Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” (Vật lí 12) theo hướng bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn của học sinh
Định hướng phát triển năng lực là quan điểm chủ đạo trong việc thiết kế Chương trình giáo dục phổ thông năm
2018. Nội dung dạy học chuyển từ việc học sinh (HS) học được gì sang việc HS làm được gì (Bộ GD-ĐT, 2018).
Do đó, năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn (NLGQVĐTT) là năng lực quan trọng cần được rèn luyện, giúp HS có
khả năng giải quyết các vấn đề một cách linh hoạt trên cơ sở vận dụng những kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm đã
biết vào các vấn đề cụ thể. Bên cạnh đó, khi đề cập vấn đề năng lực thì năng lực được hiểu chính là khả năng của
mỗi cá nhân. Mỗi HS có một đặc điểm riêng biệt về nhận thức, về năng lực, nên không thể hình thành năng lực ở
cá nhân những người học khác nhau từ một con đường chung nhất. Lí thuyết đa trí tuệ (LTĐTT) của Gardner đã xác
định mỗi người đều có cả 8 dạng trí tuệ, nhưng trong số đó, sẽ có một vài dạng nổi trội hơn những dạng khác; những
dạng trí tuệ này không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà đan xen lẫn nhau, có thể thay đổi tuỳ theo yếu tố tác động lên nó
(Gardner, 2011). Đây là cơ sở để có thể vận dụng LTĐTT vào quá trình dạy học nói chung và quá trình bồi dưỡng
NLGQVĐTT nói riêng.
Bài báo trình bày về việc đối chiếu các loại trí tuệ được sử dụng và các biện pháp sử dụng LTĐTT vào quá trình
bồi dưỡng NLGQVĐTT trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” Vật lí lớp 12.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” (Vật lí 12) theo hướng bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn của học sinh
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 16-21 ISSN: 2354-0753 16 VẬN DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU” (VẬT LÍ 12) THEO HƯỚNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ THỰC TIỄN CỦA HỌC SINH Quách Nguyễn Bảo Nguyên1, Huỳnh Công Thanh Hà2,+, Nguyễn Hoàng Anh3 1Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế; 2Trung tâm giáo dục thường xuyên An Giang; 3Trường Đại học Đồng Tháp +Tác giả liên hệ ● Email: huynhcongthanhha@gmail.com Article History Received: 28/8/2020 Accepted: 30/09/2020 Published: 05/12/2020 Keywords capacity to solve practical problems, fostering capacity, the theory of multiple intelligences, alternating current, students. ABSTRACT Each individual has its own unique cognitive characteristics. Teachers cannot cultivate individual learners from a common path. The theory of multiple intelligences identifies that each person has 8 types of intelligence, but among them, there will be some more dominant than others. Therefore, teachers can take advantage of the flexibility between the different types of intelligences and the competency components in the process of fostering students' competencies. The article presents the use of multi-intellectual theory in teaching chapter “Alternating current” in fostering students’ ability to solve practical problems. This paper also presents the methods of using multi-intellectual theory towards fostering the ability to solve practical problems for students in teaching chapter “Alternating current”. Conducting case studies in performing experiments has shown efficacy of using established methods. 1. Mở đầu Định hướng phát triển năng lực là quan điểm chủ đạo trong việc thiết kế Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018. Nội dung dạy học chuyển từ việc học sinh (HS) học được gì sang việc HS làm được gì (Bộ GD-ĐT, 2018). Do đó, năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn (NLGQVĐTT) là năng lực quan trọng cần được rèn luyện, giúp HS có khả năng giải quyết các vấn đề một cách linh hoạt trên cơ sở vận dụng những kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm đã biết vào các vấn đề cụ thể. Bên cạnh đó, khi đề cập vấn đề năng lực thì năng lực được hiểu chính là khả năng của mỗi cá nhân. Mỗi HS có một đặc điểm riêng biệt về nhận thức, về năng lực, nên không thể hình thành năng lực ở cá nhân những người học khác nhau từ một con đường chung nhất. Lí thuyết đa trí tuệ (LTĐTT) của Gardner đã xác định mỗi người đều có cả 8 dạng trí tuệ, nhưng trong số đó, sẽ có một vài dạng nổi trội hơn những dạng khác; những dạng trí tuệ này không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà đan xen lẫn nhau, có thể thay đổi tuỳ theo yếu tố tác động lên nó (Gardner, 2011). Đây là cơ sở để có thể vận dụng LTĐTT vào quá trình dạy học nói chung và quá trình bồi dưỡng NLGQVĐTT nói riêng. Bài báo trình bày về việc đối chiếu các loại trí tuệ được sử dụng và các biện pháp sử dụng LTĐTT vào quá trình bồi dưỡng NLGQVĐTT trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” Vật lí lớp 12. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Một số vấn đề về năng lực giải quyết vấn đề Năng lực là những kĩ năng, kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ xã hội và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt. NLGQVĐTT là năng lực trả lời những câu hỏi, giải quyết vấn đề đặt ra từ những tình huống thực tiễn trong học tập môn toán, trong học tập những môn khoa học khác ở trường phổ thông và trong cuộc sống” (Hà Xuân Thành, 2017). Như vậy, NLGQVĐTT được coi là khả năng cá nhân của HS sử dụng kiến thức đã học được kết hợp với kĩ năng, tình cảm, thái độ và kinh nghiệm có sẵn để phát hiện, tìm hiểu và giải quyết có hiệu quả những vấn đề phát sinh từ thực tế cuộc sống hằng ngày. Khi bàn về cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề, 5 thành phần của quá trình giải quyết vấn đề được xác định là: nhận diện vấn đề; tìm hiểu cặn kẻ những khó khăn; đưa ra một giải pháp; thực hiện giải pháp; đánh giá hiệu quả thực hiện. Nếu nhìn nhận trên quan điểm về năng lực thì đây cũng chính là các thành phần của năng lực giải quyết vấn đề (Branford, 1984; Nguyễn Thị Hồng Hải và Nguyễn Thị Bích Liên, 2018). VJE Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 16-21 ISSN: 2354-0753 17 Trên cơ sở đối chiếu cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề và các hoạt động chủ yếu của HS khi giải quyết một vấn đề thực tiễn, chúng tôi xác định cấu trúc NLGQVĐTT của HS với các thành tố năng lực như sau: phát hiện và nêu vấn đề thực tiễn; phân tích vấn đề thực tiễn và thu thập thông tin liên quan; đề xuất được giải pháp và thực hiện giải pháp giải quyết vấn đề thực tiễn; thuyết trình, báo cáo kết quả từ vấn đề thực tiễn; đ ... nh hướng để HS trả lời hoặc yêu cầu HS thực hiện một nhiệm vụ được giao. Khi xây dựng tình huống, GV cần hướng HS để các em có thể vận dụng các dạng trí tuệ sau: trí tuệ không gian, trí tuệ nội tâm, trí tuệ giao tiếp và trí tuệ ngôn ngữ vào khâu này. - Sử dụng LTĐTT vào khâu giải quyết vấn đề: ở khâu này, HS thực hiện nhiều hoạt động học tập. Các hoạt động này đòi hỏi sự vận dụng và phối hợp của nhiều dạng trí tuệ khác nhau. Sau khi HS đã xác định xong vấn đề thực tiễn cần giải quyết thì các em sẽ thu thập thông tin, phân tích, trao đổi, suy luận... Quá trình này đòi hỏi HS phải tập trung tư duy rất cao. Tuy nhiên, không phải tất cả các dạng trí tuệ của HS đều phải vận dụng ở giai đoạn này mà nó còn tuỳ thuộc vào từng hoạt động cụ thể. Vì vậy, GV cần xác định dạng trí tuệ nào là cần thiết để HS sử dụng. Dựa trên cơ sở này, GV tạo điều kiện để các dạng trí tuệ đó được sử dụng để giải quyết vấn đề thực tiễn bằng cách xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở, định hướng. - Sử dụng LTĐTT vào khâu kết luận và vận dụng: Ở giai đoạn này HS đã giải quyết được vấn đề thực tiễn và lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy, việc vận dụng trí tuệ là để thuyết trình kết quả và vận dụng vào tình huống thực tiễn tương tự. Việc định hướng và tạo điều kiện để các dạng trí tuệ của HS hoạt động ở giai đoạn này cũng góp phần nâng cao NLGQVĐTT. Tuy nhiên, GV không nên rập khuôn các biện pháp như trên. Trong quá trình giảng dạy, GV có thể điều chỉnh lại một phần nội dung và dạng trí tuệ cho phù hợp với năng lực của HS. (2) Biện pháp 2: Lựa chọn và sử dụng dạng trí tuệ phù hợp để bồi dưỡng các năng lực thành tố của NLGQVĐTT NLGQVĐTT gồm nhiều thành tố, để bồi dưỡng, GV cần phải bồi dưỡng từng thành tố riêng biệt của năng lực. Các dạng trí tuệ tuỳ theo đặc tính của nó có thể góp phần nâng cao một hay một số thành tố. Do đó, việc lựa chọn có mục đích các dạng trí tuệ cho từng loại thành tố của năng lực là rất cần thiết. Cách thức thực hiện biện pháp: - Bước 1: Xác định rõ những hoạt động trong giờ học hoặc dựa vào các biểu hiện hành vi của năng lực thành tố, sau đó phân loại theo LTĐTT. - Bước 2: GV dựa trên cơ sở ở bước 1 soạn các nội dung hoạt động cho phù hợp với HS. Tuỳ theo từng nội dung bài học để đưa ra sách lược giảng dạy phù hợp với nhu cầu, trình độ, tiềm năng và cả trình độ trí tuệ của HS. - Bước 3: Rút ra kết luận và điều chỉnh các định hướng hoạt động của HS theo thực tế. Có những hoạt động cụ thể của HS thể hiện rõ dạng trí tuệ phù hợp nhưng cũng có hoạt động là tổng hợp của nhiều dạng trí tuệ. Vì vậy, trong quá trình dạy học, GV cần điều chỉnh phương pháp dạy sao cho phù hợp với HS. 2.2.4. Quy trình vận dụng lí thuyết đa trí tuệ theo hướng bồi dưỡng năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn Việc vận dụng LTĐTT theo hướng bồi dưỡng năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn được thực hiện theo quy trình: - Bước 1. Xác định mục tiêu dạy học: dựa trên khung chương trình của Bộ GD-ĐT, tình hình thực tế của trường và năng lực hiện tại của HS để xác định các mục tiêu về kiến thức và kĩ năng cốt lõi trong quá trình dạy học. - Bước 2. Xác định NLGQVĐTT hiện tại của HS và năng lực thành tố cần bồi dưỡng cho HS: cần xác định biểu hiện mức độ hiện tại của các năng lực thành tố của HS. Khi bồi dưỡng phải xác định năng lực thành tố đó phát triển ở mức độ nào để GV đề ra mức độ bồi dưỡng phù hợp với năng lực HS. - Bước 3. Đối chiếu nội dung học tập, năng lực thành tố cần rèn luyện và xác định loại trí tuệ tương ứng: mỗi bài học có nội dung và mục tiêu giảng dạy khác nhau, do đó năng lực phát triển cũng khác nhau. Mỗi năng lực thành tố đều có mức độ khác nhau ứng với từng nội dung; từ đó, xác định dạng trí tuệ mà HS sẽ sử dụng để giải quyết vấn đề thực tiễn thông qua nhiệm vụ học tập. - Bước 4. Lựa chọn biện pháp rèn luyện và thiết kế kế hoạch dạy học: dạy học theo kiểu phát hiện và giải quyết vấn đề gồm các hành động như tổ chức các tình huống có vấn đề, biểu đạt (nêu ra) các vấn đề, chú ý giúp đỡ HS những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra các cách giải quyết đó và cuối cùng lãnh đạo quá trình hệ thống hoá và cũng cố các kiến thức đã tiếp thu được. Ví dụ: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 16-21 ISSN: 2354-0753 19 + Khởi động: Từ tình huống thực tiễn là vì sao dòng điện xoay chiều được sử dụng phổ biến hơn dòng điện một chiều? + Phát hiện và nêu vấn đề cần nghiên cứu: phải so sánh dòng điện xoay chiều với dòng điện một chiều, kết hợp với thực tế cuộc sống mới trả lời được câu hỏi; phải tìm hiểu đại cương về dòng điện xoay chiều. + GV tổ chức và hướng dẫn HS tìm hiểu đại cương về dòng điện xoay chiều. Các đại lượng giá trị tức thời, giá trị hiệu dụng, giá trị cực đại của dòng điện xoay chiều. + GV tổ chức và hướng dẫn HS thảo luận để so sánh dòng điện xoay chiều với dòng điện một chiều; so sánh dòng điện xoay chiều với dao động điều hoà. Sau đó, GV hướng dẫn HS hoàn chỉnh kiến thức. + Củng cố và vận dụng: giải thích tình huống nêu ở đầu bài và một số hiện tượng, ứng dụng khác trong thực tế; làm bài tập trắc nghiệm. - Bước 5. Thực hiện kế hoạch dạy học, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh hoàn thiện: GV thực hiện dạy học theo kế hoạch ở bước 4, chú ý khuyến khích HS vận dụng các dạng trí tuệ vào quá trình học tập; kiểm tra, đánh giá qua biểu hiện của HS, qua việc thực hiện nhiệm vụ, bài tập củng cố làm cơ sở điều chỉnh kế hoạch dạy học. 2.3. Vận dụng Lí thuyết đa trí tuệ trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” (Vật lí 12) theo định hướng bồi dưỡng năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn Trên cơ sở lí thuyết đã xây dựng, đối chiếu với nội dung kiến thức chương “Dòng điện xoay chiều”, chúng tôi tiến hành xác định các vấn đề thực tiễn, các năng lực thành tố, mức độ cần đạt được sau quá trình rèn luyện và loại trí tuệ tương ứng được sử dụng trong quá trình bồi dưỡng. Sau đây, chúng tôi đề xuất định hướng thực hiện kế hoạch bồi dưỡng NLGQVĐTT thông qua một số bài học tiêu biểu trong bảng 2: Bảng 2. Định hướng nội dung, vấn đề thực tiễn, năng lực thành tố, mức độ và dạng trí tuệ tương ứng Tên bài học Vấn đề thực tiễn Bồi dưỡng năng lực thành tố Mức độ Dạng trí tuệ Bài 12: Đại cương về dòng điện xoay chiều - So sánh dòng điện xoay chiều và dòng điện không đổi - Đo giá trị của dòng điện xoay chiều - So sánh các đại lượng của dòng điện xoay chiều và dao động điều hoà - Phát hiện và nêu được vấn đề thực tiễn - Phân tích vấn đề thực tiễn và thu thập thông tin liên quan - Đề xuất và thực hiện giải pháp - Thuyết trình và báo cáo kết quả - Nêu được chính xác vấn đề so sánh giữa dòng điện xoay chiều và dòng điện không đổi - Đo được giá trị hiệu dụng của dòng điện xoay chiều bằng con đường thực nghiệm - So sánh được sự tương ứng các đại lượng của dòng điện xoay chiều và dao động điều hòa - Trí tuệ nội tâm - Trí tuệ giao tiếp - Trí tuệ logic toán học - Trí tuệ không gian tự nhiên - Trí tuệ giao tiếp Bài 13: Các mạch điện xoay chiều So sánh các đại lượng của các loại mạch điện xoay chiều - Đề xuất và thực hiện giải pháp - Thuyết trình và báo cáo kết quả Lập được bảng so sánh các đại lượng ngay tại lớp học - Trí tuệ ngôn ngữ - Trí tuệ logic toán học - Trí tuệ không gian tự nhiên Bài 16: Truyền tải điện năng. Máy biến áp - Bài toán truyền tải điện năng - Chế tạo một máy biến áp công suất nhỏ - Bài toán hiệu suất truyền tải - Đề xuất và thực hiện giải pháp - Thuyết trình báo cáo kết quả - Đánh giá giải pháp - Đưa ra được phương pháp giải bài toán. - Đưa ra được cách tạo một máy biến áp đơn giản và tạo được sản phẩm - Trí tuệ ngôn ngữ. - Trí tuệ không gian. - Trí tuệ logic toán học - Trí tuệ thể hình Bài 18: Động cơ không đồng bộ ba pha Giải thích được nguyên lí hoạt động của động cơ không đồng bộ. Vì sao gọi là động cơ không đồng bộ (chứng minh bằng thuyết trình và đoạn video) - Phân tích và thu thập thông tin - Đề xuất và thực hiện giải pháp Giải thích được nguyên lí hoạt động của động cơ không đồng bộ, phải có video minh họa đầy đủ khi thuyết trình - Trí tuệ ngôn ngữ - Trí tuệ không gian tự nhiên - Trí tuệ logic toán học VJE Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 16-21 ISSN: 2354-0753 20 Bài 19: Thực hành Khảo sát đoạn mạch điện xoay chiều có R, L, C mắc nối tiếp - Lắp ráp bộ thí nghiệm - Phương án thí nghiệm - Cách đọc kết quả đo - Tính toán và trình bày bài báo cáo. - Phân tích vấn đề thực tiễn và thu thập thông tin - Đề xuất và thực hiện giải pháp - Đánh giá giải pháp - Phải lắp ráp được mạch điện, dựa vào mạch thực tế đề ra phương án thí nghiệm - Trình bày kết quả chính xác - Trí tuệ không gian từ nhiên - Trí tuệ thể hình động năng - Trí tuệ logic toán học - Trí tuệ ngôn ngữ - Trí tuệ giao tiếp 2.4. Kết quả thực nghiệm Quá trình thực nghiệm được tiến hành vào học kì I năm học 2019-2020 tại Trường THPT Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Đối tượng là 103 HS khối 12 thuộc các lớp 12A2, 12A3, 12A4. Trong quá trình thực nghiệm sư phạm, chúng tôi và các GV hỗ trợ tham dự tất cả các tiết học, tiến hành thu thập số liệu dựa trên các nội dung công việc như sau: quan sát đánh giá tiến trình dạy học; ghi chép biểu hiện NLGQVĐTT của HS dựa trên các bảng tiêu chí đã được xây dựng; tiến hành đánh giá đồng đẳng và phân tích sản phẩm học tập của HS. Tất cả các kết quả được tổng hợp và được phân tích về mặt định tính và định lượng. - Về mặt định tính: Thông qua việc sử dụng LTĐTT nhằm bồi dưỡng NLGQVĐTT, HS phần nào chủ động tìm hiểu kiến thức, hứng thú và tự giác trong các hoạt động học tập. HS sôi nổi, nhiệt tình trong việc trình bày ý kiến của mình. Hầu hết HS đều tham gia vào quá trình hoạt động nhóm, thực hiện nhiệm vụ mà GV đã phân công, tự nguyện đóng góp ý kiến, mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Khi mới bắt đầu tiết học đầu tiên, HS thường mất nhiều thời gian cho hoạt động, ở những tiết học sau, các em đã quen dần và thao tác chính xác, chủ động hơn. Đặc biệt, khả năng tự đánh giá, nhận xét và phản biện của HS đã dần hình thành và tốt hơn khi HS quen dần với các khâu của quá trình giải quyết vấn đề thực tiễn. HS tỏ ra thích thú hơn với môn Vật lí, tự nguyện tham gia vào những hoạt động học tập; qua đó, bồi dưỡng được NLGQVĐTT của HS. - Về mặt định lượng: Để có thể đánh giá chi tiết sự phát triển của NLGQVĐTT của HS, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp, tiến hành chia các lớp thành các nhóm với 8 HS/nhóm. Điều kiện chia nhóm là các nhóm có cùng trình độ nhận thức trước tác động thông qua kĩ thuật chia nhóm cùng trình độ. Sau đó, chọn một nhóm ngẫu nhiên đại diện cho tổng thể và tiến hành thu thập số liệu. Kết quả phân tích các chỉ số hành vi được bồi dưỡng của NLGQVĐTT của 08 HS được mô tả thông qua các đồ thị sau: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 16-21 ISSN: 2354-0753 21 Đồ thị phát triển NLGQVĐTT của 08 HS Ở lần thực nghiệm đầu tiên, HS có chia nhóm thảo luận, thu thập thông tin, nhưng về kĩ năng, thao tác còn hạn chế; sự phân công trong nhóm chưa rõ ràng, chưa đạt hiệu quả. Một số em không biết mình nên làm gì? Thực hiện ra sao? Trình bày như thế nào? Đa phần các em có chú ý đến tình huống thực tiễn mà GV nêu nhưng để suy nghĩ tìm ra vấn đề trong tình huống thì cần GV gợi ý mới thực hiện được. Các em thường gặp khó khăn ở khâu PN3 (nêu xác định vấn đề thực tiễn cần nghiên cứu), PT3 (thu thập thông tin, diễn đạt bằng ngôn ngữ vật lí và chuyển giao qua mô hình vật lí), ĐK3 (đề xuất giải pháp mới). Tuy nhiên, thông qua kế hoạch bồi dưỡng đã được xây dựng qua các bài học của chương “Dòng điện xoay chiều”, kết quả đánh giá lần thứ 2 đã cho thấy tất cả các chỉ số hành vi của năng lực ở HS đã có sự phát triển ở tất cả HS ở các mức độ về nhận thức khác nhau. Điều này đã cho thấy hiệu quả của việc vận dụng LTĐTT và bồi dưỡng NLGQVĐTT cho HS. 3. Kết luận Những kết quả nghiên cứu về mặt lí luận, thực tiễn dạy học cũng như những kết quả thực nghiệm sư phạm đã cho thấy việc vận dụng LTĐTT vào dạy học có thể bồi dưỡng được NLGQVĐTT cho HS. Với nhiều dạng trí tuệ khác nhau, GV có thể vận dụng để tiến hành các biện pháp bồi dưỡng khác nhau phù hợp với từng nội dung kiến thức, từng giai đoạn dạy học và đặc biệt đáp ứng được sự cá nhân hóa về mặt năng lực, trình độ của đối tượng HS. Những kết quả nghiên cứu có thể chưa thật sự toàn diện cho một phạm vi lớn, áp dụng cho tất cả các đối tượng HS nhưng đây có thể là cơ sở cho việc phát triển các nghiên cứu tiếp theo. Tài liệu tham khảo Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26/12/2018). Branford J. D. (1984). The Ideal Problem Solving, Freeman. 50, 105, New York. Gardner, H. E. (2011). Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences. Basic Books, New York. Hà Xuân Thành (2017). Dạy học Toán ở trường trung học phổ thông theo hướng phát triển năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn thông qua việc khai thác và sử dụng các tình huống thực tiễn. Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Lương Duyên Bình (tổng chủ biên), Vũ Quang (chủ biên), Nguyễn Thượng Chung, Tô Giang, Trần Chí Minh, Ngô Quốc Quýnh (2008). Vật lí 12. NXB Giáo dục. Nguyễn Thị Hồng Hải, Nguyễn Thị Bích Liên (2018). Cơ sở lí luận của việc đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên trong dạy học phần Triết học - môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 6, tr 257-263; 274. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy (2013). Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số 316, tr 34-36. Trần Khánh Đức (2010). Lí thuyết đa thông minh và đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học. Tạp chí Giáo dục, số 235, tr 249-253. Trần Văn Trung, Lê Thị Tuyết Hạnh (2017). Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học nhằm phát triển các năng lực cần thiết của học sinh phổ thông ở Việt Nam. Tạp chí Giáo dục, số 420, tr 18-20.
File đính kèm:
- van_dung_thuyet_da_tri_tue_trong_day_hoc_chuong_dong_dien_xo.pdf