức
sản xuất truyền thống, cổ truyền.
- Sản phẩm truyền thống (Produit
tradtionnel): là kết quả của thực hành sản
xuất truyền thống, nhưng nguyên vật liệu
ban đầu để sản xuất/chế biến có thể đến từ
các nơi khác.
Theo De Kop, Sautier và Gerz (2006),
đặc sản là các sản phẩm chỉ có thể sản xuất
trong một khu vực địa lý nhất định mà tại đó
thực hành sản xuất của con người cộng với
yếu tố về văn hóa, trải qua thời gian dài, đã
góp phần tạo ra những đặc tính sinh học
riêng có cho sản phẩm. Do tính đặc thù về
địa lý, danh tiếng và chất lượng, đặc sản
thường có giá trị gia tăng lớn hơn so với sản
phẩm thông thường cùng loại. Giá trị này
thuộc về cộng đồng sản xuất sản phẩm trong
nhiều năm, thậm chí qua nhiều thế hệ phát
triển thành đặc sản mang lại lợi ích lâu dài,
bền vững cho cộng đồng địa phương. 
Tóm lại, có thể định nghĩa đặc sản như
sau: “Đặc sản là sản phẩm có nguồn gốc từ
một khu vực, địa phương, vùng địa lý cụ thể,
có những tính chất đặc thù về hình thái, chất
lượng không giống các sản phẩm cùng loại
khác và các đặc tính này chủ yếu có được do
các điều kiện tự nhiên, con người vùng sản
xuất, chế biến sản phẩm tạo ra”. Nói một
cách đơn giản hơn, đặc sản là sản phẩm được
sản xuất hay khai thác ở một vùng nhất định
theo một quy trình, tập quán khai thác, sản
xuất nhất định, có những đặc tính, đặc điểm,
đặc trưng mà nơi khác không có được. 
2. Thương hiệu cho đặc sản địa phương
Cho đến nay, chưa có một văn bản pháp
luật nào về SHTT quy định về “thương
hiệu”, tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng
nhiều trong thương mại và nó có thể được
hiểu rằng “Thương hiệu là tổng hợp tất cả
các yếu tố vật chất, thẩm mỹ, lý lẽ và cảm
xúc của một sản phẩm, hoặc một dòng sản
phẩm, bao gồm bản thân sản phẩm ... p thể,
nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý cho
các đặc sản. Việc đăng ký, bảo vệ và phát
triển các địa danh gắn liền với sản phẩm
không chỉ là trách nhiệm, quyền lợi của
người dân trong mỗi khu vực mà còn là trách
nhiệm của mỗi chúng ta. 
2. Quản lý Nhà nước đối với địa danh
Theo quy định tại Điều 4.22, Điều 11
Luật SHTT năm 2005 và Điều 3 Nghị định
số 103/2006/NĐ-CP, quản lý Nhà nước đối
với các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý
(địa danh) được quy định như sau:
- Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện
xác lập quyền cho các dấu hiệu chỉ dẫn
nguồn gốc địa lý dùng cho các đặc sản địa
phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống.
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương quản lý các dấu hiệu chỉ
nguồn gốc địa lý tại địa phương.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa - Thể
thao - Du lịch hỗ trợ Ủy ban nhân dân
tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trong
việc quản lý các dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa
lý tại địa phương dùng cho các đặc sản địa
phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống
liên quan đến lĩnh vực mà mỗi Bộ quản lý.
3. Hiện trạng đăng ký nhãn hiệu tập
thể/nhãn hiệu chứng nhận
Tính đến ngày 01/4/2016, Cục SHTT đã
cấp giấy chứng nhận cho 722 nhãn hiệu tập
thể và nhãn hiệu chứng nhận, trong đó 609
nhãn hiệu tâp thể, 113 nhãn hiệu chứng nhận. 
Trên cơ sở thẩm định các đơn đăng ký
nhãn hiệu tập/nhãn hiệu chứng nhận, có thể
rút ra một số nhận xét sau đây:
Đối với nhãn hiệu tập thể
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu tập thể rất đa dạng, bao gồm: tổ hợp tác,
cơ sở sản xuất, Hợp tác xã nông nghiệp, Hợp
tác xã sản xuất sản xuất, Liên hiệp hợp tác
xã, Hội/Hiệp hội sản xuất/kinh doanh, Hội
Nông dân, Hội làm vườn, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Công ty TNHH, Làng nghề, Câu lạc bộ, Trạm
Khuyến nông, Trung tâm nghiên cứu.
- Phần lớn các nhãn hiệu tập thể đều chưa thể hiện
được chất lượng của sản phẩm/dịch vụ và khu vực địa
lý tương ứng với địa danh (trong quy chế sử dụng
nhãn hiệu tập thể). 
Đây cũng trở thành khó khăn trong hoạt động quản
lý, phát triển của các nhãn hiệu tập thể, đặc biệt là vai
trò và khả năng phát triển các nhãn hiệu tập thể của
các chủ sở hữu. Với đặc điểm về sản xuất, đặc điểm
hoạt động của các tổ chức chính trị như: hội nông dân,
hội làm vườn, hội phụ nữ... hay năng lực hoạt động
của các Hợp tác xã, hiệp hội/hội sản xuất kinh doanh...
đã tạo ra nhiều khó khăn trong quản lý và khai thác
nhãn hiệu tập thể. Sự phát triển của các nhãn hiệu tập
thể phải được gắn liền với việc sử dụng các dấu hiệu
“địa danh” trên sản phẩm, cung cấp các sản phẩm đảm
Nhãn hiệu tập thể Hương trầm Quỳ Châu
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [10]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
bảo chất lượng, danh tiếng đến người tiêu
dùng. Điều đó phụ thuộc vào việc hình thành
các chuỗi giá trị, kênh phân phối... và đây
cũng là điểm yếu của các chủ sở hữu nhãn
hiệu tập thể hiện nay.
Cùng với đó, việc chất lượng sản
phẩm/dịch vụ chưa được xác định rõ ràng đã
gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động quản
lý. Cụ thể như nhãn hiệu tập thể Hương trầm
Quỳ Châu, việc xác định đâu là sản phẩm
đặc thù mang nhãn hiệu tập thể Quỳ Châu
trong bối cảnh yêu cầu của thị trường khó
phát triển được hương sạch hay quy trình sản
xuất sản phẩm khác biệt, đa dạng đã dẫn đến
những khó khăn trong hoạt động quản lý của
Hợp tác xã và địa phương.
Ngoài ra, đối tượng địa danh dùng cho
các sản phẩm nông nghiệp, các đặc sản
thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước quản
lý nhằm đảm bảo việc cấp quyền sử dụng
công bằng và khách quan. Một trong những
hình thức thực hiện điều này hiệu quả nhất
là thành lập hoặc hỗ trợ thành lập Tổ chức
chung (Hội, Hiệp hội, tổ chức đa ngành, hợp
tác xã) đại diện cho quyền và quyền lợi
của những người sản suất/kinh doanh/người
cung cấp dịch vụ truyền thống. Những người
này thống nhất thông qua một quy chế sử
dụng địa danh làm nhãn hiệu tập thể (Quy
chế sử dụng nhãn hiệu tập thể), xin phép
UBND tỉnh được sử dụng địa danh này và
nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể. Tuy
nhiên, mặc dù những chủ thể đăng ký rất ý
thức được việc phải đăng ký nhãn hiệu tập
thể, nhưng họ lúng túng trong việc xin phép
sử dụng địa danh và xây dựng cơ chế chung
(Quy chế) để quản lý và sử dụng nhãn hiệu
tập thể. Hơn nữa, chưa có gì đảm bảo là phần
lớn các chủ thể đăng ký được liệt kê trên đây
đều là các tổ chức đại diện cho quyền và
quyền lợi của những người sản suất/kinh
doanh/người cung cấp dịch vụ truyền thống
trong khu vực địa lý đồng thời còn có thể làm
giảm uy tín/danh tiếng của sản phẩm/dịch vụ
do không có cơ chế chung để kiểm soát chất
lượng sản phẩm. 
Đối với nhãn hiệu chứng nhận:
- Tất cả các chủ nhãn hiệu chứng nhận là
cơ quan Nhà nước (UBND tỉnh/huyện, Sở Khoa học
và Công nghệ, Trung tâm Khuyến nông, Khuyến
công);
- Các hồ sơ đơn đều thực hiện đúng quy định pháp
luật, đặc biệt là Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng
nhận bao gồm đầy đủ các nội dung theo quy định pháp
luật.
Mặc dù các địa phương đã xây dựng các bộ hồ sơ
đăng ký nhãn hiệu chứng nhận tương đối hoàn chỉnh,
song do thời gian thực hiện còn tương đối ngắn nên
chưa thể đánh giá được hiệu lực và hiệu quả của các
nhãn hiệu chứng nhận này. Tuy nhiên, theo ghi nhận
mới đây của Cục SHTT, một số nhãn hiệu chứng nhận
đã thu được hiệu quả mong muốn như: “Hoa Đà Lạt”,
“Rau an toàn Mộc Châu”, nước mắm Cát Hải...
4. Hiện trạng đăng ký chỉ dẫn địa lý
Tính đến 30/5/2016, Cục SHTT đã cấp 47 Giấy
chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý (trong đó có 4 chỉ
dẫn địa lý của nước ngoài). Trên cơ sở thẩm định các
đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý nêu trên và trong quá trình
sử dụng các chỉ dẫn địa lý trên thực tế, có thể rút ra
một số nhận xét sau đây:
- Chủ thể đăng ký (người nộp đơn): chủ thể đăng
ký chỉ dẫn địa lý của các chỉ dẫn địa lý chủ yếu là Ủy
ban nhân dân tỉnh hoặc cơ quan được ủy quyền như:
Sở khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân
huyện/thành phố trực thuộc tỉnh hoặc Hiệp hội, Hội
(được UBND tỉnh cho phép) như: Hội sản xuất nước
mắm Phú Quốc, Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu, Hiệp
hội thanh long Bình Thuận.
- Chủ thể quản lý: Tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý
được ghi nhận chủ yếu là Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc
cơ quan được ủy quyền (Sở khoa học và Công nghệ,
Ủy ban nhân dân huyện/thành phố trực thuộc tỉnh) và
một Hiệp hội (Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu). Trong
số 43 chỉ dẫn địa lý đã có 35 chỉ dẫn địa lý có các quy
chế quản lý, theo đó chủ thể quản lý là Sở Khoa học
và Công nghệ chiếm tỷ trọng chính trong các mô hình
quản lý chỉ dẫn địa lý của Việt Nam với 63% (tương
đương 22 chỉ dẫn địa lý), 34% là do UBND huyện là
chủ thể quản lý, chỉ có 1 chỉ dẫn địa lý có chủ thể quản
lý là Hội.
Như vậy, thực tế hiện nay là nhà nước đóng vai trò
là chủ thể quản lý chỉ dẫn địa lý, quản lý chỉ dẫn địa
lý trở thành một đối tượng trong quản lý nhà nước ở
địa phương, trở thành chức năng, nhiệm vụ của các
đơn vị đang thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Có thể thấy là các chỉ dẫn địa lý đều được đặt dưới sự
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [11]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
quản lý trực tiếp của Nhà nước (Ủy ban nhân
dân tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy
ban nhân dân Huyện). Sở dĩ có hiện trạng
này là do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan nhưng chủ yếu nhất vẫn là chưa
có Tổ chức đại diện chung cho quyền và
quyền lợi của các nhà sản xuất/kinh doanh
trong khu vực địa lý, đồng thời tổ chức đó
phải có đủ năng lực để đảm nhận đầy đủ các
hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý.
Theo kết quả ghi nhận của Cục SHTT,
hiện nay đa số các chỉ dẫn địa lý đã thành
lập hội/hiệp hội. Tuy nhiên, phần lớn các
Hiệp hội này vẫn còn lúng túng trong việc
quản lý chỉ dẫn địa lý, họ chỉ đóng vai trò
phối hợp chứ chưa thực sự là chủ thể trong
quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý. 
Do tại các khu vực địa lý, các nhà sản
xuất/kinh doanh chưa thể tập trung được
nguồn lực để bảo vệ, quản lý và phát triển
chỉ dẫn địa lý của mình. Nên Ủy ban nhân
dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương
(thông qua Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy
ban nhân dân huyện) phải đứng ra yêu cầu
xác lập quyền cho chỉ dẫn địa lý (lập hồ sơ
và đăng ký) và sau đó cũng đứng ra quản lý
chỉ dẫn địa lý, và đương nhiên là Nhà nước
phải bỏ ra một chi phí rất lớn. Thực tế hiện
nay cho thấy, các địa phương mới chỉ hoàn
thành việc xác lập quyền, trong khi cơ chế
và các thao tác quản lý chưa được thiết lập
hoặc nếu có thì cũng chưa hoạt động hiệu
quả. Điều này dẫn đến hiệu lực và hiệu quả
của Văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý chưa
được như mong muốn.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN THƯƠNG HIỆU CHO ĐẶC
SẢN ĐỊA PHƯƠNG 
Xuất phát từ các phân tích trên đây, và từ
thực tiễn, có thể đề xuất một số biện pháp
nhằm phát triển thương hiệu cho nông sản
Việt Nam như sau:
1. Ở cấp Trung ương 
- Hoàn thiện khung pháp lý cho việc đăng
ký quyền SHTT cho địa danh sử dụng cho
đặc sản/dịch vụ truyền thống. Hiện nay, pháp
luật về SHTT của chúng ta còn thiếu quy
định về kiểm soát chỉ dẫn địa lý và các quy
định về biểu tượng chung (ví dụ biểu tượng chỉ dẫn
địa lý quốc gia) cho đặc sản. 
+ Việt Nam hiện nay không có quy định pháp luật
ở mức độ quốc gia (Luật, Nghị định, Thông tư...) cụ
thể về kiểm soát chỉ dẫn địa lý, nghĩa là pháp luật hiện
nay chưa quy định là chỉ dẫn địa lý được kiểm soát
như thế nào, kiểm soát gì và ai kiểm soát. Thực tế hiện
nay, mỗi chỉ dẫn địa lý sẽ có một quy chế kiểm soát
chỉ dẫn địa lý riêng, quy định cụ thể về tổ chức bộ
máy, quy trình và cách thức tổ chức kiểm soát. Việc
xây dựng quy định về Tổ chức chứng nhận với nhiệm
vụ kiểm soát và chứng nhận chất lượng, nguồn gốc
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý là cần thiết. Tổ chức
này hoàn toàn độc lập với tổ chức tập thể của các nhà
sản xuất/ kinh doanh, vì thế còn được gọi là tổ chức
thứ ba. Tổ chức chứng nhận đóng vai trò quan trọng
trong việc thực hiện các hoạt động nhằm kiểm tra chất
lượng và nguồn gốc của sản phẩm, đảm bảo tính
khách quan, trung thực trong việc tuân thủ các quy
định. Nếu như việc xác lập quyền cho các sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý đảm bảo cho quyền sử dụng địa
danh như một dấu hiệu đặc biệt chỉ dẫn nguồn gốc cho
sản phẩm của cộng đồng những người sản xuất ở địa
phương thì việc thiết lập các tổ chức chứng nhận lại
được coi là một khâu thiết yếu để đảm bảo rằng sản
phẩm được cung ứng ra thị trường xứng đáng với chất
lượng và danh tiếng mà nó đã được công nhận. 
+ Cần có các quy định về biểu tượng chung nhằm
xây dựng hình ảnh của các khu vực và/hoặc của quốc
gia thông qua đặc sản của các khu vực đó và sản phẩm
nông nghiệp chủ đạo của quốc gia (như: thủy sản, lúa
gạo, cà phê, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, chè...). Một
doanh nghiệp muốn cho sản phẩm của họ được mang
biểu tượng chung, thì cần phải đảm bảo các tiêu chí
về chất lượng và nguồn gốc (được quy định trong quy
chế sử dụng biểu tượng) và phải được một tổ chức
chứng nhận chứng nhận là đã tuân thủ các quy định
trong quy chế. 
- Cần có chính sách tổng thể của Nhà nước hỗ trợ
thành lập các tổ chức tập thể có đủ năng lực để quản
lý, đăng ký và bảo vệ và phát triển một nhãn hiệu
chung (nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
chứng nhận). Chính sách tổng thể như vậy ít nhất cần
phải bao gồm các vấn đề sau: quy hoạch, tài chính, hỗ
trợ pháp lý, kỹ thuật, đào tạo nhân lực, môi trường,
thông tin, quảng bá sản phẩm, sự phối hợp của các cơ
quan có thẩm quyền
- Cần đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền SHTT nói
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 4/2018 [12]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
chung và đặc biệt là cho đặc sản (phối hợp
với các địa phương và trên phạm vi toàn
quốc). Nếu công tác bảo vệ quyền đối với
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý,
nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận
được thực hiện quyết liệt và có hiệu quả, các
nhà sản xuất/ kinh doanh đặc sản có thể yên
tâm đầu tư, sản suất/kinh doanh, quyết định
giá bán sản phẩm phù hợp mà không còn e
ngại về hàng giả, hàng kém chất lượng và
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
thể làm giảm uy tín của sản phẩm của họ hay
làm lũng đoạn thị trường.
2. Ở cấp địa phương
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định thành lập và
hỗ trợ thành lập tổ chức tập thể, đồng thời
cho phép tổ chức này đăng ký và quản lý chỉ
dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
chứng nhận. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng
có thể chỉ định một cơ quan cấp dưới (Ủy
ban nhân dân huyện/xã) hoặc một cơ quan
chuyên môn (Sở Khoa học và Công nghệ, Sở
Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn) của mình đăng ký và quản lý chỉ
dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận.
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương thông qua các cơ quan
chuyên môn của mình kiểm tra, giám sát hoạt
động của tổ chức tập thể nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích của các thành viên thuộc tổ chức.
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương thông qua các cơ quan
chuyên môn của mình hoặc thành lập tổ
chức riêng để kiểm soát chất lượng và nguồn
gốc sản phẩm do các thành viên của tổ chức
tập thể sản xuất.
- Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương xây dựng các chính sách
hỗ trợ sản xuất, quảng bá sản phẩm và bảo
vệ quyền SHTT đối với các đặc sản thuộc
địa phương.
3. Đối với các nhà sản xuất/kinh doanh
Để bảo vệ chất lượng và danh tiếng cho
các đặc sản của mình, các nhà sản xuất/kinh
doanh tại địa phương nên cùng tập hợp nhau
lại trong một tổ chức tập thể (ví dụ một Hiệp
hội) để tập trung sức mạnh, thống nhất chiến
lược/kế hoạch từng bước xây dựng thương hiệu cho
các đặc sản của mình.
Để thành lập được Hiệp hội các nhà sản xuất,
trước hết cần phải tuyên truyền để người dân, các nhà
sản, kinh doanh xuất ý thức được vai trò của việc bảo
vệ tài sản trí tuệ liên quan đến sản phẩm của mình và
ý thức được lợi ích của việc thành lập, tham gia Hiệp
hội các nhà sản xuất. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh
có thể tạo lập cho mình các nhãn hiệu riêng đồng thời
tham gia vào các Hiệp hội sản xuất để tận dụng nhiều
lợi thế đưa lại từ cộng đồng. Để các Hiệp hội này
thành lập và hoạt động hiệu quả, trước hết cần đến
tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các nhà sản xuất sau
đó mới cần đến chiến lược phát triển đúng đắn của
Hiệp hội.
Sau khi đã thành công trong việc thành lập các
Hiệp hội, các địa phương cần phải cân nhắc để lựa
chọn hình thức xác lập quyền cho sản phẩm mang tên
địa danh của địa phương mình. Nếu sản phẩm đã có
danh tiếng trên thị trường và có các tính chất, chất
lượng đặc thù được quyết định bởi điều kiện địa lý,
địa phương có thể bảo hộ địa danh theo hình thức bảo
hộ chỉ dẫn địa lý. Đối với các sản phẩm không đáp
ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ theo hình thức chỉ dẫn
địa lý, có thể lựa chọn hình thức bảo hộ nhãn hiệu tập
thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận. 
Tùy theo từng hình thức đăng ký, tổ chức tập thể
cần phải xây dựng quy chế sử dụng đối tượng này,
đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và kiểm soát chất
lượng sản phẩm phù hợp./.
(*) Báo cáo Thương mại các sản phẩm đặc sản vùng, miền (La
mise en marche des produits de terroir: defies et strategie)
Hội chợ Cam Vinh - Nghệ An (12/2017)

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_va_phat_trien_thuong_hieu_cho_cac_dac_san_cua_dia_p.pdf