Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tự chủ đại học là vấn đề đang nhận được nhiều sự quan tâm của toàn

xã hội và là xu thế tất yếu trong quản trị/quản lý cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam.

Tự chủ sẽ là đòn bẩy giúp các cơ sở giáo dục đại học chuyển mình mạnh mẽ theo

hướng tích cực nhằm đạt mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước

trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong bài

viết này, sau khi làm rõ những vấn đề lí luận về tự chủ đại học, tóm tắt khái quát về

thể chế chủ trương tự chủ trong giáo dục đại học của Việt Nam, tác giả đề xuất những

giải pháp, khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả triển khai tự chủ của các cơ sở giáo

dục đại học công lập ở Việt Nam hiện nay.

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay trang 1

Trang 1

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay trang 2

Trang 2

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay trang 3

Trang 3

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay trang 4

Trang 4

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay trang 5

Trang 5

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 03/01/2022 9780
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay

Vấn đề tự chủ trong giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay
 219 
VẤN ĐỀ TỰ CHỦ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY 
Hoàng Văn Thái 
 Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội 
 Tóm tắt: Tự chủ đại học là vấn đề đang nhận được nhiều sự quan tâm của toàn 
xã hội và là xu thế tất yếu trong quản trị/quản lý cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam. 
Tự chủ sẽ là đòn bẩy giúp các cơ sở giáo dục đại học chuyển mình mạnh mẽ theo 
hướng tích cực nhằm đạt mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước 
trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong bài 
viết này, sau khi làm rõ những vấn đề lí luận về tự chủ đại học, tóm tắt khái quát về 
thể chế chủ trương tự chủ trong giáo dục đại học của Việt Nam, tác giả đề xuất những 
giải pháp, khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả triển khai tự chủ của các cơ sở giáo 
dục đại học công lập ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: Tự chủ đại học; Giáo dục đại học; Cơ sở giáo dục đại học. 
1. Mở đầu 
Đổi mới quản trị/quản lý các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) hướng đến mô 
hình tự chủ là xu hướng phát triển tất yếu của GDĐH Việt Nam trước tác động mạnh 
mẽ của toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 và trong giai đoạn GDĐH thế giới 
đang chuyển mình mạnh mẽ từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng. Tự chủ đại 
học (TCĐH) là điều kiện, bước đi quan trọng để các cơ sở GDĐH đổi mới công tác 
quản trị và phát huy tính chủ động, sáng tạo, thích ứng nhằm hoạt động một cách có 
hiệu quả, gắn kết đào tạo với như cầu của thị trường lao động. 
Tới thời điểm hiện nay, trải qua hơn hai thập kỷ, Đảng và Nhà nước đã ban 
hành nhiều cơ chế, chính sách, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để nhiều cơ sở GDĐH 
trên phạm vi cả nước thí điểm triển khai tự chủ và thực hiện trách nhiệm giải trình. 
TCĐH ở Việt Nam đang được triển khai thực hiện tích cực với việc hoàn thiện và ban 
hành mới nhiều cơ chế, chính sách, hướng dẫn tạo cở sở pháp lí cho tự chủ của các cơ 
sở GDĐH. Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH đã được Quốc 
hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 5 (Luật GDĐH sửa đổi năm 2018) vào ngày 
19/11/2018 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ sẽ có tác 
động lớn tạo ra thay đổi, chuyển biến tích cực trong tiến trình hoàn thiện cơ chế tự chủ 
ở các cơ sở GDĐH tại Việt Nam. 
Để triển khai thực hiện tốt tự chủ trong thực tiễn các cơ sở GDĐH, các nhà 
quản lý các cấp và những người tham gia cần nhận thức đầy đủ, tường minh những 
vấn đề lí luận cơ bản về TCĐH, những vấn đề thể chế liên quan và triển khai đồng bộ 
các giải pháp phù hợp với thực tiễn của cơ sở GDĐH. 
2. Tự chủ đại học 
2.1. Quan niệm về tự chủ đại học 
Trên thế giới hiện đang có nhiều quan niệm khác nhau về TCĐH (University 
autonomy) tùy theo nhận thức về vai tròn của nhà nước đối với GDĐH như [dẫn theo 
Julia Iwinska & Liviu Matei (2014), tr.18-19]: “TCĐH là mức độ tự do của trường đại 
 220 
học trong việc tự điều hành” hoặc “TCĐH là một điều kiện ở đó cơ sở GDĐH quyết 
định cách thức triển khai các công việc của mình” hoặc “TCĐH là sự độc lập trong 
xây dựng chiến lược cho trường đại học và lựa chọn công cụ và phương pháp tiếp cận 
để đạt mục đích đã xác định” hoặc “TCĐH là mức độ tự do của cơ sở GDĐH trong 
việc vận hành các công việc của mình mà không có việc điều hành và ảnh hưởng của 
cơ quan quản lý các cấp”... 
Trong bài viết này, có thể hiểu, TCĐH là mức độ tự do cần thiết đối với các tác 
nhân can thiệp bên ngoài của cơ sở GDĐH trong việc quyết định những công việc 
chính của mình; thể hiện khả năng chủ động của cơ sở GDĐH trong việc xác định và 
lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu, tự quyết định về hoạt động chuyên môn, học 
thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động khác trên cơ sở quy định 
của pháp luật và năng lực của mình. 
2.2. Mục đích tự chủ đại học 
TCĐH giúp các cơ sở GDĐH có điều kiện để hoạt động hiệu quả hơn; nâng cao 
không ngừng chất lượng, hiệu quả và hiệu suất của mình; đáp ứng tốt hơn các quy luật 
giá trị và quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
giúp cho việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta và hội nhập khu vực, thế giới của Việt 
Nam thuận lợi, nhanh và hiệu quả hơn. 
2.3. Các dạng thức tự chủ đại học 
TCĐH có thể phân chia thành hai dạng thức là tự chủ thực chất (substantive 
autonomy) và tự chủ về thủ tục (procedural autonomy). Tự chủ thực chất còn được gọi 
là tự chủ học thuật hay tự chủ chuyên môn là quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH trong 
việc xác định mục tiêu học thuật và chương trình đào tạo, chủ yếu tập trung vào vấn đề 
tuyển sinh và mở các chuyên ngành đào tạo. Các nội dung cơ bản liên quan đến tự chủ 
thực chất như: quyền quyết định về thiết kế chương trình giảng dạy, chính sách nghiên 
cứu khoa học, tiêu chuẩn và quy mô tuyển sinh, cơ chế đảm bảo chất lượng, chính 
sách lương cho giảng viên, chuyên viên nghiên cứu và các mức độ khen thưởng... Tự 
chủ thủ tục thể hiện quyền xác định các phương tiện trong việc thực hiện mục tiêu và 
chương trình đã đặt ra mà không được quyền quyết định các mục tiêu, các phương tiện 
này như là: quyền sở hữu và quản lý tài sản, quyền tự chủ về tài chính (quyền quyết 
đinh chính sách học phí, chính sách huy động vốn, chính sách chi tiêu để đạt mục tiêu, 
thiết kế chính sách lương...) 
2.4. Các thành tố của tự chủ đại học 
Theo Hiệp hội các trường đại học châu Âu (European University Association – 
EUA), TCĐH được quan tâm chủ yếu ở bốn cấu phần [5]: Tự chủ về mặt tổ chức; tự 
chủ về tài chính, tự chủ về mặt nhân sự và tự chủ về hoạt động học thuật. 
- Tự chủ về mặt tổ chức (Organisational autonomy): Về bản chất, đó là sự chủ 
động về cách thức quản lí nguồn lực bên trong của cơ sở GDĐH nhằm mục tiêu phát 
triển; hiểu khác đi chính là khả năng của các cơ sở GDĐH trong việc tự đưa ra các 
quyết định liên quan đến cơ cấu tổ chức nội bộ và quy trình ra quyết định, như đội ngũ 
lãnh đạo, các bộ phận có quyền đưa ra quyết định, tư cách pháp nhân và cơ cấu tổ 
chức nội bộ. 
- Tự chủ về tài chính (Financial autonomy): là khả năng của các cơ sở GDĐH 
trong việc tự đưa ra các quyết định liên quan đến tài chính chi tiêu nội bộ hay chính là 
sự tự do của cơ sở GDĐH trong sử dụng các nguồn lực tài chính theo chiến lược ưu 
 221 
tiên lựa chọn, bao gồm các vấn đề tài chính như: phân bổ kinh phí, cung cấp tài chính 
tự nguyện, vận hành tài chính và trách nhiệm giải trình. Về bản chất, đó là sự chủ động 
về việc đảm bảo các nguồn lực bên trong phục vụ các hoạt động đào tạo và nghiên cứu 
khoa học của cơ sở GDĐH. 
- Tự chủ về mặt nhân sự (Staffing autonomy) đề cập đến khả năng của cơ sở 
GDĐH trong việc tự quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý nguồn nhân lực, bao 
gồm việc tuyển chọn nhân sự, mức tiền lương, sa thải và thăng tiến trong nghề nghiệp. 
- Tự chủ về hoạt động học thuật (Academic autonomy) đề cập đến khả năng của 
cơ sở GDĐH trong việc tự quyết định các vấn đề liên quan đến nội dung học thuật, 
nghiên cứu, giảng dạy như tuyển chọn, thu nhận sinh viên, nội dung giảng dạy, đảm 
bảo chất lượng giảng dạy, đưa ra các chương trình đào tạo và ngôn ngữ giảng dạy 
trong cơ sở GDĐH. 
3. Khái quát pháp luật về tự chủ trong giáo dục đại học ở Việt Nam 
Thực hiện chủ trương đổi mới GDĐH, một số văn bản chính thức được ban 
hành đã tạo hành lang pháp lý cho TCĐH và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH. 
Có thể kể đến các văn bản tiêu biểu là: 
 - Luật Giáo dục năm 1998 (Luật số 11/1998/QH10) đánh dấu sự chuyển biến 
tích cực trong nhận thức của các cấp quản lí về TCĐH bằng sự ghi nhận quyền tự chủ 
và tự chịu trách nhiệm của trường cao đẳng, trường đại học. 
 - Luật Giáo dục năm 2005 (Luật số 38/2005/QH11) xác lập quyền tự chủ và 
trách nhiệm xã hội của cơ sở GDĐH, ghi nhận quyền tự chủ của trường đại học với 
nội dung tương tự quan niệm của các nước phát triển, thể hiện tập trung ở những quy 
định về thực hiện phân công, phân cấp quản lí giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự 
chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục; khẳng định Nhà nước sẽ tăng cường quyền tự 
chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục. 
- Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ chính thức trao 
quyền tự chủ về tài chính cho các trường đại học. 
- Luật GDĐH năm 2012 (có hiệu lực năm 2013) quy định về quyền tự chủ cho 
các trường đại học. 
- Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/06/2014 của Chính phủ về Chương trình 
hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm 
đó là “Đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở 
GDĐH”. 
- Mới đây nhất, Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 và Nghị định số 99/2019/NĐ-
CP đã có nhiều quy định mới về nhiều vấn đề liên quan đến tự chủ và trách nhiệm giải 
trình của các cơ sở GDĐH. Trong đó, tại Điều 32 của Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 
và Điều 13 của Nghị định số 99/2019/NĐ-CP đã quy định rõ các điều kiện để thực 
hiện quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH, nội hàm quyền tự chủ học thuật và hoạt động 
chuyên môn, tự chủ về tổ chức và bộ máy nhân sự, tự chủ về tài chính và tài sản, trách 
nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH Việt Nam. 
Nhìn chung, thông qua các quy định văn bản pháp luật liên quan đến TCĐH 
được đề cập cho thấy, Đảng và Nhà nước đã chú trọng và cố gắng tạo ra hành lang 
pháp lí cho quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH. TCĐH trên các văn bản pháp lí đã có 
những thay đổi theo hướng các cơ sở GDĐH ngày càng được giao nhiều quyền hơn. 
 222 
Quá trình hoàn thiện quyền tự chủ cho thấy chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà 
nước, vừa khẳng định vừa tăng quyền tự chủ cũng như sự chuyển biến trong nhận thức 
về vấn đề trao quyền cho các cơ sở GDĐH từ rất e ngại đến thừa nhận chính thức về 
mặt pháp lí; góp phần đưa hệ thống GDĐH Việt Nam bước ra khỏi thời kì khó khăn và 
đem lại nhiều thành tựu mới. Mặc dù nhận thức pháp lí về tự chủ có bước tiến nhưng 
còn thiếu triệt để, phần nào còn thiếu nhất quán và sự đồng bộ trong các chủ trương 
chính sách. Lý do căn bản cho sự chưa đồng bộ và tình trạng còn thiếu nhiều văn bản 
quản lý điều hành trong thực hiện TCĐH ở Việt Nam là chưa có đủ cơ sở khoa học 
cũng như thực tiễn làm căn cứ cho việc xây dựng hệ thống văn bản này. Thực tế cho 
thấy, việc triển khai TCĐH đang gặp mâu thuẫn, bất cập giữa một bên là những điều 
kiện biên với một bên là những điều kiện thực tế. 
4. Đề xuất khuyến nghị, giải pháp 
Để góp phần nâng cao hiệu quả triển khai tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình 
trong các cơ sở GDĐH hiện nay, cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp ở cả cấp 
độ vĩ mô và cấp độ vi mô. Trong nội dung bài viết, tác giả xin đề xuất một số khuyến 
nghị, giải pháp sau: 
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, bổ sung và điều chỉnh các văn bản pháp luật về tự 
chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH. Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 và 
Nghị định 99/2019/NĐ-CP đã có những bước tiến đáng kể về pháp luật liên quan đến 
TCĐH và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH. Tuy nhiên, hệ thống văn bản hướng 
dẫn triển khai chưa được cụ thể, chưa phù hợp với đặc điểm của từng nhóm cơ sở 
GDĐH (định hướng nghiên cứu và định hướng ứng dụng); hệ thống tiêu chuẩn đánh 
giá năng lực tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH Việt Nam hiện nay 
chưa có. Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 đã quy định chức năng của Hội đồng trường là 
giám sát trách nhiệm giải trình của hiệu trưởng trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn 
của mình. Tuy nhiên, hiện nay không có quy định và hướng dẫn liên quan đến quyền 
lợi của từng thành viên hội đồng cho phù hợp với văn hóa Việt Nam. Cần có những 
văn bản pháp luật và hướng dẫn cụ thể hơn nữa về tự chủ học thuật xác định quyền 
quyết định những vấn đề được nghiên cứu, giảng dạy và cách thức triển khai của cơ sở 
GDĐH. 
Thứ hai, đẩy mạnh công tác truyền thông nội bộ và đổi mới, nâng cao nhận 
thức cho đội ngũ. Vấn đề truyền thông nội bộ đóng vai trò quan trọng giúp các thành 
viên (cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên, sinh viên...) hiểu rõ, hiểu đúng về đổi mới 
hoạt động của cơ sở GDĐH theo hướng tự chủ, từ đó mỗi thành viên hình thành thái 
độ tích cực, quan điểm phù hợp với các hoạt động theo hướng tự chủ. Các cơ sở 
GDĐH cần tổ chức nâng cao nhận thức cho đội ngũ để tư tưởng tự chủ là tư tưởng chủ 
đạo trong hoạt động chuyên môn của từng đơn vị, từng cá nhân; hình thành nhận thức 
sâu sắc, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo hướng tự chủ là xu thế chung của nhiều 
nước trên thế giới; giúp phân biệt cơ chế hoạt động theo hướng tự chủ và không theo 
hướng tự chủ. Để thực hiện giải pháp này, mỗi cơ sở GDĐH cần tăng cường tổ chức 
quảng bá, công khai minh bạch thông tin về các hoạt động trên website song ngữ Việt 
– Anh của cơ sở mình; tăng cường tổ chức tập huấn, trao đổi, thảo luận cho các thành 
viên của cơ sở GDĐH tại các buổi sinh hoạt chuyên môn ở đơn vị, sinh hoạt tập thể ở 
mỗi tổ chức đoàn thể; lãnh đạo cơ sở GDĐH, các đơn vị, khoa trực thuộc cần tăng 
cường động viên các thành viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tăng cường sử dụng 
công nghệ thông tin, công nghệ số và mạng internet trong nâng cao chất lượng thực 
hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình. 
 223 
Thứ ba, đổi mới, nâng cao năng lực quản trị cơ sở GDĐH theo hướng tự chủ. 
Thực tiễn hiện nay ở các cơ sở GDĐH cho thấy, phần lớn đội ngũ lãnh đạo, quản lý và 
thành viên của cơ sở là những nhà chuyên môn. Do đó, kiến thức và kỹ năng quản trị 
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm mang nặng dấu ấn của phong cách quản lý không theo 
hướng tự chủ và trách nhiệm giải trình. Để triển khai hiệu quả tự chủ, mỗi cơ sở 
GDĐH cần xây dựng đội ngũ viên chức lãnh đạo, quản lý có phẩm chất đạo đức đủ về 
số lượng và có chất lượng; cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá năng 
lực thực hiện nhiện nhiệm vụ phù hợp với từng đơn vị chuyên môn trực thuộc, chú 
trọng vào sự tự chủ và chịu trách nhiệm của mọi thành viên trong đơn vị. Các cơ sở 
GDĐH cần tăng cường nghiên cứu áp dụng mô hình quản trị đồng cấp (quản lý 
ngang), ở đó các đơn vị trực thuộc cùng nhau xây dựng các bộ tiêu chuẩn chất lượng 
để tạo sự đồng thuận trên mọi hoạt động của cơ sở GDĐH. 
Thứ tư, tăng cường triển khai hoạt động đảm bảo chất lượng nội bộ và xây 
dựng văn hóa tự chủ. Thực hiện tốt công tác đảm bảo chất lượng nội bộ là nền tảng 
quan trọng của hoạt động quản trị trong cơ sở GDĐH một cách chủ động, bền vững và 
nâng cao năng lực sáng tạo, thích ứng với những thay đổi trong thực tiễn của mọi 
thành viên trong cơ sở GDĐH. Xây dựng văn hóa tự chủ thực chất là việc xây dựng 
văn hóa chất lượng phù hợp đặc trưng ở mỗi một cơ sở GDĐH, theo đó, mọi thành 
viên của cơ sở GDĐH (từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên, nhân viên, sinh viên, 
học viên...) đều biết rõ công việc của mình và các công việc liên quan đến công việc 
của mình đảm nhiệm thế nào là có chất lượng. Từ đó, mỗi thành viên mới chủ động 
thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu chất lượng ấy và đây được coi là một trong những 
minh chứng quan trọng cho việc triển khai tự chủ đầy đủ nhất của một cơ sở GDĐH. 
Thứ năm, nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát và tăng cường kiểm định chất 
lượng. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm 
tra, giám sát việc triển khai tự chủ tại các cơ sở GDĐH; xử lý nghiêm những cơ sở 
GDĐH không đảm bảo đủ điều kiện chất lượng theo quy định; cần mạnh tay xử lý 
những cơ sở GDĐH có vi phạm, vi phạm kéo dài, không khắc phục những vi phạm đã 
được chỉ ra bằng việc đình chỉ tuyển sinh, cắt giảm chỉ tiêu tuyển sinh, có thể đình chỉ 
hoạt động. Cơ quan quản lý cần tăng cường và nâng cao hiệu quả kiểm định chất 
lượng giáo dục, phân tầng, xếp hạng cơ sở GDĐH trong nước; kiểm tra, giám sát 
thường xuyên việc công khai minh bạch các thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng 
và chất lượng đào tạo của các cơ sở GDĐH đã được giao quyền tự chủ. 
5. Kết luận 
Tăng cường TCĐH là một yêu cầu quan trọng đầu tiên trong quá trình đổi mới 
GDĐH trên thế giới. Tự chủ là một thuộc tính vốn có của mỗi cơ sở GDĐH. Tăng 
cường tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của mỗi cơ sở GDĐH Việt Nam trong giai 
đoạn hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa và 
hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Nhìn chung, các văn bản pháp luật liên quan đến 
TCĐH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện, có những bước tiến theo hướng tháo gỡ 
khó khăn cho các cơ sở GDĐH. Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 và Nghị định 
99/2019/NĐ-CP đã tạo một hành lang pháp lý tương đối phù hợp về vấn đề TCĐH gắn 
với trách nhiệm giải trình. Việc vận dụng phù hợp pháp luật liên quan đến tự chủ cập 
nhật nhất của Việt Nam và triển khai đồng bộ các khuyến nghị, giải pháp được bài viết 
đề xuất sẽ có tác động tạo ra thay đổi, chuyển biến tích cực, nâng cao hiệu quả trong 
tiến triển khai TCĐH, giúp các cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ một cách rộng 
rãi, hiệu quả trên cơ sở tận dụng tốt các nguồn lực do nhà nước đầu tư ban đầu, phát 
 224 
huy nội lực, tinh thần chủ động, sáng tạo, sự hợp tác toàn diện để nâng cao chất lượng 
đào tạo nguồn nhân lực, hội nhập quốc tế theo tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện 
giáo dục của đất nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bùi Minh Hiền - Nguyễn Vũ Bích Hiền đồng chủ biên (2019), Quản lý và lãnh 
đạo nhà trường, NXB ĐHSP. 
[2] Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2019), Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 
30/12/2019 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều 
của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. 
[3] Đỗ Thị Minh (2018), Cơ chế quản trị đại học tự chủ và yêu cầu hoàn thiện pháp 
luật tự chủ đại học ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, 
Số 4 (2018). 
[4] Quốc hội nước CHXHCNVN (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật 
Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018). 
[5] Enora Bennetot Pruvot & Thomas Estermann (2017), University autonomy in 
Europe III - The scorecard 2017, Copyright © European University Association 
2017. 
[6] Julia Iwinska & Liviu Matei (2014), University autonomy – A practical handbook, 
Central European University, Budapest, Hungary. Assessed online at: 
https://elkanacenter.ceu.edu/sites/elkanacenter.ceu.edu/files/attachment/basicpage/
57/autonomyhandbook.pdf 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_tu_chu_trong_giao_duc_dai_hoc_viet_nam_hien_nay.pdf