Về tính đa chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký
Trên cơ sở giới thiệu kiến giải của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam về chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký, bài viết định hướng nhận thức, lý giải chủ đề của tác phẩm với hai luận điểm chính: 1. Đa chủ đề là một đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Tây du ký. 2. Cần phải từ lý luận chỉnh thể mà xem xét hệ thống chủ đề của tác phẩm. Ở cấp độ chỉnh thể, có thể xác định chủ đề chính của Tây du ký là cuộc đấu tranh ngoan cường chống lại các thế lực đen tối, chiến thắng thiên tai, nhân họa vì tự do, tự tại, vì cuộc sống hạnh phúc, vì chân lý, chính nghĩa của nhân dân; đồng thời, có thể coi chinh phục cái chết, và giới hạn tính chính đáng của việc truy cầu hạnh phúc là những chủ đề phụ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về tính đa chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 34 VỀ TÍNH ĐA CHỦ ĐỀ CỦA TIỂU THUYẾT Trịnh Đình Hà1 TÓM TẮT Trên cơ sở giới thiệu kiến giải của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam về chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký, bài viết định hướng nhận thức, lý giải chủ đề của tác phẩm với hai luận điểm chính: 1. Đa chủ đề là một đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Tây du ký. 2. Cần phải từ lý luận chỉnh thể mà xem xét hệ thống chủ đề của tác phẩm. Ở cấp độ chỉnh thể, có thể xác định chủ đề chính của Tây du ký là cuộc đấu tranh ngoan cường chống lại các thế lực đen tối, chiến thắng thiên tai, nhân họa vì tự do, tự tại, vì cuộc sống hạnh phúc, vì chân lý, chính nghĩa của nhân dân; đồng thời, có thể coi chinh phục cái chết, và giới hạn tính chính đáng của việc truy cầu hạnh phúc là những chủ đề phụ. Từ khóa: Cấu trúc, đa chủ đề, tiểu thuyết, Tây du ký. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiểu thuyết Tây du ký không chỉ đƣợc coi là một trong “tứ đại kỳ thƣ” đời Minh mà còn đƣợc liệt vào hàng “tứ đại danh tác” của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhiều thế hệ độc giả, trở thành nguyên tác của nhiều tác phẩm phái sinh thuộc nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Sở dĩ tác phẩm có đƣợc sức sống mãnh liệt nhƣ vậy, là do giá trị văn hóa, thẩm mỹ phong phú, đích thực của nó, mà một trong những biểu hiện quan trọng là tính đa chủ đề. Nghiên cứu hiện tƣợng đa chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký là việc làm bổ ích và thú vị, có thể giúp đánh giá đầy đủ, chính xác hơn ý nghĩa và giá trị tƣ tƣởng, nghệ thuật của tác phẩm. 2. NỘI DUNG 2.1. Tính đa chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký qua kiến giải của các nhà nghiên cứu 2.1.1. Ở Trung Quốc Lý Hối Ngô, trong Trung Quốc tiểu thuyết sử mạn cảo (1997), nêu lên tình trạng giải thích sai lầm hoặc giải thích quanh co kéo dài đến mấy trăm năm. Từ thời Khang Hy, đến Càn Long, Gia Khánh, những bình điểm trong các sách Tây du nguyên chỉ, Thông dị Tây du chính chỉ. chỉ là qua tình tiết và nhân vật tiểu thuyết, tìm kiếm “vi ngôn đại nghĩa” để đạt đến mục đích “chính đạo”. Thời kỳ những năm 50 đến nửa đầu những năm 60, nảy sinh khuynh hƣớng phân chia giai cấp thần Phật trên trời và yêu ma dƣới đất, theo mô hình khởi nghĩa nông dân và đấu tranh giai cấp... Thời kỳ Cách mạng văn hóa, dƣới ảnh hƣởng của việc “bình Thủy hử”, Tây du ký bị quy thành một bộ “tiểu 1 Giảng viên khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 35 thuyết thần ma phản động”, với tội danh là “tuyên dƣơng chủ nghĩa đầu hàng và triết học nô tài”... [13; tr.279]. Cũng theo Lý Hối Ngô, từ năm 1984, Lƣu Khôi Đại đã giới thiệu bảy cách giải thích khác nhau về chủ đề của Tây du ký trong bài “Tổng thuật nghiên cứu Tây du ký mấy năm gần đây” (Tây du ký nghiên cứu, Giang Tô cổ tịch xuất bản xã). Đó là: (1) Thuyết “Yên trời giúp nƣớc”, “Trách gian thƣợng hiền”, lấy hai bài “Nhận thức và bàn luận khuynh hƣớng chính trị tƣ tƣởng Tây du ký” của Chu Thức Bình và “Thử bàn về khuynh hƣớng tƣ tƣởng Tây du ký” của La Đông Thăng làm đại biểu. (2) Thuyết “Phản ánh nhân dân đấu tranh”, lấy bài “Cũng bàn về khuynh hƣớng tƣ tƣởng Tây du ký” của Chu Tục Trác làm đại biểu. (3) Thuyết “Chủ thể lấy kinh Tây Thiên”, lấy bài “Từ Tôn Ngộ Không xem xét khuynh hƣớng tƣ tƣởng Tây du ký” của Miêu Tráng làm đại biểu. (4) Thuyết “Ca tụng phản kháng, quang minh và chính nghĩa”, lấy bài “Nhận thức lại đối với tƣ tƣởng chủ đề Tây du ký” của Hồ Quang Chu làm đại biểu. (5) Thuyết “Ca tụng thị dân mới nổi lên”, lấy bài “Bàn về Tôn Ngộ Không” của Chu Đồng làm đại biểu. (6) Thuyết “Tuyên dƣơng tâm học”, “Cổ xuý đầu hàng”, lấy bài “Thử bàn về khuynh hƣớng tƣ tƣởng Tây du ký” của Lƣu Viễn Đạt làm đại biểu. (7) Thuyết kiên trì và phát huy “Chủ đề mâu thuẫn”, lấy bài “Vấn đề thần ma trong Tây du ký” của Cao Minh Các làm đại biểu. [13; tr.280] Trong sách Tây du ký chi mê (1998), Thái Thiết Ƣng cũng thống kê tám cách lý giải chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký [15; tr.273-278]. Tám chủ đề đó là: (1) Sổ tay tôn giáo (2) Tiểu thuyết ngụ ngôn (3) Lời lẽ du hí cợt đời (“ngoạn thế”) (4) Thuyết cầu “phóng tâm” (5) Thuyết chủ đề chuyển hóa hoặc chủ đề mâu thuẫn (6) Thuyết “yên trời cứu nƣớc”, “trách gian thƣợng hiền” (7) Thuyết ca tụng quang minh và chính nghĩa (8) Thuyết phê Phật nhạo Phật và chê Phật sùng Đạo Chỉ có ba cách lý giải chủ đề (5-6-7) đƣợc nêu trong sách này trùng với sách Trung Quốc tiểu thuyết sử mạn cảo. Nhƣ vậy, tổng hợp kết quả thống kê của cả hai sách, có đến mƣời hai cách lý giải khác nhau về chủ đề của Tây du ký. Cùng trong năm đó (1998), sách Tây du ký văn hóa học san chọn in 9 bài xếp chung vào mục “Nghiên cứu chủ đề” [14; tr.168-263]. Những bài này có thể coi là những dẫn chứng cụ thể về nhiều loại quan điểm khác nhau xung quanh chủ đề Tây du ký đã nói trên. Cụ thể là: (1) “Bàn về chủ ý kim đan học của thi từ vận văn Tây du ký” (Lý An Cƣơng). (2) “Bàn về tâm học Dƣơng Minh với lịch trình c ... Thừa Ân là ngƣời có hứng thú với truyền thuyết, dã sử, truyện dân gian, truyện thần tiên, có tâm tình bất mãn với hiện thực đen tối của xã hội đƣơng thời. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 38 Hứng thú thẩm mỹ, tài năng sáng tạo cùng tâm tình ấy tất yếu đƣợc kết tinh trong nội dung phong phú và ý vị văn chƣơng độc đáo của tác phẩm. Từ ngƣời đọc, nhu cầu tiếp nhận và thị hiếu thẩm mỹ của ngƣời đọc các thời đại hết sức đa dạng, phức tạp: có thể vừa nhằm thỏa mãn hứng thú văn chƣơng, vừa nhằm nhận thức và bày tỏ thái độ xã hội, quan điểm chính trị, đạo đức, tôn giáo..., nhƣng cũng có thể đơn giản chỉ là để giải trí. Bên cạnh cảm thụ cá nhân có tính sáng tạo độc đáo, ngƣời đọc còn chịu ảnh hƣởng bởi trào lƣu, khuynh hƣớng tiếp nhận chung của xã hội đƣơng thời. 2.2.2. Cần phải từ lý luận chỉnh thể mà xem xét hệ thống chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký Chủ đề là “vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm đƣợc tác giả nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm” [8; tr.61]. Việc nhận thức, lý giải chủ đề của một bộ tiểu thuyết thần ma đồ sộ có nội dung phong phú, phức tạp nhƣ Tây du ký cần phải trên cơ sở đặt chúng trong toàn bộ cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm. “Xét từ lý luận chỉnh thể, cấu trúc của tác phẩm bao gồm các yếu tố đƣợc đặt trong trật tự (cấp độ) phụ thuộc vào nhau sau đây: tƣ tƣởng - chủ đề (gồm cả đề tài), hệ thống hình tƣợng (có thể bao gồm cả cốt truyện), kết cấu, ngôn từ” [8; tr.43]. Nhƣ vậy, chủ đề (cùng với tƣ tƣởng) của tiểu thuyết Tây du ký, cũng cần phải đƣợc xác định trên cơ sở xem xét, đánh giá trong mối tƣơng quan với hệ thống hình tƣợng, kết cấu, ngôn từ của nó. Về cốt truyện, Tây du ký rõ ràng có điểm tựa từ sự thực lịch sử là vào năm Trinh Quán thứ ba (629), “Đƣờng Tăng” - pháp danh Huyền Trang tự ý sang Thiên Trúc cầu pháp, mất 17 năm, qua hơn trăm “nƣớc”, nếm đủ mùi gian hiểm, đến năm Trinh Quán thứ mƣời chín (645) trở về Tràng An, mang về 657 bộ kinh Luật Luận Đại Tiểu thừa Phật giáo Thiên Trúc, đƣợc Đƣờng Thái tông đối đãi tử tế Cốt truyện Tây Thiên thủ kinh cơ bản, qua quá trình diễn hóa lâu dài, đã đƣợc các tác giả chen vào nhiều nội dung mang màu sắc thần tiên Đạo giáo. Đến Ngô Thừa Ân là ngƣời sáng tạo tiểu thuyết, trƣớc khi trình bày cốt truyện gần nhƣ bị đóng khung không thể vứt bỏ này, tác giả đã sáng tạo thêm nhiều tình tiết quan trọng: “Thạch Hầu xuất thế”, “Đại náo thiên cung”, “Đƣờng Tăng xuất thế” và “Thủ kinh duyên khởi”. Qua đó, ngƣời đọc thấy ngay rằng vai trò của nhân vật Đƣờng Tăng, ngƣời giữ cƣơng vị lãnh đạo đoàn thỉnh kinh đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu; và nhân vật Tôn Ngộ Không lại trở thành nhân vật trung tâm, quy định chiều hƣớng diễn biến, phát triển của toàn bộ hệ thống sự kiện, quyết định thành bại của sự nghiệp thỉnh kinh. Ngô Thừa Ân viết Tây du ký, một mặt đã vận dụng rất nhiều tƣ tƣởng, lý luận của Đạo giáo để sáng tạo hình tƣợng; mặt khác lại tỏ thái độ châm biếm, đả kích mạnh mẽ qua hệ thống nhân vật đạo sĩ yêu quái làm việc tà ác, hại dân hại nƣớc ở xã hội nhân gian. Tuy nhiên, dù có dành không ít thiện cảm cho Phật giáo, nhƣng đúng nhƣ nhận xét của Lý Hối Ngô, “Ngô Thừa Ân hoàn toàn không tin Phật, cũng không tuyên dƣơng Phật pháp” [13; tr.282], “Đến nỗi Tôn Ngộ Không, vẫn nhƣ trƣớc đây, ta làm theo ý ta, trƣớc sau đều không làm theo giáo nghĩa Phật giáo” [13; tr.284]. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 39 Về hệ thống nhân vật, Tây du ký có hàng trăm nhân vật, phần nhiều là thần (thần thánh) và ma (yêu quái), và số ít là con ngƣời trong xã hội nhân gian. Các nhân vật chính (Đƣờng Tăng, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng) tổ chức thành nhóm “Tứ chúng” có dự ứng lực mạnh mẽ, với hình tƣợng trung tâm là Tôn Ngộ Không. Ngộ Không xuất hiện từ hồi đầu đến hồi kết thúc, trừ tình tiết “Thủ kinh duyên khởi” (hồi 8 đến hồi 12) bị Phật tổ giam dƣới núi Ngũ Hành, Tôn can dự vào tất cả các sự kiện quan trọng, trở thành nhân vật chủ chốt bộc lộ tƣ tƣởng - chủ đề của tác phẩm. Ở nhân vật này, từ suy nghĩ đến hành động, đều thể hiện hết sức tập trung tính cách một anh hùng hảo hán, có mục tiêu hành động nhất quán: truy cầu tự do, truy cầu hạnh phúc, truy cầu chân lý, chính nghĩa. Trƣớc khi gia nhập đoàn thỉnh kinh, Tôn tu dƣỡng, đấu tranh cho bản thân và “đám con cháu” khỉ ở động Thủy Liêm; khi trở thành đại đồ đệ của Đƣờng Tăng, Tôn thi thố tài năng, xông pha vƣợt trở ngại, phát hiện và diệt trừ yêu quái, không chỉ vì thắng lợi của đoàn thỉnh kinh, mà còn để cứu nhân độ thế, đem lại hạnh phúc cho chúng sinh bị khổ nạn. Hạnh phúc là trạng thái sung sƣớng vì cảm thấy hoàn toàn đạt đƣợc ý nguyện. Ngƣời Trung Quốc (và Việt Nam) xƣa cụ thể hóa 5 điều sung sƣớng lớn ở đời thành “ngũ phúc”: phú (giàu), quý (sang), thọ (sống lâu), khang (mạnh khỏe), ninh (bình yên). Trong đó, “thọ” là cái khó đạt đƣợc nhất, từ cổ chí kim khiến ngƣời ta theo đuổi quyết liệt nhất, đến nỗi đã trở thành một trong hai yếu chỉ của Đạo giáo thần tiên là trƣờng sinh bất tử. Trong Tây du ký, tác giả không chỉ nói đến những cung điện nguy nga, những báu vật thần kỳ của Thƣợng đế, Long vƣơng, của Tiên Phật, thần thánh và các vua chúa ở trần gian, mà còn say sƣa thể hiện cảnh giàu sang của gia đình Khấu viên ngoại ở huyện Địa Linh, phủ Đồng Đài (hồi 96), chỉ còn mong đƣợc đãi đủ vạn nhà sƣ; thể hiện niềm sung sƣớng đƣợc Đại Thánh chữa khỏi bệnh tật lâu ngày của vua nƣớc Chu Tử (hồi 68-69); nói lên nỗi đau khổ của dân chúng vì tính mạng con cái bị đe dọa cũng nhƣ niềm sung sƣớng đƣợc giải cứu của họ (anh em Ngộ Không cứu mạng đồng nam đồng nữ con cháu cụ Trần Trừng, Trần Thanh ở Trần gia trang - hồi 48-49, cứu 1111 đồng nam ở nƣớc Tỳ Kheo - hồi 78-79); ca ngợi tinh thần cầu thị, ham học hỏi, rèn luyện võ nghệ để bảo vệ đất nƣớc của các vƣơng tử thành Ngọc Hoa (hồi 89-90); thể hiện niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi Trên nhiều cấp độ khác nhau, tác giả tiểu thuyết Tây du ký đã thể hiện khá đầy đủ những khát vọng chính đáng của con ngƣời, đồng thời tập trung vào cuộc đấu tranh cho cái chữ “thọ” khó khăn kia. Khát vọng trƣờng sinh bất tử, gắn với mô-típ chinh phục cái chết phổ biến trong thần thoại thế giới, không chỉ đƣợc thể hiện tập trung ở nhân vật Tôn Ngộ Không, mà còn đƣợc thể hiện ở hầu hết các nhân vật khác trong Tây du ký. Trong đó, tính chính đáng thể hiện ở ranh giới phân biệt giữa thần thánh và yêu quái trong việc theo đuổi mục tiêu này của cuộc đời: một bên bằng sự tu luyện bản thân kiên trì, gian khổ; một bên bằng việc xâm phạm hạnh phúc, thậm chí đe dọa, cƣớp đoạt sinh mạng của kẻ khác. Vì vậy, có thể coi chinh phục cái chết, cùng với câu hỏi: “đâu là giới hạn tính chính đáng của việc truy cầu hạnh phúc” là những chủ đề phụ của tiểu thuyết Tây du ký. Mối tƣơng quan giữa hệ thống hình tƣợng kỳ ảo với những vấn đề cốt lõi của đời sống hiện thực cũng góp phần soi sáng chủ đề của Tây du ký. Đại đa số công chúng, khi TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 40 chứng kiến cảnh đại náo thiên cung thì lấy làm sung sƣớng thoả mãn vì hình tƣợng Tôn Ngộ Không đã nói lên đƣợc niềm ƣớc mơ tự do, khát vọng “tháo cũi sổ lồng” của họ; khi nhìn vào những ƣu khuyết điểm của Bát Giới lại cảm thấy thích thú vì những ƣu khuyết điểm ấy cũng là những ƣu khuyết điểm thƣờng thấy của chính họ... Những vấn đề của xã hội nhân gian (thiên tai, trộm cƣớp, xung đột tôn giáo, chính trị hắc ám...) đƣợc nói đến trong tác phẩm là những vấn đề không những thiết thân đối với con ngƣời đƣơng thời mà còn thiết thân đối với nhân loại nói chung ở nhiều thời đại, kích thích mạnh mẽ cảm quan hiện thực ở ngƣời đọc. Về kết cấu, đáng chú ý là việc liên kết nhân vật, sự kiện theo quan hệ nhân quả. Nhân quả trong Tây du ký không đơn giản nhƣ trong truyện dân gian mà phong phú, phức tạp hơn, bao gồm cả lôgic phát triển tất yếu của nhân vật, sự kiện, và biểu hiện của tƣ tƣởng luân hồi, nghiệp báo. Đọc Tây du ký, ai cũng có thể cảm nhận đƣợc những họa, phúc có vẻ bất ngờ đều có căn nguyên ở thiện, ác của các nhân vật hay sự “sắp đặt” của Phật tổ và Bồ tát. Xem xét vai trò của tình tiết “Thủ kinh duyên khởi”, ta thấy rất rõ kiểu quan hệ nhân quả này. Đây là tình tiết mà ngƣời đọc thƣờng xem nhẹ nhƣng nhờ nó mà hai câu chuyện “Đại náo thiên cung” và “Tây Thiên thủ kinh” đƣợc gắn kết một cách hữu cơ, tạo nên mối quan hệ thống nhất nội tại của toàn bộ tác phẩm. Tình tiết này bắt đầu từ sự kiện Phật tổ nói rõ tôn chỉ của việc lấy kinh, Quan Âm phụng chỉ sang phƣơng Đông, khuyến thiện quái sông Lƣu Sa, quái lợn núi Phúc Lăng, và Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại, thậm chí giải cứu cho cả con rồng bị tội treo trên không để sau này biến thành ngựa cƣỡi cho ngƣời lấy kinh, rồi thẳng đến Tràng An tìm đƣợc Huyền Trang đi lấy kinh. Theo đó, một loạt sự kiện kỳ lạ xảy ra dẫn đến cốt truyện Tây Thiên thủ kinh: chết đi sống lại, mƣợn xác nhập hồn, oan hồn đòi mạng Tất cả đều liên quan đến chuyện sống - chết, thọ - yểu, điều mà Tôn Ngộ Không quan tâm hàng đầu khi rời núi Hoa Quả, chống bè vƣợt biển đi tầm sƣ học đạo trƣờng sinh. Đặc biệt, Tây du ký là một tiểu thuyết thần ma nên tính tƣợng trƣng của nó rất rõ nét, tồn tại ở cả hai bình diện: tôn giáo và xã hội. Chiếc vòng kim cô vừa tƣợng trƣng cho giới luật Phật giáo, và “một thứ quyền lực của Đƣờng Tăng”; vừa có thể suy rộng ra, tƣợng trƣng cho luật lệ của một tổ chức mà ngƣời tham gia phải tuân thủ, và rộng hơn nữa, hàm nghĩa rằng một khi đã vào vòng rồi thì sẽ không dễ gì thoát ra đƣợc. “Chân kinh” vừa có nghĩa là kinh gốc, nguyên bản; vừa tƣợng trƣng cho chân lý, quá trình sang Tây Thiên lấy kinh tƣợng trƣng cho quá trình đi tìm chân lý. Tám mốt nạn của Đƣờng Tăng vừa là sự thể hiện bằng hình thức kỳ ảo tƣ tƣởng về quá trình tiệm tu và đốn ngộ của môn đồ Phật giáo Thiền tông; vừa biểu thị triết lý về quá trình tu dƣỡng rèn luyện tự giác, sự trải nghiệm cá nhân để đạt đến chân lý, đồng thời tƣợng trƣng cho những khó khăn gian khổ không thể tránh khỏi trên hành trình tiến hoá của con ngƣời. Về ngôn từ, quả là trong Tây du ký, đặc biệt là trong các đoạn thi từ, vận văn, xuất hiện nhan nhản các khái niệm, thuật ngữ Phật giáo (Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, tháp, sắc, không, tâm, tính, ngộ, thiền, thất tình, lục tặc, lục đạo, luân hồi), Đạo giáo (thần tiên, TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 41 chân nhân, tồn thần, luyện khí, âm dƣơng, ngũ hành, kim công, mộc mẫu, hoàng bà). Nhƣng những thuật ngữ ấy thƣờng đƣợc sử dụng theo nghĩa thông tục và hoàn toàn không theo một trật tự, hệ thống nào. Nhìn từ cấp độ chỉnh thể, có thể thấy những thuật ngữ chủ yếu chi phối việc khắc họa nhân vật trong Tây du ký là tâm, ngộ, tham, sân, si. Trong các nhân vật thuộc nhóm Tứ chúng thỉnh kinh, trừ Sa Tăng vốn mang đặc tính của “thổ” (đất), ít khi bộc lộ cá tính, ba nhân vật còn lại đều có thể dùng ngay ngôn ngữ Phật giáo để khái quát đặc trƣng tính cách cơ bản nhất: Tam Tạng thiên về “si”, Ngộ Không thiên về “sân”, Bát Giới thiên về “tham”. Theo giáo lý nhà Phật, Pháp (chân lý hay trật tự, con đƣờng hay sự chính đáng) có thể bị phá hủy bởi ba “chất độc” hay “sự ô uế” tham, sân, si này, ngƣời tu hành Phật giáo nhất thiết phải dứt bỏ. Vậy mà thầy trò Đƣờng Tăng là đệ tử nhà Phật, lại đều mang đậm những “chất độc” đó trên mình, và cuối cùng đều thành chính quả (thành chân). Điều này càng chứng tỏ tác giả không hề “tuyên dƣơng Phật pháp”, và Tây du ký càng không phải là “sổ tay tôn giáo”, mà thực sự chỉ là một bộ tiểu thuyết thần ma, “dĩ chân vi mĩ, dĩ ảo vi kỳ” (lấy cái chân thực làm cái mĩ, lấy cái ảo làm cái kỳ). 3. KẾT LUẬN Đa chủ đề là một đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Tây du ký. Cần phải từ lý luận chỉnh thể mà xem xét hệ thống chủ đề của tác phẩm. Thừa nhận tính đa chủ đề của Tây du ký không có nghĩa là cắt nghĩa nó một cách chủ quan, phiến diện mà là khẳng định tính phong phú về phƣơng diện văn hóa thẩm mỹ của nó, vì thế phải căn cứ chủ yếu vào biểu hiện cụ thể của hình tƣợng trong tác phẩm. Chủ đề của tiểu thuyết Tây du ký có thể đƣợc nhận thức trên cả ba cấp độ: cấp độ hình tƣợng, cấp độ kết cấu và cấp độ ngôn từ. Ở cấp độ chỉnh thể, có thể xác định chủ đề chính của Tây du ký là cuộc đấu tranh ngoan cƣờng chống lại các thế lực đen tối, chiến thắng thiên tai, nhân họa vì tự do, tự tại, vì cuộc sống hạnh phúc, vì chân lý, chính nghĩa của nhân dân; đồng thời, có thể coi chinh phục cái chết, và giới hạn tính chính đáng của việc truy cầu hạnh phúc là những chủ đề phụ. LIỆU THAM KHẢO [1] Ngô Thừa Ân (1988), Tây du ký, tập 1, (Ngƣời dịch: Nhƣ Sơn, Mai Xuân Hải, Phƣơng Oanh, Ngƣời giới thiệu: Lƣơng Duy Thứ), Nxb. Văn học, Hà Nội. [2] Ngô Thừa Ân (1961), Tây du ký, tập 1, (Thụy Đình dịch, Chu Thiên hiệu đính), Nxb. Phổ thông, Hà Nội. [3] Trần Lê Bảo, Nguyễn Bích Hà (1991), Tây du ký và những mẫu đề thần thoại, Tạp chí Văn hoá dân gian (4), tr. 68-70. [4] Trần Lê Bảo (1998), Lại bàn về mẫu đề thần thoại trong Tây du ký, Tạp chí Văn hoá dân gian (4), tr. 55-59. [5] Lý Duy Côn (Chủ biên) (1997), Trung Quốc nhất tuyệt, (Trƣơng Chính, Phan Văn Các, Ông Văn Tùng, Nguyễn Bá Thính dịch), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [6] Lê Anh Dũng (1995), Giải mã truyện Tây du, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018 42 [7] Trần Xuân Đề (1998), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. [8] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. [9] Phƣơng Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa (1996), Lí luận văn học (tái bản lần thứ hai), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. [10] Ngô Nguyên Phi (1998), Lược khảo về Tây du ký, Tập 1, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh. [11] Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên), Lƣu Đức Trung, Trần Lê Bảo (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Tập II, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội. [12] Phan Quân (1962), Tây du ký bình khảo, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn. [13] 里悔吾 (1997), , 湖北教育出版社, 湖北。 [14] “西游記文華學刊” 編委會 (1998), , (1),北京。 [15] 蔡鉄鷹 (1998), ,中州古籍出版社, 鄭州。 ABOUT MULTI-TOPICS OF JOURNEY TO THE WEST NOVEL Trinh Dinh Ha ABSTRACT Based on the introduction of the Chinese and Vietnamese researchers’ opinions on the topics of “Journey to The West” novel, the article aims to shape understanding and explain the theme of the work with two main points: Firstly, multi-topic is a basic feature of “Journey to The West” novel. Secondly, it is necessary to consider the subject system of the work from a comprehensive theory. From the entire level, it is possible to determine the main theme of the Journey to the West as the tenacious struggle against the dark forces and disasters for freedom, happiness, truth and righteousness of humans; at the same time, it can be seen that the conquest of death the limit in the legitimate pursuit of happiness are sub-themes. Key words: Structure, multi-topics, novel, Journey to The West.
File đính kèm:
- ve_tinh_da_chu_de_cua_tieu_thuyet_tay_du_ky.pdf