Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam

Đại dịch COVID-19 đã và đang có những tác động to lớn

đến chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu nói chung, gây gián

đoạn, và xáo trộn chuỗi cung ứng thực phẩm Việt Nam nói

riêng. Đại dịch mang lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng bởi rủi ro

yêu cầu chúng ta cần thiết phải chuẩn bị, đối phó và vượt qua.

Các rủi ro phức tạp và tác động lẫn nhau, do đó, nghiên cứu này

nhằm đánh giá tầm quan trọng, mối quan hệ đan xen giữa các

yếu tố rủi ro trong chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam bằng

phương pháp DEMATEL. Nghiên cứu cho thấy rủi ro về thay

đổi trong chính sách và rủi ro thay đổi hành vi tiêu dùng có ảnh

hưởng rất mạnh, là yếu tố nguy cơ kéo theo các rủi ro khác. Tuy

là nguyên nhân, thay đổi nhu cầu và hành vi tiêu dùng vẫn bị rủi

ro thay đổi chính sách từ nhà nước chi phối, trong khi đó, việc

thay đổi chính sách hay không lại chịu sự tác động từ việc nông

dân bị giảm thu nhập và hành vi người tiêu dùng thay đổi.

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang baonam 8240
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam

Vận dụng phương pháp Dematel đánh giá rủi ro Covid-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
Vận dụng phương pháp DEMATEL đánh giá rủi ro COVID-19 tới 
chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam 
Applying DEMATEL method to assess COVID-19 risks to food supply 
chain in Vietnam 
Tôn Nguyễn Trọng Hiền1*, Nguyễn Quỳnh Mai1 
1Đại học Văn Lang, Việt Nam 
*Tác giả liên hệ, Email: hien.tnt@vlu.edu.vn 
THÔNG TIN TÓM TẮT 
DOI:10.46223/HCMCOUJS. 
Ngày nhận: 17/02/2021 
Ngày nhận lại: 28/02/2021 
Duyệt đăng: 09/03/2021 
Từ khóa: 
COVID-19, DEMATEL, doanh 
nghiệp vận tải Việt Nam, chuỗi 
cung ứng thực phẩm 
Keywords: 
COVID-19, DEMATEL, 
Vietnam logistics companies, 
food supply chain 
Đại dịch COVID-19 đã và đang có những tác động to lớn 
đến chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu nói chung, gây gián 
đoạn, và xáo trộn chuỗi cung ứng thực phẩm Việt Nam nói 
riêng. Đại dịch mang lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng bởi rủi ro 
yêu cầu chúng ta cần thiết phải chuẩn bị, đối phó và vượt qua. 
Các rủi ro phức tạp và tác động lẫn nhau, do đó, nghiên cứu này 
nhằm đánh giá tầm quan trọng, mối quan hệ đan xen giữa các 
yếu tố rủi ro trong chuỗi cung ứng thực phẩm tại Việt Nam bằng 
phương pháp DEMATEL. Nghiên cứu cho thấy rủi ro về thay 
đổi trong chính sách và rủi ro thay đổi hành vi tiêu dùng có ảnh 
hưởng rất mạnh, là yếu tố nguy cơ kéo theo các rủi ro khác. Tuy 
là nguyên nhân, thay đổi nhu cầu và hành vi tiêu dùng vẫn bị rủi 
ro thay đổi chính sách từ nhà nước chi phối, trong khi đó, việc 
thay đổi chính sách hay không lại chịu sự tác động từ việc nông 
dân bị giảm thu nhập và hành vi người tiêu dùng thay đổi. 
ABSTRACT 
The COVID-19 pandemic has had a significant impact on 
the global food supply chain in general, caused disruption and 
disturbance to the Vietnamese food supply chain in particular. 
Pandemic has brought severe consequences; the impact of risk 
requires us to identify and deal with potential threats. Risks are 
complex and interact with each other. Therefore, this study aims 
to evaluate the importance and intersection of risk factors in the 
food supply chain in Vietnam by DEMATEL method. Research 
shows that policy change risk and risk of changing consumer 
behavior have a great influence, which is risk factors potentially 
lead to other threats. Despite being the cause, changing 
consumption behavior is still dominated by policy change; in 
the meantime, changing policy is affected by the decrease in 
farmer income and changes in consumer behavior. 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
1. Giới thiệu 
Cuộc khủng hoảng đại dịch Corona vi-rút 2019 (COVID-19) ngày càng sâu rộng 
khiến các quốc gia tạm thời đóng cửa giao thương giãn cách xã hội. Đại dịch đã có tác động 
đáng kể đến chuỗi cung ứng toàn cầu và tiếp tục ảnh hưởng đến các doanh nghiệp ngành thực 
phẩm hoạt động trên toàn thế giới. Việt Nam không ngoại lệ, trong khi Việt Nam đã và đang 
làm tốt việc ngăn chặn đại dịch, do tính liên kết toàn cầu, nền kinh tế của Việt Nam vẫn bị ảnh 
hưởng dẫn đến thiệt hại và bộc lộ những rủi ro khi cung ứng các sản phẩm. Hoạt động giao 
thương tại Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự bùng phát của dịch COVID-19. Trước hết 
tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam giảm 4% so với cùng kỳ năm 
2019 (Tran, 2020). Nhu cầu tiêu dùng giảm do người dân thắt chặt chi tiêu, có sự thay đổi 
hành vi tiêu dùng. Thống kê cho thấy tiêu dùng thức uống giảm 14.1 %; sữa và sản phẩm từ 
sữa tăng 10.3%; thực phẩm đóng gói tăng 26.2%. (Sơn Nam, 2020). Bên cạnh đó, tác động 
của đại dịch Covid-19 đến thị trường vận tải biển là rất rõ ràng đại dịch COVID-19 sẽ khiến 
nhu cầu vận tải đường biển thế giới năm 2020 giảm khoảng 30%, hoạt động vận tải hàng hóa 
bằng đường biển có lúc gần như tê liệt (Nguyen, 2020). 
Nhiều nghiên cứu quốc tế kịp thời để tìm giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của 
đại dịch. Quan sát kết quả nghiên cứu được báo cáo trên cơ sở dữ liệu Scopus nghiên cứu về 
ảnh hưởng dịch bệnh đối với chuỗi cung ứng thực phẩm, chúng tôi ghi nhận nhóm các hướng 
nghiên cứu tiêu biểu như: Đo lường tác động của COVID-19 đến giá, cổ phiếu và lợi nhuận 
trong chuỗi cung ứng thực phẩm (Coluccia, Agnusdei, Miglietta, & De Leo, 2021; Höhler & 
Lansink, 2020); Đảm bảo an toàn thực phẩm trong tình hình dịch bệnh (Kumar et al., 2021; 
Rahman, Sharun, Jose, & Dhama, 2020; Rizou, Galanakis, Aldawoud, & Galanakis, 2020); 
Chiến lược, chính sách ứng phó và khả năng phục hồi (Ali et al., 2021; Chenarides, 
Manfredo, & Richards, 2020; Liverpool‐Tasie, Reardon, & Belton, 2020); Đề xuất nguyên 
nhân và/ hoặc giải pháp hạn chế gián đoạn chuỗi cung ứng (Aday & Aday, 2020; Mahajan & 
Tomar, 2020; Montenegro & Young, 2020; Singh, Kumar, Panchal, & Tiwari, 2020). 
Xem xét khoảng trống trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng phân tích mối quan 
hệ đan xen giữa các yếu tố rủi ro bị bỏ qua trong các phương pháp đánh giá rủi ro truyền 
t ... (Bước 2.4) Xây dựng ma trận quan hệ tổng quát; 
(Bước 2.5) Xây dựng bản đồ quan hệ. 
3.1. Chọn lọc tiêu chí 
Chúng tôi quyết định chọn lọc rủi ro từ Covid-19 đối với chuỗi cung ứng thực phẩm 
thông qua các nghiên cứu trước đó để đảm bảo độ tin cậy và tránh thiên kiến trong quá trình 
chọn lọc dữ liệu. Chúng tôi sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp-cơ sở dữ liệu Web of Science 
(WoS) của Clarivate Analytics. Để sàn lọc lại một lần nữa những tạp chí đạt chất lượng tốt, 
chúng tôi so sánh kết quả tìm kiếm được với danh sách phân loại tạp chí (bản cập nhật mới 
nhất AJG 2018) biên soạn bởi Hiệp hội các trường kinh doanh Anh Quốc. Chi tiết tiêu chí tìm 
kiếm và kết quả được thể hiện bên dưới: 
- Cơ sở dữ liệu: Web of Science; 
- Ngày truy vấn: 10/01/2021; 
- Từ khóa tìm kiếm: TITLE: (COVID * FOOD SUPPLY CHAIN); 
- Kết quả tìm kiếm: 16 kết quả trả về (Bảng 1). 
Bảng 1 
Kết quả tìm kiếm tạp chí theo tiêu chí tìm kiếm 
STT DOI Tên tạp chí 
AJG 
2018 
1 
10.1007/s13197-020-
04942-0 
Journal of Food Science And Technology-
Mysore 
2 10.1111/ajae.12158 
American Journal of Agricultural 
Economics 
3* 
3 10.1002/agr.21678 Agribusiness 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
STT DOI Tên tạp chí 
AJG 
2018 
4 10.1093/fqsafe/fyaa024 Food Quality And Safety 
5 10.1002/aepp.13121 Applied Economic Perspectives and Policy 2* 
6 
10.1080/1059924X.2020.
1815623 
Journal of Agromedicine 
7 10.1002/aepp.13139 Applied Economic Perspectives and Policy 2* 
8 
10.5304/jafscd.2020.101.
015 
Journal of Agriculture Food Systems And 
Community Development 
9 
10.1016/j.tifs.2020.06.00
8 
Trends in Food Science & Technology 
10 
10.1080/00207543.2020.
1792000 
International Journal of Production 
Research 
3* 
11 
10.1038/s43016-020-
0097-7 
Nature Food 
12 
10.5304/jafscd.2020.094.
031 
Journal of Agriculture Food Systems And 
Community Development 
13 10.1111/cjag.12237 
Canadian Journal of Agricultural 
Economics 
2* 
14 No International Sugar Journal 
15 
10.1016/j.tifs.2020.03.04
1 
Trends in Food Science & Technology 
16 
10.1108/CAER-04-2020-
0056 
A snapshot of food supply chain in Wuhan 
under the COVID-19 pandemic 
Nguồn: Web of Science 
Từ 16 bài viết từ cơ sở dữ liệu WoS, có 05 bài viết xuất bản trong tạp chí được AJG 
2018 xếp hạng 2* trở lên, là tạp chí được đánh giá cao trong cùng lĩnh vực nghiên cứu. Tiến 
hành tổng hợp các bài viết nêu trên, đọc, phân tích và tổng hợp chúng tôi có được rủi ro mang 
đến chuỗi cung ứng thực phẩm như sau: 
Bảng 2 
Rủi ro COVID-19 ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng thực phẩm 
Ký hiệu Rủi ro Giải nghĩa 
A 
Hàng hóa không thể lưu 
thông 
(Hobbs, 2020; Liverpool‐
Tasie et al., 2020; Mahajan & 
Tomar, 2020; Thilmany et 
al., 2020) 
COVID-19 mang lại rủi ro 
về gián đoạn trong lưu thông 
hàng hóa. Đại dịch COVID-
19 mang lại mối nguy hiểm 
sức khỏe nghiêm trọng và 
các quốc gia trên thế giới đã 
phản ứng với việc đóng cửa 
một phần nền kinh tế của họ 
để làm chậm tốc độ lây 
nhiễm, điều này ảnh hưởng 
đến vận nguyên liệu và hàng 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
hóa. 
B 
Thiếu lao động 
(Hobbs, 2020; Liverpool‐
Tasie et al., 2020; Singh et 
al., 2020) 
Mối nguy thiếu hụt lao động 
trong phân phối, vận chuyển 
thực phẩm do bệnh tật, cách 
ly, giãn cách xã hội. Sự 
thiếu hụt trầm trọng những 
vùng có dịch do lo ngại lây 
nhiễm. Ngoài ra, gián đoạn 
hoặc bất ổn trong kinh 
doanh do dịch bệnh gây áp 
lực về tìm kiếm nguồn lao 
động thay thế kịp thời. 
C 
Giảm thu nhập nông dân 
(Liverpool‐Tasie et al., 2020; 
Mahajan & Tomar, 2020) 
Nông thủy sản không thể 
tiêu thụ do lệnh giới nghiêm 
ảnh hưởng đến nguồn thu 
của nông dân. Ví dụ khác, 
thiếu vác-xin do chuỗi cung 
ứng thuốc bị nghẽn cũng ảnh 
hưởng đến thu nhập nông 
dân. 
D 
Thay đổi hành vi tiêu dùng 
(Liverpool‐Tasie et al., 2020) 
Nguy cơ có sự thay đổi đột 
ngột trong mô hình tiêu 
dùng từ lĩnh vực dịch vụ 
thực phẩm, ngoài ra tồn tại 
hỗn loại trong nhu cầu tiêu 
dùng thực phẩm hàng ngày. 
E 
Tăng chi phí vận chuyển 
(Singh et al., 2020) 
Giao hàng không kịp thời 
làm tăng chí phí phát sinh và 
chi phí thay thế phương tiện 
vận tải khác nếu có. 
F 
Thay đổi chính sách 
(Liverpool‐Tasie et al., 2020; 
Thilmany et al., 2020) 
Doanh nghiệp cần những 
chính sách ổn định lâu dài, 
trong khi đó, dịch bệnh 
mang theo khả năng thay đổi 
liên tục chính sách điều 
chỉnh trong tình hình mới. 
Nguồn: Tác giả tổng hợp 
Sáu tiêu chí rủi ro kèm diễn giải được gửi cho các chuyên gia thẩm định sơ xem liệu 
rằng các rủi ro này có phù hợp trong ngữ cảnh Việt Nam không. Kết quả thẩm định 06 tiêu 
chí này được thông qua. 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
3.2. DEMATEL 
3.2.1. Thiết lặp ma trận và tính trung bình cộng ma trận 
Nhóm chuyên gia được yêu cầu so sánh cặp các rủi ro với nhau theo thang đánh giá 
mức độ ảnh hưởng như sau: ‘0’ =’ không ảnh hưởng’; ‘1’ = ‘ảnh hưởng rất nhẹ’, ‘2’ = ‘ảnh 
hưởng vừa phải’, ‘3’ = ‘ảnh hưởng mạnh’, ‘4’ = ‘ảnh hưởng rất mạnh’). Ví dụ: Rủi ro A 
không có ảnh hưởng lên rủi ro B là ‘0’; rủi ro B có ảnh hưởng rất ít lên rủi ro A là ‘1’. 
Sau khi nhận được kết quả từ nhóm khảo sát chúng tôi xây dựng ma trận. Với mỗi 
đánh giá của người khảo sát, 1 ma trận vuông n x n được thiết lặp, trong đó n là số biến quan 
sát. Số lượng ma trận bằng số người tham gia khảo sát. 
Ta có kết quả ma trận trung bình như sau: 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
3.2.2. Chuẩn hóa (matrix D) 
Tính toán ma trận quan hệ trực tiếp ban đầu D được chuẩn hóa bằng công thức: D = A 
x S, trong đó, Ta có: 
 (1) 
3.2.3. Xây dựng ma trận quan hệ tổng quát ( Total relation matrix T) 
Tính toán ma trận ảnh hưởng tổng quát (T) bằng công thức: T= D(I-D)-1, I là ma trận 
đơn vị. 
3.2.4. Xây dựng bản đồ quan hệ 
Giả sử r và c là n x 1 và 1 x n vectơ đại diện cho tổng các hàng và tổng các cột của ma 
trận quan hệ T. Ta gọi 
ir là tổng ảnh hưởng bao gồm ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp được 
gây ra bởi nhân tố thứ i; jc là tổng ảnh hưởng, bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp lên nhân tố 
thứ j từ các nhân tố khác. Khi i = j, tổng (
ir + jc ) nói lên mức độ quan trọng của nhân tố i. 
Trong khi đó, hiệu (
ir - jc ) nói lên mối quan hệ nhân quả của các yếu tố. Trường hợp ( ir - jc
) > 0, nhân tố i là nhân tố nguyên nhân (cause); Khi (
ir - jc ) < 0, nhân tố i là nhân tố kết quả 
(effect). 
Bảng 3 
Phân tích tầm quan trọng và xếp hạng của rủi ro 
Rủi ro r + c r – c 
Hàng hóa không thể lưu thông (A) 3.9837 -0.7763 
Thiếu lao động (B) 2.9753 -0.0654 
Giảm thu nhập nông dân (C) 4.1126 -0.4349 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
Rủi ro r + c r – c 
Thay đổi hành vi tiêu dùng (D) 4.0216 0.9266 
Tăng chi phí vận chuyển (E) 3.8625 -0.5267 
Thay đổi chính sách (F) 4.7266 0.8767 
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả 
Kết hợp giá trị ngưỡng tính được (Threshold alpha value) = 0.3289 và Bảng 3 ta có sơ 
đồ quan hệ như sau: 
Hình 1. Bản đồ quan hệ các rủi ro COVID-19 tới chuỗi cung ứng thực phẩm Việt Nam 
Nguồn: Tác giả 
4. Kết quả nghiên cứu 
Kết quả phân tích từ Bảng 3 cho thấy, lo ngại về thay đổi chính sách (F) được quan 
tâm nhiều nhất, kế đến rủi ro giảm thu nhập nông dân (C), thay đổi hành vi tiêu dùng (D), 
hàng hóa không lưu thông (A), tăng chi phí vận chuyển (E) là những rủi ro có mức độ quan 
trọng giảm dần. Trong khi đó vấn đề thiếu lao động vẫn chưa được quan tâm nhiều trong làn 
sóng dịch bệnh COVID. Cũng từ Bảng 3, kết quả chỉ ra rằng rủi ro thay đổi hành vi tiêu dùng 
(D) và khả năng có những thay đổi chính sách (F) là nguyên nhân kéo theo những rủi ro bất 
cập khác, theo đó rủi ro (F) là rủi ro có tác động mạnh nhất đến các rủi ro khác, dẫn đến hậu 
quả chịu tác động mạnh nhất là rủi ro (A)-hàng hóa không thể lưu thông. 
Tuy thay đổi hành vi tiêu dùng (D) và rủi ro thay đổi chính sách (F) là rủi ro “chủ 
động”, Hình 1 cho thấy, việc thay đổi chính sách từ nhà nước ảnh hưởng mạnh hơn, vẫn có 
khả năng ảnh hưởng đến người tiêu dùng thay đổi hành vi, trong khi đó, việc thay đổi chính 
sách hay không (F) vẫn có khả năng chịu sự tác động từ việc nông dân bị giảm thu nhập (C) 
và hành vi người tiêu dùng thay đổi (D). 
5. Kết luận và gợi ý 
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá rủi ro COVID-19 đối với chuỗi cung ứng 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
thực phẩm tại Việt Nam. Kết quả cho thấy lo sợ về thay đổi trong chính sách và rủi ro thay 
đổi hành vi tiêu dùng có ảnh hưởng mạnh và có nguy cơ kéo theo các rủi ro khác. Hướng 
nghiên cứu tiếp theo cần thiết mở rộng mẫu nghiên cứu, phân tích mối liên hệ phức tạp của 
các yếu tố với nhau. Ngoài ra, có nhiều lý do khiến một số quốc gia có thể bị ảnh hưởng nặng 
nề hơn những quốc gia khác. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách của chính phủ có thể là 
lý giải một số khác biệt, do đó cần thiết có những nghiên cứu phản ứng của chính sách trước 
dịch bệnh COVID-19 để có những điều chỉnh phù hợp, cũng như nghiên cứu ảnh hưởng thay 
đổi hành vi người tiêu dùng đối với dịch bệnh đến chính sách là cần thiết cho nghiên cứu tiếp 
theo. 
Tài liệu tham khảo 
Aday, S., & Aday, M. (2020). Impact of COVID-19 on the food supply chain. Food Quality 
and Safety, 4(4), 167-180. 
Ali, M., Suleiman, N., Khalid, N., Tan, K., Tseng, M., & Kumar, M. (2021). Supply chain 
resilience reactive strategies for food SMEs in coping to COVID-19 crisis. Trends in 
Food Science & Technology, 109(3), 94-102. 
Babu, H., Bhardwaj, P., & Agrawal, A. (2020). Modelling the supply chain risk variables using 
ISM: a case study on Indian manufacturing SMEs. Journal of Modelling in Management, 
16(1), 215-239. 
Coluccia, B., Agnusdei, G., Miglietta, P., & De Leo, F. (2021). Effects of COVID-19 on the 
Italian agri-food supply and value chains. Food Control, 123(5), Article 107839. 
Chenarides, L., Manfredo, M., & Richards, T. (2020). COVID‐19 and Food supply chains. 
Applied Economic Perspectives and Policy, 43(1), 270-279. 
Gabus, A., Fontela, E. (1973). Perceptions of the world problematique: Communication 
procedure, communicating with those bearing collective responsibility (DEMATEL 
Report No. 1). Geneva, Switzerland: Battelle Geneva Research Centre. 
Govindan, K., & Chaudhuri, A. (2016). Interrelationships of risks faced by third party logistics 
service providers: A DEMATEL based approach. Transportation Research Part E: 
Logistics and Transportation Review, 90(1), 177-195. 
Hobbs, J. (2020). Food supply chains during the COVID‐19 pandemic. Canadian Journal of 
Agricultural Economics/Revue Canadienne D'agroeconomie, 68(2), 171-176. 
Hoek, R. (2020). Responding to COVID-19 supply chain risks - Insights from supply chain 
change management, total cost of ownership and supplier segmentation theory. Logistics, 
4(4), 1-18. 
Höhler, J., & Lansink, A. (2020). Measuring the impact of COVID‐19 on stock prices and 
profits in the food supply chain. Agribusiness, 37(1), 171-186. 
Kumar, A., & Dixit, G. (2018). An analysis of barriers affecting the implementation of e-waste 
management practices in India: A novel ISM-DEMATEL approach. Sustainable 
Production and Consumption, 14(2), 36-52. 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
Kumar, A., Mangla, S., Kumar, P., & Song, M. (2021). Mitigate risks in perishable food supply 
chains: Learning from COVID-19. Technological Forecasting and Social Change, 
166(5), Article 120643. 
Li, Y., Hu, Y., Zhang, X., Deng, Y., & Mahadevan, S. (2014). An evidential DEMATEL 
method to identify critical success factors in emergency management. Applied Soft 
Computing, 22(11), 504-510. 
Liverpool‐Tasie, L., Reardon, T., & Belton, B. (2020). “Essential non‐essentials”: COVID‐19 
policy missteps in Nigeria rooted in persistent myths about African food supply chains. 
Applied Economic Perspectives and Policy, 43(1), 205-224. 
Mahajan, K., & Tomar, S. (2020). COVID ‐19 and supply chain disruption: Evidence from food 
markets in India. American Journal of Agricultural Economics, 103(1), 35-52. 
Milani, F. (2020). COVID-19 outbreak, social response, and early economic effects: A global 
VAR analysis of cross-country interdependencies. Journal of Population Economics, 
34(1), 223-252. 
Montenegro, L., & Young, M. (2020). Operational challenges in the food industry and supply 
chain during the COVID-19 pandemic: A literature review. In 7th International 
Conference on Frontiers of Industrial Engineering (ICFIE) (pp. 1-5). Singapore: IEEE 
Singapore SENS Chapter and Singapore Section. 
Nguyen, T. (2020). Tác động của đại dịch Covid-19 đến thị trường vận tải biển Việt Nam [The 
impact of the Covid-19 epidemic on the Vietnamese shipping market]. Retrieved January 
15, 2021, from https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tac-dong-cua-dai-dich-
covid19-den-thi-truong-van-tai-bien-viet-nam-329698.html. 
Rahman, C., Sharun, K., Jose, B., & Dhama, K. (2020). COVID-19 and food safety: 
Implications and opportunities to improve the food supply chain. Journal of Experimental 
Biology and Agricultural Sciences, 8(Spl-1-SARS-CoV-2), S34-S41. 
Rizou, M., Galanakis, I., Aldawoud, T., & Galanakis, C. (2020). Safety of foods, food supply 
chain and environment within the COVID-19 pandemic. Trends in Food Science & 
Technology, 102(8), 293-299. 
Singh, S., Kumar, R., Panchal, R., & Tiwari, M. (2020). Impact of COVID-19 on logistics 
systems and disruptions in food supply chain. International Journal of Production 
Research, 59(7), 1-16. 
Sơn Nam (2020). Dịch Covid-19 kéo ngành thức uống giảm, đẩy sản phẩm chăm sóc gia đình 
tăng [Pandemic Covid-19 has led to an reduction in beverages, and promoted home care 
products]. Retrieved January 15, 2021, from https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/dich-
COVID-19-keo-nganh-thuc-uong-giam-day-san-pham-cham-soc-gia-dinh-tang-
1491863982. 
Thilmany, D., Canales, E., Low, S., & Boys, K. (2020). Local food supply chain dynamics and 
resilience during COVID ‐19. Applied Economic Perspectives and Policy, 43(1), 86-104. 
Tran, D. (2020). Tác động của COVID 19: Đứt gãy chuỗi cung ứng nông sản và giải pháp tái 
cơ cấu thị trường [The impact of COVID 19: Breaking the supply chain of agricultural 
products and solutions to restructure the market]. Retrieved January 15, 2021, from 
 Tôn N. T. Hiền, Nguyễn Q. Mai. HCMCOUJS –Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 
https://vaas.vn/tieu-diem-binh-luan/tac-dong-cua-COVID-19-dut-gay-chuoi-cung-ung-
nong-san-va-giai-phap-tai-co-cau. 
Wu, W. (2008). Choosing knowledge management strategies by using a combined ANP and 
DEMATEL approach. Expert Systems with Applications, 35(3), 828-835. 

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_phuong_phap_dematel_danh_gia_rui_ro_covid_19_toi_ch.pdf