Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng

Năm 1950, với công trình nghiên cứu của Chương trình học và giảng “Những nguyên lý cơ bản

dạy”, nhà giáo dục nổi tiếng của Mỹ Ralph W.

Tyler đã đưa ra nguyên lý Tyler, một nguyên lý

đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt các bộ môn

khoa học giáo dục của Mỹ cũng như trên thế

giới. Trong tác phẩm này, ông đã lần đầu tiên

xác định đúng đắn các yếu tố cơ bản của quá

trình giáo dục gồm: mục tiêu (objective), nội

dung chuyên môn (subject matter), phương

pháp và tổ chức (method and organization) và

đánh giá (evaluation), đồng thời phân tích mối

quan hệ tương tác giữa các yếu tố này để vạch

ra phương hướng xác định chúng trong quá trình

dạy học. Sau Tyler, các nhà giáo dục của Mỹ

và thế giới như Benjamin S. Bloom, Anita J.

Harlow, Hilda Taba đã tiếp tục đi sâu nghiên

cứu và phát triển hệ thống lý luận dựa trên mối

quan hệ tương tác giữa bốn yếu tố cơ bản của

quá trình giáo dục, trở thành nội dung bao trùm

ngành giáo dục cũng như đi sâu vào mọi cấp

học, mọi bộ môn, khóa trình cũng như bài học

ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới bao gồm cả

Việt Nam. Trong bốn yếu tố nêu trên, nội dung

chuyên môn là một thành tố quan trọng và có

mối liên hệ chặt chẽ với ba thành tố còn lại. Nội

dung chuyên môn chính là lượng kiến thức được

lựa chọn để sử dụng trong quá trình dạy học và

có tác động rất lớn đến tính hiệu quả của quá

trình này. Việc lựa chọn nội dung chuyên môn

phù hợp, đúng đắn và vừa sức là vô cùng cần

thiết để góp phần mang đến thành công của dạy

học.

Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng trang 1

Trang 1

Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng trang 2

Trang 2

Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng trang 3

Trang 3

Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng trang 4

Trang 4

Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 03/01/2022 9240
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng

Xây dựng nội dung chuyên môn trong quá trình giáo dục - Vấn đề lý thuyết và ứng dụng
GIAÙO DUÏC - ÑAØO TAÏO // TAÏP CHÍ KHOA HOÏC CAÛNH SAÙT NHAÂN DAÂN
5SOÁ 12 // THAÙNG 11 NAÊM 2015
XAÂY DÖÏNG NOÄI DUNG CHUYEÂN MOÂN TRONG QUAÙ TRÌNH GIAÙO DUÏC - 
VAÁN ÑEÀ LYÙ THUYEÁT VAØ ÖÙNG DUÏNG
Đại úy, ThS. Đinh Ngọc Hạnh *
 Tóm tắt nội dung: Các yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục gồm: mục tiêu (objective), 
nội dung chuyên môn (subject matter), phương pháp và tổ chức (method and organization) 
và đánh giá (evaluation). Trong bốn yếu tố nêu trên, nội dung chuyên môn là một thành tố 
quan trọng và có mối liên hệ chặt chẽ với ba thành tố còn lại. Việc lựa chọn nội dung chuyên 
môn phù hợp, đúng đắn và vừa sức là vô cùng cần thiết để góp phần mang đến thành công 
của dạy học. Tuy nhiên, muốn xác định đúng nội dung chuyên môn không phải là việc đơn 
giản, mà cần phải hiểu rõ khái niệm, đặc trưng của nó cũng như mối quan hệ giữa nó với các 
yếu tố khác.
*****
---------------------------------------------------------------
* Tổ trưởng, Phòng QLNCKH,
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II.
Năm 1950, với công trình nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của Chương trình học và giảng 
dạy”, nhà giáo dục nổi tiếng của Mỹ Ralph W. 
Tyler đã đưa ra nguyên lý Tyler, một nguyên lý 
đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt các bộ môn 
khoa học giáo dục của Mỹ cũng như trên thế 
giới. Trong tác phẩm này, ông đã lần đầu tiên 
xác định đúng đắn các yếu tố cơ bản của quá 
trình giáo dục gồm: mục tiêu (objective), nội 
dung chuyên môn (subject matter), phương 
pháp và tổ chức (method and organization) và 
đánh giá (evaluation), đồng thời phân tích mối 
quan hệ tương tác giữa các yếu tố này để vạch 
ra phương hướng xác định chúng trong quá trình 
dạy học. Sau Tyler, các nhà giáo dục của Mỹ 
và thế giới như Benjamin S. Bloom, Anita J. 
Harlow, Hilda Taba đã tiếp tục đi sâu nghiên 
cứu và phát triển hệ thống lý luận dựa trên mối 
quan hệ tương tác giữa bốn yếu tố cơ bản của 
quá trình giáo dục, trở thành nội dung bao trùm 
ngành giáo dục cũng như đi sâu vào mọi cấp 
học, mọi bộ môn, khóa trình cũng như bài học 
ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới bao gồm cả 
Việt Nam. Trong bốn yếu tố nêu trên, nội dung 
chuyên môn là một thành tố quan trọng và có 
mối liên hệ chặt chẽ với ba thành tố còn lại. Nội 
dung chuyên môn chính là lượng kiến thức được 
lựa chọn để sử dụng trong quá trình dạy học và 
có tác động rất lớn đến tính hiệu quả của quá 
trình này. Việc lựa chọn nội dung chuyên môn 
phù hợp, đúng đắn và vừa sức là vô cùng cần 
thiết để góp phần mang đến thành công của dạy 
học. Tuy nhiên, muốn xác định đúng nội dung 
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC CAÛNH SAÙT NHAÂN DAÂN // GIAÙO DUÏC - ÑAØO TAÏO
6 SOÁ 12 // THAÙNG 11 NAÊM 2015
chuyên môn không phải là việc đơn giản, mà 
cần phải hiểu rõ khái niệm, đặc trưng của nó 
cũng như mối quan hệ giữa nó với các yếu tố 
khác. Những vấn đề mang tính lý thuyết về nội 
dung chuyên môn sẽ là nền tảng vững chắc để 
các nhà giáo dục vận dụng xây dựng chương 
trình học phù hợp.
Thuật ngữ “nội dung chuyên môn” trước 
hết chính là nội dung kiến thức được lựa chọn, 
sử dụng trong quá trình giáo dục, nhằm đáp ứng 
mục tiêu của quá trình giáo dục. Tuy nhiên, nội 
dung chuyên môn còn bao hàm cả kỹ năng và 
thái độ - tình cảm liên quan đến kiến thức. Do 
đó, xét một cách tổng quát, nội dung chuyên 
môn là những kiến thức, kỹ năng và thái độ - 
tình cảm được lựa chọn để đáp ứng mục tiêu 
giáo dục (Lê Quốc Vinh, 2011).
Do quá trình giáo dục có nhiều cấp độ 
khác nhau nên nội dung chuyên môn cũng có 
nhiều cấp độ từ thấp đến cao, nội dung cấp độ 
trên bao hàm nội dung cấp độ dưới, nội dung 
cấp độ dưới tổng hợp thành nội dung của cấp 
độ trên. Trong chương trình học nhà trường, nội 
dung chuyên môn được trình bày thành nội dung 
môn học, tức lượng kiến thức, kỹ năng và thái 
độ - tình cảm chứa đựng trong mỗi môn học, 
tạo nên những giá trị khác, hợp thành năng lực 
chung của người học. Do đó, Hội đồng Nghiên 
cứu Quốc gia (National Research Council) của 
Mỹ đã đưa ra định nghĩa như sau: “Nội dung là 
những gì mà học sinh được học” (1996).
Theo Hilda Taba (1962), nội dung kiến 
thức có các đặc tính như sau:
- Dung lượng của kiến thức (content): 
đây là lượng thông tin có sẵn của mỗi loại kiến 
thức. Tùy theo trình độ học vấn mà sử dụng 
lượng thông tin nhiều hay ít. Nếu lượng thông tin 
quá ít thì không đạt được đầy đủ mục tiêu giáo 
dục; ngược lại, nếu lượng thông tin quá nhiều thì 
gây nên sự “quá tải” đối với người học và mục 
tiêu giáo dục cũng không thể đạt được một cách 
thỏa đáng. Như vậy, vấn đề quan trọng là phải 
sử dụng đúng mức lượng thông tin cần thiết cho 
trình độ được yêu cầu.
- Quá trình của kiến thức (process): là 
quá trình phát triển theo một đường lối nào đó 
để hình thành kiến thức. Để lĩnh hội kiến thức, 
người học không chỉ tiếp thu một dung lượng 
thông tin mà còn phải tiếp nhận quá trình phát 
triển của kiến thức đó. Quá trình này tạo nên 
cấu trúc của kiến thức và rèn luyện cho người 
học phương pháp tư duy khoa học để phát triển 
và giải quyết vấn đề. Vì vậy, nhà giáo dục phải 
điều chỉnh sự tương quan giữa dung lượng và 
quá trình của kiến thức để đạt được một tỷ lệ 
hợp lý cho người học tiếp thu kiến thức có hiệu 
quả tốt nhất.
- Bề rộng của kiến thức (breadth): là 
phạm vi bao quát trên bề mặt của toàn bộ kiến 
thức, bao gồm mọi thông tin liên quan trực tiếp 
hoặc gián tiếp đến kiến thức đó. Bề rộng của 
kiến thức thường xuyên được mở rộng nhưng 
trong mọi quá trình giáo dục, mỗi kiến thức đều 
chịu sự giới hạn của thời gian đào tạo và những 
điều kiện vật chất khác. Do đó, khi thiết kế hay 
dạy học một chương trình môn học phải lưu ý 
vấn đề kiến thức được mở rộng đến đâu thì mới 
hiệu quả.
- Chiều sâu của kiến thức (depth): thể 
hiện ở lượng thông tin phong phú và đa dạng, 
đem lại cho người học sự hiểu biết đầy đủ, rõ 
ràng và sâu sắc về kiến thức đó. Chiều sâu của 
kiến thức mâu thuẫn với bề rộng của kiến thức 
không thể đồng thời đạt đến giới hạn tối đa của 
hai đặc tính này. Vì vậy nhà giáo dục cần phải 
xác định được một sự cân bằng giữa bề rộng và 
chiều sâu của kiến thức.
Sau khi giải quyết các vấn đề liên quan 
đến đặc tính của kiến thức, nhà giáo dục còn 
phải lưu tâm đến các trình độ của nội dung kiến 
GIAÙO DUÏC - ÑAØO TAÏO // TAÏP CHÍ KHOA HOÏC CAÛNH SAÙT NHAÂN DAÂN
7SOÁ 12 // THAÙNG 11 NAÊM 2015
thức trong chuỗi học vấn. Cho đến nay, cách 
phân loại trình độ nội dung của Hilda Taba 
(1962) vẫn đang phổ biến với 4 trình độ khác 
nhau, sắp xếp từ thấp đến cao như sau:
- Các sự kiện và quá trình riêng biệt: 
Đây là trình độ cơ sở của kiến thức, bao gồm 
những kiến thức riêng biệt và cụ thể như: những 
sự việc cụ thể, những quá trình, kỹ năng cụ 
thể Ví dụ: miêu tả về hệ thống tổ chức của 
lực lượng Cảnh sát kinh tế, những quá trình thực 
hiện việc lập hồ sơ điều tra cơ bản, những thí 
nghiệm trong kỹ thuật hình sự Kiến thức ở 
trình độ này đơn giản, chưa lôi cuốn người học 
vào những hoạt động trí tuệ tích cực, chưa tạo ra 
được những ý tưởng mới, nhưng lại là những kiến 
thức trực quan sinh động rất cần thiết và không 
thể thiếu, hợp thành nền tảng tri thức trong quá 
trình nhận thức. Đây chính là nguyên liệu thô 
của quá trình phát triển tư duy.
- Các ý tưởng và nguyên lý cơ bản: Đây 
là trình độ thứ hai của nội dung kiến thức, gồm 
những ý tưởng có tầm khái quát cao như những 
ý tưởng về mối quan hệ nhân quả trong chủ 
nghĩa duy vật biện chứng hay những nguyên lý 
và quy luật xã hội, những định luật khoa học, 
những sự kiện lịch sử quan trọng có quy mô 
lớn Đây là loại nội dung kiến thức năng động 
hơn, có thể ứng dụng để hiểu các sự kiện, các 
hiện tượng và vấn đề trong một phạm vi rộng và 
cũng được dùng để giải thích, dự đoán về các 
sự kiện, hiện tượng đang diễn ra hoặc sẽ hình 
thành. Do đó, nó có tác dụng rèn luyện và phát 
triển khả năng tư duy của người học. Đây được 
coi là chất liệu chính để tạo nên cấu trúc của nội 
dung môn học.
- Các khái niệm: Là những hệ thống 
phức tạp của tư duy trừu tượng cao, chỉ được tạo 
nên từ những quá trình nhận thức nối tiếp nhau 
trong các bối cảnh đa dạng. Chúng không thể 
được tạo thành từ một đơn vị kiến thức riêng biệt 
nào đó, mà cần phải được đan dệt trong toàn bộ 
khuôn khổ chương trình học, được rà soát qua 
nhiều trình độ với mức độ khái quát theo hướng 
tăng dần. Ví dụ: các khái niệm về sưu tra, xác 
minh hiềm nghi Đây là loại kiến thức tạo nên 
nền móng của quá trình nhận thức, được hình 
thành qua quá trình tích lũy thông tin và sự kiện, 
tồn tại và được sử dụng xuyên suốt quá trình 
giáo dục. Quá trình tích lũy thông tin và sự kiện 
để hình thành khái niệm từ cụ thể đến trừu tượng 
cũng chính là quá trình rèn luyện khả năng tổng 
hợp và khái quát hóa của người học.
- Các hệ thống tư tưởng (phạm trù): 
Đây là trình độ cao nhất của nội dung kiến thức, 
là tập hợp các nội dung kiến thức ở trình độ thấp 
hơn chủ yếu là các ý tưởng, nguyên lý cơ bản, 
khái niệm được hệ thống hóa theo một dòng 
lưu thông của tư duy. Ví dụ như: tư tưởng Hồ Chí 
Minh, các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật 
biện chứng Hệ thống tư tưởng có vai trò vô 
cùng quan trọng trong giáo dục, mở ra những 
đường lối logic cho sự liên kết các sự kiện và các 
ý tưởng để tạo nên những tư tưởng mới, quy định 
những phương pháp tư duy hợp lý để phát hiện 
và giải quyết các vấn đề trong chuyên môn cũng 
như trong đời sống, tạo nên nền tảng để hình 
thành nhân sinh quan và thế giới quan cho người 
học. Đối với nhà giáo dục, đây chính là một trọng 
tâm định hướng cho việc thiết kế chương trình và 
cho quá trình dạy học một môn học. 
Nhìn chung các trình độ kiến thức khác 
nhau về các mức độ đơn giản và phức tạp, riêng 
biệt và khái quát, cụ thể và trừu tượng Những 
kiến thức ở trình độ cao có tính chất phức tạp, 
khái quát và trựu tượng ngày càng tăng nhưng 
chúng chỉ được hình thành trên cơ sở những 
kiến thức riêng biệt, đơn giản và cụ thể hơn ở 
trình độ thấp hơn. Vì vậy, 4 trình độ kiến thức 
hợp thành chuỗi học vấn liên hoàn chặt chẽ và 
không thể cắt rời để bỏ qua một trình độ nào. 
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC CAÛNH SAÙT NHAÂN DAÂN // GIAÙO DUÏC - ÑAØO TAÏO
8 SOÁ 12 // THAÙNG 11 NAÊM 2015
Mỗi chuỗi học vấn thường được khởi đầu từ 
những sự kiện và quá trình riêng biệt, tiến tới các 
ý tưởng và nguyên lý cơ bản, qua khái niệm rồi 
đến hệ thống tư tưởng. Như vậy, nó phù hợp với 
quy luật của tư duy: từ trực quan sinh động đến 
tư duy trừu tượng rồi tác động lại thực tiễn; đồng 
thời cũng tương ứng với quá trình nhận thức: từ 
cảm tính đến lý tính, hình thành biểu tượng, khái 
niệm và phạm trù. 
Ngoài ra, khi xác định nội dung chuyên 
môn cho môn học, nhà giáo dục còn cần lưu 
ý đến những yêu cầu để nội dung chuyên môn 
có hiệu lực. Theo Tada (1962), có 03 yêu cầu 
chính sau:
- Nội dung chuyên môn phải được cập 
nhật: Tri thức là tương đối và luôn luôn biến đổi 
để phát triển; vì vậy, nội dung chuyên môn trong 
các quá trình giáo dục phải bắt kịp với nhịp điệu 
phát triển nhanh chóng của tri thức khoa học 
thông qua việc được cập nhật thường xuyên, có 
như vậy nó mới phát huy được hiệu lực trong 
quá trình giáo dục. Những nội dung lạc hậu và 
lỗi thời sẽ chỉ khiến người học mệt mỏi một cách 
vô ích. Sự lạc hậu và lỗi thời của kiến thức có 
nhiều dạng khác nhau: lạc hậu về các sự kiện, 
về ý nghĩa chứa đựng bên trong các khái niệm, 
về những lý thuyết để tổ chức và giải thích các 
sự kiện; lỗi thời về cách tiếp cận hoặc kiểu tư 
duy được sử dụng, bao gồm cả cách đặt vấn đề 
và giải quyết vấn đề. Do đó việc cập nhật kiến 
thức luôn đi cùng với việc cập nhật kỹ năng và 
thái độ - tình cảm.
- Nội dung chuyên môn phải mang 
tính cơ bản: Nội dung chuyên môn mà trước 
hết là nội dung kiến thức phải mang tính cơ bản, 
tức là kiến thức chính xác, có độ ổn định tương 
đối cao, có phạm vi ảnh hưởng tương đối rộng, 
để từ đó có thể tìm hiểu nó sâu hơn hoặc có thể 
tiếp cận thêm những kiến thức mới. Đây cũng 
chính là kiến thức chuẩn mực của chương trình 
giáo dục. Đối với các trình độ khác nhau của nội 
dung kiến thức, kiến thức cơ bản tồn tại trong cả 
04 trình độ kiến thức. Với các kiến thức cơ bản 
ở mỗi trình độ, các sự kiện và quá trình riêng 
biệt được coi là nền móng, các ý tưởng cơ bản, 
nguyên lý cơ bản và các khái niệm tạo thành 
nòng cốt, các hệ thống tư tưởng là kết cấu hoàn 
chỉnh của cả chuỗi học vấn cơ bản, cũng như 
của chương trình học.
- Nội dung kiến thức cần truyền đạt 
tinh thần và phương pháp tìm hiểu: Nội 
dung kiến thức phải truyền đạt được tinh thần 
và phương pháp tìm hiểu nó để có thể phát huy 
đầy đủ hiệu lực trong quá trình giáo dục. Điều 
này đòi hỏi các nhà thiết kế chương trình giáo 
dục và giáo viên phải chú trọng cùng lúc cả hai 
đặc tính của nội dung kiến thức là “dung lượng” 
và “quá trình”. Để truyền đạt cho người học thì 
nội dung kiến thức phải chứa đựng những thông 
tin phản ánh tinh thần và tạo điều kiện cho việc 
thực hiện phương pháp tìm hiểu nó. Ví dụ để 
học tốt môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, 
người học phải học để hỏi và trả lời những câu 
hỏi của nhà lịch sử, và học để xử lý những bằng 
chứng, những sự kiện, những quan điểm lịch sử 
như những nhà sử học vẫn làm.
Tóm lại, nội dung chuyên môn của một 
môn học luôn thể hiện 04 đặc tính của nội dung 
kiến thức (dung lượng và quá trình, bề rộng và 
chiều sâu); được phân loại thành 04 trình độ liên 
quan chặt chẽ với nhau (các sự kiện và quá trình 
riêng biệt, các ý tưởng và nguyên lý cơ bản, các 
khái niệm, các hệ thống tư tưởng) và phải đáp 
ứng 03 yêu cầu để phát huy hiệu lực (về tính 
cập nhật, tính cơ bản, tinh thần và phương pháp 
tìm hiểu). 
Việc lựa chọn và xây dựng nội dung 
chuyên môn đối với từng môn học đóng vai trò 
vô cùng quan trọng, có tác động lớn đến mức 
độ hiệu quả của quá trình giáo dục. Nội dung 
GIAÙO DUÏC - ÑAØO TAÏO // TAÏP CHÍ KHOA HOÏC CAÛNH SAÙT NHAÂN DAÂN
9SOÁ 12 // THAÙNG 11 NAÊM 2015
chuyên môn có mối quan hệ tương tác không 
thể tách rời với 3 thành tố còn lại của quá trình 
giáo dục là mục tiêu, phương pháp và tổ chức và 
đánh giá. Nội dung chịu sự chi phối của mục tiêu 
nhưng nó cũng đồng thời tác động lại mục tiêu. 
Ngoài ra nội dung chuyên môn chi phối phương 
pháp và tổ chức. Nội dung chuyên môn cùng với 
phương pháp và tổ chức là cơ sở và định hướng 
của đánh giá.
Như vậy, để có thể nâng cao hiệu quả 
của quá trình giảng dạy, không thể không chú ý 
đến việc phát huy tác dụng của yếu tố nội dung 
chuyên môn. Trong giai đoạn hiện nay, việc lựa 
chọn, xây dựng nội dung chuyên môn tại các 
trường Cảnh sát nhân dân nói chung và Trường 
Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II nói riêng nhìn 
chung đã đáp ứng khá đầy đủ những mục tiêu 
của môn học tuy nhiên vẫn không tránh khỏi 
còn một số hạn chế nhất định. Đến nay, một 
số nội dung chuyên môn còn mang đặc điểm 
về bề rộng lấn át chiều sâu, dung lượng lấn át 
quá trình, thiếu tính cập nhật, tính cơ bản cũng 
như tinh thần và phương pháp tìm hiểu, đã trở 
thành những nội dung có tính chất áp đặt với 
hiệu lực khá thấp. Đặc biệt, trong tình hình hiện 
nay, hoạt động tội phạm ngày càng trở nên tinh 
vi, phức tạp khiến cho cuộc đấu tranh phòng, 
chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân 
dân càng gặp nhiều khó khăn. Nếu những nội 
dung mới về thực tiễn đấu tranh phòng, chống 
tội phạm không được cập nhật thường xuyên, 
chuyên sâu thì sẽ không thể trang bị cho học 
viên các trường Cảnh sát nhân dân những kiến 
thức và kỹ năng phù hợp để có thể sử dụng 
ngay khi bước vào công tác thực tế sau khi ra 
trường. Hơn nữa nội dung còn nặng về lý thuyết, 
có phần quá tải sẽ có tác động xấu làm biến 
dạng phương pháp dạy học tích cực đang được 
áp dụng tại các trường Cảnh sát nhân dân trở 
thành “đọc – chép”, giới hạn việc phát vấn hoặc 
thực hành các kỹ năng học tập theo hướng lấy 
người học làm trung tâm. 
Như vậy có thể thấy nếu quá trình đổi mới 
giảng dạy tại các trường Cảnh sát nhân dân nói 
chung và tại Trường Cao đẳng CSND II nói riêng 
chỉ chú trọng đến đổi mới phương pháp và tổ 
chức hay kiểm tra đánh giá mà xem nhẹ việc 
cập nhật và đổi mới nội dung giảng dạy thì sẽ 
không thể đạt được hiệu quả cao vì hiệu lực thấp 
của từng yếu tố sẽ dẫn đến hiệu lực của các yếu 
tố khác và của các mối liên kết trong quan hệ 
tương tác giữa chúng với nhau bị sụt giảm, làm 
cho hiệu quả của cả hệ thống mục tiêu – nội 
dung – phương pháp – đánh giá sụt giảm theo. 
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động 
giảng dạy, không thể chỉ chú trọng đổi mới 
phương pháp giảng dạy mà còn phải chú ý đến 
các thành tố khác của quá trình giáo dục trong 
đó có yếu tố nội dung chuyên môn. Điều này 
cần phải có sự chung tay của rất nhiều cấp từ 
cơ sở đến trung ương. Với mục đích xây dựng 
môi trường học tập lấy người học làm trung tâm, 
chương trình học cần được xây dựng lại theo 
cách tiếp cận mục tiêu hoặc tiếp cận phát triển, 
xác định đúng vị trí – vai trò của từng môn học 
theo mục tiêu đào tạo cấp học. Từ đó lựa chọn 
nội dung kiến thức đảm bảo cân đối các mặt 
dung lượng và quá trình, bề rộng và chiều sâu, 
chú trọng đều các trình độ từ các sự kiện và quá 
trình riêng biệt, các ý tưởng và nguyên lý cơ bản, 
các khái niệm, đến các hệ thống tư tưởng và 
phải đáp ứng được các yêu cầu về tính cập nhật, 
tính cơ bản, tinh thần và phương pháp tìm hiểu. 
Có như vậy nội dung chuyên môn mới có thể 
phát huy hết hiệu lực của nó vào đóng vai trò 
tích cực vào hoạt động giáo dục./.

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_noi_dung_chuyen_mon_trong_qua_trinh_giao_duc_van_de.pdf