Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ

Tóm tắt: Chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, không ít các các cơ sở giáo

dục đại học, các khoa chuyên ngành, trong đó có giáo dục thể chất, ở nước ta còn gặp

nhiều lúng túng, đặc biệt đối với xây dựng chương trình môn học. Bài viết đề cập đến

những nét cơ bản, đặc trưng của hệ thống tín chỉ, so sánh sự khác biệt của nó với hệ

thống niên chế; giới thiệu về việc thiết kế, xây dựng chương trình môn học giáo dục

thể chất theo hệ thống tín chỉ ở HUBT.

Từ khóa: Tín chỉ, hệ thống tín chỉ, chương trình đào tạo, giáo dục thể chất.

Abstract: Witching to training under the credit system, many institutions of higher

education, specialized faculties, including Physical Education, in our country still

face a lot of confusion, especially for designing training course program.

The paper addresses the basic features of the credit system, comparing its

differences with the annual training system; introducing about designing and

developing Curriculum of Physical Education under credit system at HUBT.

Keywords: Credit, credit system, training program, physical education.

Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ trang 1

Trang 1

Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ trang 2

Trang 2

Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ trang 3

Trang 3

Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ trang 4

Trang 4

Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 9320
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ

Xây dựng chương trình môn Giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
72Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
* Phó Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Thể chất, 
 Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết của Chính phủ về đổi mới 
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt 
Nam giai đoạn 2006-2020 ghi rõ: “Xây 
dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang 
phương thức đào tạo theo hệ thống tín 
chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học 
tích lũy kiến thức chuyển đổi ngành nghề, 
liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học 
tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài”.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Nguồn gốc của học chế tín chỉ 
Nguồn gốc của học chế tín chỉ (credit) 
được khởi xướng ở Hoa Kỳ, đầu tiên là ở 
hệ thống các trường trung học phổ thông, 
sau đó triển khai ở Viện Đại học Harvard 
vào năm 1872. Ở nước ta ngay từ những 
năm đầu thập kỷ 90, Trường Đại học Bách 
khoa TP Hồ Chí Minh đã tổ chức đào tạo 
thí điểm theo hệ thống tín chỉ và có thể xem 
đây là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở Việt 
Nam tổ chức đào tạo theo hệ thống này. 
2.2. Bản chất của học chế tín chỉ
Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo 
theo triết lý “Giáo dục hướng về người học, 
xem người học là trung tâm của quá trình 
đào tạo” và “Giáo dục đại học đại chúng”. 
2.3. Khái niệm về tín chỉ
Tín chỉ là một đơn vị đo lường toàn 
bộ khối lượng học tập của người học, bao 
gồm: thời gian lên lớp, thời gian tự học 
(trong phòng thí nghiệm, thực tập, đọc 
sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết 
hoặc chuẩn bị bài.); giá trị của nó còn 
tùy thuộc vào quan niệm của những người 
tổ chức xây dựng chương trình. 
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT 
THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
TS. Nguyễn Trọng Hải *
Tóm tắt: Chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, không ít các các cơ sở giáo 
dục đại học, các khoa chuyên ngành, trong đó có giáo dục thể chất, ở nước ta còn gặp 
nhiều lúng túng, đặc biệt đối với xây dựng chương trình môn học. Bài viết đề cập đến 
những nét cơ bản, đặc trưng của hệ thống tín chỉ, so sánh sự khác biệt của nó với hệ 
thống niên chế; giới thiệu về việc thiết kế, xây dựng chương trình môn học giáo dục 
thể chất theo hệ thống tín chỉ ở HUBT.
Từ khóa: Tín chỉ, hệ thống tín chỉ, chương trình đào tạo, giáo dục thể chất. 
Abstract: Witching to training under the credit system, many institutions of higher 
education, specialized faculties, including Physical Education, in our country still 
face a lot of confusion, especially for designing training course program.
The paper addresses the basic features of the credit system, comparing its 
differences with the annual training system; introducing about designing and 
developing Curriculum of Physical Education under credit system at HUBT. 
Keywords: Credit, credit system, training program, physical education.
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
73Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
2.4. Học phần, chương trình đào tạo 
và hệ thống tín chỉ
a) Học phần
Học phần được cấu trúc từ một đến 
vài tín chỉ. Phần lớn học phần có khối 
lượng từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được 
bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân phối đều 
trong một học kỳ. 
Có hai loại học phần:
- Học phần bắt buộc: chứa đựng nội 
dung kiến thức bắt buộc sinh viên phải 
tích lũy;
- Học phần tự chọn: theo hướng 
dẫn của cơ sở giáo dục đại học theo một 
hướng chuyên môn xác định; hoặc được 
chọn tùy ý để tích lũy đủ khối lượng quy 
định cho mỗi chương trình.
b) Chương trình đào tạo và theo hệ 
thống tín chỉ 
Chương trình đào tạo là hệ thống gồm 
nhiều học phần. Mỗi học phần lại được cấu 
trúc từ một số các tín chỉ. Chính vì vậy, 
chương trình đào tạo thực chất là một hệ 
thống tín chỉ. Do vậy, để chỉ việc đào tạo 
theo học chế tín chỉ, người ta thường nói là 
tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Hệ thống tín chỉ là đặc trưng cơ bản 
của chương trình đào tạo theo học chế tín 
chỉ. Chương trình đào tạo theo học chế tín 
chỉ là một hệ thống các học phần, các tín 
chỉ. Chương trình đào tạo theo hệ thống 
tín chỉ khác với chương trình đào tạo theo 
niên chế ở ba đặc điểm sau:
2.5. So sánh hệ thống tín chỉ với học 
chế niên chế và học phần
Trước năm 1991, giáo dục đại học ở 
nước ta tổ chức thực hiện theo học chế 
niên chế. Từ năm 1991, chúng ta chuyển 
sang học chế học phần (học chế niên chế 
mềm dẻo). Để hiểu rõ hơn học chế tín chỉ 
cũng như nhận thức rõ hơn sự vận động 
và phát triển của giáo dục đại học Việt 
Nam trong việc chuyển đổi phương thức 
đào tạo, chúng ta sẽ có một số so sánh về 
học chế tín chỉ với học chế niên chế và 
học chế học phần.
a) Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo theo niên chế 
được cấu tạo từ các môn học, với đơn vị đo 
là “tiết”; chương trình là một hệ thống nhiều 
môn, mỗi môn có một số tiết xác định. 
Chương trình theo học chế học phần 
và theo học chế tín chỉ: được cấu tạo từ 
các học phần/môn học (là các mô đun kiến 
thức); ở học chế học phần đơn vị đo là đơn 
vị học trình, học chế tín chỉ đơn vị đo là tín 
chỉ, đào tạo cử nhân trình độ đại học 4 năm 
cần tối thiểu 210 đvht hoặc 120 tc. Tín chỉ 
cũng tương tự như đơn vị học trình, đều 
là đơn vị đo khối lượng học tập của người 
học, nhưng khác ở chỗ người học phải mất 
15 giờ chuẩn bị cá nhân để tiếp thu 1 đvht, 
trong khi phải mất 30 giờ mới tiếp thu 
được 1 tc. Nghĩa là học chế tín chỉ đòi hỏi 
thời gian tự học nhiều hơn.
b) Về quy trình đào tạo
Học chế niên chế và học phần: đơn vị 
học vụ là năm học, một năm học có hai kỳ, 
có các đại lượng đo năm học, xét ngừng 
học, theo học theo năm học, việc quản lý 
đào tạo theo mô hình “lớp”, vai trò giáo viên 
chủ nhiệm là quan trọng. Sinh viên không 
phải đăng ký khối lượng học tập, thụ động 
đối với tiến trình học tập của mình, không 
khuyến khích học vượt, không khuyến 
khích học văn bằng 2. Việc đánh giá kết 
quả học tập các môn học chỉ dựa vào kết 
quả thi hết môn; đánh giá kết quả toàn khóa 
dựa vào điểm thi tốt nghiệp; không quan 
tâm đến quá trình học tập của người học và 
thường tổ chức thi tốt nghiệp.
Học chế tín chỉ: đơn vị học vụ là 
học kỳ, mỗi chu kỳ 12 tháng thường tổ 
chức thành 3 học kỳ (trong đó học kỳ phụ 
thường dùng cho việc trả nợ các môn học 
chưa đạt hoặc học vượt), các đại lượng 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
74Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
đo theo học kỳ. Việc quản lý đào tạo theo 
mô hình “sinh viên”, vai trò cố vấn học 
tập là quan trọng. Sinh viên phải đăng 
ký khối lượng học tập vào đầu mỗi học 
kỳ, khuyến khích học vượt, rút ngắn thời 
gian đào tạo, khuyến khích học văn bằng 
2; không tổ chức thi tốt nghiệp.
Học chế học phần và học chế tín chỉ: 
việc đánh giá kết quả các học phần/môn 
học dựa vào điểm quá trình và điểm thi 
hết học phần/môn học; đánh giá một giai 
đoạn học tập dựa vào điểm trung bình 
chung tích lũy với trọng số là số tín chỉ 
của các học phần/môn học.
Như đã so sánh và phân tích trên đây, 
học chế học phần thực chất là học chế 
trung gian giữa học chế niên chế và học 
chế tín chỉ. Trong học chế học phần đã có 
một số yếu tố của học chế tín chỉ, nhưng 
chưa đủ để tạo nên một quy trình đào tạo 
linh hoạt, cơ động, mềm dẻo. Vì vậy, việc 
chuyển đổi từ học chế học phần sang học 
chế tín chỉ là sự cải tiến học chế học phần, 
tăng tính linh hoạt, mềm dẻo cho quy trình 
đào tạo, đồng thời với việc cải tiến mục 
tiêu, chương trình đào tạo, đổi mới phương 
pháp dạy, học, phương pháp đánh giá kết 
quả học tập của người học để chuyển sang 
học chế tín chỉ. Quả trình chuyển đổi không 
phải là xóa bỏ học chế học phần mà là sự 
kế thừa, cải tiến thêm các biện pháp, yếu 
tố, là sự vận động và phát triển của học chế 
học phần thành học chế tín chỉ.
3. Chương trình Giáo dục thể chất 
HUBT theo hệ thống tín chỉ 
3.1. Cơ sở khoa học xây dựng 
Chương trình 
a) Cơ sở pháp lý 
Chương trình Giáo dục thể chất 
(GDTC) của HUBT thuộc chương trình 
đào tạo trình độ đại học (phần kiến thức 
giáo dục đại cương), được thiết kế và 
xây dựng theo Quy định về Chương trình 
GDTC trình độ đại học của Bộ Giáo dục và 
Đào tạo, ban hành kèm theo Thông tư số 
25/2015/TT- BGDĐT ngày 14/10/2015, 
cũng như căn cứ vào Thông tư số 07/2015/
TT-BGDĐT ngày 16/4/2015, ban hành 
quy định về khối lượng kiến thức tối 
thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học 
đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi 
trình độ đào tạo của giáo dục đại học; 
Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 
15/8/2007 về việc ban hành Quy chế đào 
tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo 
hệ thống tín chỉ của Bộ Giáo dục và Đào 
tạo; Quyết định số 1055/QĐ-BGH ngày 
25/01/2019 của Hiệu trưởng Trường Đại 
học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội về 
việc ban hành Quy chế đào tạo theo hệ 
thống tín chỉ đối với hệ đại học, cao đẳng 
chính quy và các văn bản hướng dẫn xây 
dựng chương trình đào tạo của trường.
b) Đặc thù của giáo dục thể chất
Mỗi chương trình đào tạo của ngành, 
chuyên ngành hoặc môn học thuộc 
chương trình đào tạo trình độ đại học đều 
có sự khác biệt, không chỉ về mục tiêu 
đào tạo mà còn khác biệt cả về đặc thù 
ngành, chuyên ngành, môn học và những 
điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện 
chương trình đào tạo, vì thế, dẫn đến sự 
khác biệt về tổ chức đào tạo. Đối với môn 
học GDTC thuộc các chương trình đào 
tạo trình độ đại học, có những đặc thù:
Một là, ngoài các môn lý luận chung 
về giáo dục thể chất, việc tổ chức giảng 
dạy giờ học giáo dục thể chất nội khóa 
cho sinh viên được kết hợp hài hòa giữa 
hai yếu tố: phân tích nguyên lý kỹ thuật, 
các giai đoạn kỹ thuật, chiến thuật, luật,... 
(gọi chung là lý thuyết chuyên môn) và 
làm mẫu, tổ chức tập luyện trang bị kỹ 
năng chuyên môn (gọi chung là thực hành 
kỹ thuật). Đặc thù này cũng khác với thí 
nghiệm, thực hành của các ngành, chuyên 
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
75Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
ngành thuộc khối ngành sức khỏe, hoặc 
các khối ngành kỹ thuật, đào tạo nghề,... 
Do tính chất đặc thù của môn học, giờ học 
giáo dục thể chất bắt buộc thực hiện toàn 
phần trên lớp, không có quy định thời gian 
tự học như các ngành, chuyên ngành khác. 
Các hoạt động thể dục - thể thao ngoại khóa 
không được quy định trong thời lượng của 
chương trình môn học GDTC. Đặc thù 
này có liên qua đến việc thiết kế, xây dựng 
chương trình môn học GDTC theo tín chỉ 
và có ý nghĩa trong việc quy đổi tiết học 
trên lớp ra giờ chuẩn cho giảng viên.
Hai là, môn học GDTC có những yêu 
cầu về điều kiện đảm bảo cũng mang tính 
đặc thù: giờ học nội khóa được thực hiện 
trên sân bãi (ngoài trời) hoặc trong phòng; 
dụng cụ thiết bị rất đa dạng và phong phú, 
đặc thù với từng chuyên ngành, môn học, 
như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, điền 
kinh, thể dục, bơi lội, v.v. Hơn nữa, không 
chỉ kinh phí đầu tư cho sân bãi, dụng cụ 
rất lớn, mà quỹ đất cho quy hoạch sân bãi, 
nhà tập, bể bơi,..., cũng không nhỏ. Đây 
là bài toán khó cho các cơ sở giáo dục đại 
học khi đầu tư cho đào tạo giáo dục thể 
chất theo hệ thống tín chỉ, vì điều kiện 
thực tế không cho phép giảng dạy được 
nhiều môn chuyên ngành. 
Ba là, giờ học GDTC nội khóa được 
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định một lớp 
không quá 40 sinh viên/giảng viên đối với 
các cơ sở giáo dục đại học không chuyên 
thể dục - thể thao. Thực tế, quy định trên 
đây không tồn tại nhiều năm: tỷ lệ này ở 
nhiều cơ sở giáo dục đại học còn cao hơn, 
thậm chí có khi tới 80-120 sinh viên. Có 
nhiều nguyên nhân: không có đủ sân bãi, 
nhà tập, thiếu giảng viên chuyên môn, tiền 
chi trả thù lao cho giảng viên, v.v. Đây 
cũng là một hạn chế khi chuyển đổi môn 
học GDTC sang tổ chức đào tạo theo hệ 
thống tín chỉ. Nên chăng, môn học GDTC 
chỉ có thể đào tạo theo hệ thống tín chỉ 
kết hợp với niên chế học phần, như quy 
định tại Khoản 1, Điều 37 của Luật số 
34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 và Luật 
Giáo dục đại học 2018. 
c) Thực trạng những điều kiện đảm 
bảo thực hiện Chương trình
Điều kiện đảm bảo thực hiện chương 
trình là cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng 
chương trình ngành, môn học. Có hai yếu 
tố cơ bản: 
Thứ nhất, đội ngũ giảng viên. Hiện 
nay số lượng giảng viên của Khoa GDTC 
ở HUBT gồm 16 người: 12 nam, 4 nữ. 
100% giảng viên là cử nhân thể dục, thể 
thao được đào tạo tại các trường đại học 
chuyên thể dục - thể thao trong và ngoài 
nước, trong đó trình độ sau đại học chiếm 
93,75% (1 tiến sỹ, 14 thạc sỹ). Lực lượng 
trẻ chiếm tỷ lệ cao: trên 80% từ 27 đến 40 
tuổi. Đa số giảng viên có thâm niên giảng 
dạy từ 10 đến hơn 20 năm. Đối chiếu với 
các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo 
về tiêu chuẩn, tiêu chí, trình độ, năng lực, 
phẩm chất,..., giảng viên Khoa GDTC của 
HUBT hoàn toàn đảm nhận được nhiệm 
vụ giảng dạy theo phương thức đào tạo 
mới: hệ thống tín chỉ.
Thứ hai, cơ sở vật chất, trang thiết 
bị tập luyện. Như đã đề cập ở trên, điều 
kiện đảm bảo về sân bãi, nhà tập, dụng 
cụ tập luyện,..., có tầm quan trọng đặc 
biệt đối với việc xây dựng Chương trình 
GDTC theo hệ thống tín chỉ. HUBT hiện 
có một Nhà tập đa năng (dạy được 2-3 
môn học) với sức chứa trên 120 sinh viên 
học song song hai môn; một sân tập bóng 
đá tiêu chuẩn, có đường chạy bao quanh 
để dạy môn điền kinh; một sân bóng rổ và 
2 sân bóng chuyền ngoài trời. Hiện nay, 
tuy chưa đầu tư mở rộng thêm cơ sở vật 
chất sân bãi, nhưng trường có chủ trương 
đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị, dụng 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
76Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
cụ tập luyện phục vụ dạy và học GDTC. 
Với thực trạng này, ngoài giảng dạy lý 
luận chung, Khoa GDTC chỉ đưa vào 
chương trình đào tạo 2 môn thể thao bắt 
buộc (điền kinh, khiêu vũ thể thao) và 5 
môn thể thao tự chọn (bóng chuyền, bóng 
đá, bóng rổ, bóng bàn và cầu lông). 
3.2. Thiết kế, xây dựng chương trình 
môn học giáo dục thể chất
Chương trình môn học GDTC của 
HUBT được thiết kế, xây dựng trên cở 
sở hướng dẫn tại Thông tư số 25/2015/
TT-BGDĐT ngày 14/1/2015, Thông tư 
số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hướng 
dẫn của Phòng Quản lý đào tạo của 
HUBT theo hướng tiên tiến, chuyển đổi 
từ phương thức đào tạo theo niên chế học 
phần sang đào tạo tín chỉ; thuận lợi cho 
việc dạy và học, phù hợp với đối tượng 
đào tạo, nguyện vọng của người học và 
điều kiện thực tiễn của trường.
Cấu trúc của Chương trình gồm có 
các phần: Mục tiêu chung; Mục tiêu cụ 
thể; Khối lượng kiến thức tối thiểu và thời 
gian đào tạo theo thiết kế; Cấu trúc kiến 
thức của Chương trình, kiến thức giáo dục 
chuyên ngành (bắt buộc và tự chọn); Mô 
tả các học phần; Nội dung chương trình 
chi tiết của các học phần. 
Thời lượng được Hiệu trưởng trường 
HUBT cho phép đào tạo là 4 tín chỉ (90 
tiết), chia thành hai phần; kiến thức giáo 
dục chuyên ngành bắt buộc: 2 tín chỉ (45 
tiết) và kiến thức giáo dục chuyên ngành 
tự chọn: 2 tín chỉ (45 tiết). Theo Quy chế 
43 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quy 
chế 1055 của HUBT, thì khối lượng thời 
gian hoàn thành thực hiện Chương trình 
GDTC tương đương 120 tiết./.
Tài liệu tham khảo 
1. BCH TƯ Đảng CSVN (2013). Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào 
tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010). Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ 
cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính 
quy theo hệ thống tín chỉ (ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT 
ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012). Sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế đào 
tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Thông tư số 57/2012/TT-
BGDĐT ngày 27/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Lâm Quang Thiệp (2010). Về phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học 
tập trong hệ thống tín chỉ. Hội thảo khoa học toàn quốc về đổi mới phương pháp giảng 
dạy đại học theo hệ thống tín chỉ. Đại học Sài Gòn. 
6. Luật Giáo dục đại học 2012.
7. Luật Giáo dục đại học 2018 (sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 
đại học 2012/2013/2014/2015).
8. Trường Đại học Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh (2010). Chương trình đào 
tạo ngành giáo dục thể chất; ngành huấn luyện thể thao theo hệ thống tín chỉ. 
Ngày nhận bài: 08/04/2019

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_chuong_trinh_mon_giao_duc_the_chat_theo_he_thong_ti.pdf