Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách

Đến cuối năm 2017, dư nợ công đã lên đến 3,1 triệu tỉ đồng; gấp 2,2 lần so với cuối năm 2011

(1,393 triệu tỉ đồng). Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam những năm gần đây đang có xu hướng tăng

nhanh, đặc biệt kể từ năm 2011. Cụ thể, chỉ trong vòng 05 năm từ năm 2011 đến năm 2015, tỉ

lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng khoảng 12,2 điểm phần trăm, từ 50% lên đến 62,2%. Mặc

dù, Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ để kiểm soát gia tăng nợ công quá mức.

Nhưng thực tế kết quả đạt được không như mong đợi và có xu hướng càng xấu hơn. Với chiều

hướng gia tăng quy mô và tính rủi ro của nợ công như hiện nay, việc dự báo xu thế nợ công là rất

cần thiết, để từ đó đưa ra gợi ý chính sách về quản lý nợ công.

Chính vì vậy, trong nghiên cứu tác giả đã tác giả đã phân tích thực trạng thâm hụt ngân sách và

nợ công Việt Nam. Từ đó, sử dụng mô hình động Cechetti, Mohanty và Zampolli (2010) để dự báo

xu hướng nợ công của Việt Nam tới năm 2030, theo 3 kịch bản: Kịch bản cơ bản là không có sự cải

thiện về cán cân ngân sách cơ bản, Kịch bản cơ bản là không có sự cải thiện về cán cân ngân sách

cơ bản, Kịch bản xấu là thâm hụt ngân sách cơ bản ở mức cao. Từ đó, đưa ra hàm ý chính sách về

quản lý nợ công nhằm hướng tới mục tiêu tăng tính bền vững của nợ công tại Việt Nam.

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 1

Trang 1

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 2

Trang 2

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 3

Trang 3

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 4

Trang 4

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 5

Trang 5

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 6

Trang 6

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 7

Trang 7

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 8

Trang 8

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 9

Trang 9

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 9540
Bạn đang xem tài liệu "Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách

Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):963-972
Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu
Trường Đại học Kinh tế- Luật,
ĐHQG-HCM
Liên hệ
Đinh Hoàng Tường Vi, Trường Đại học Kinh
tế- Luật, ĐHQG-HCM
Email: vidht@uel.edu.vn
Lịch sử
 Ngày nhận: 17/9/2019
 Ngày chấp nhận: 5/5/2020
 Ngày đăng: 30/9/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i3.668
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách
Đinh Hoàng Tường Vi*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Đến cuối năm 2017, dư nợ công đã lên đến 3,1 triệu tỉ đồng; gấp 2,2 lần so với cuối năm 2011
(1,393 triệu tỉ đồng). Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam những năm gần đây đang có xu hướng tăng
nhanh, đặc biệt kể từ năm 2011. Cụ thể, chỉ trong vòng 05 năm từ năm 2011 đến năm 2015, tỉ
lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng khoảng 12,2 điểm phần trăm, từ 50% lên đến 62,2%. Mặc
dù, Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ để kiểm soát gia tăng nợ công quá mức.
Nhưng thực tế kết quả đạt được không như mong đợi và có xu hướng càng xấu hơn. Với chiều
hướng gia tăng quy mô và tính rủi ro của nợ công như hiện nay, việc dự báo xu thế nợ công là rất
cần thiết, để từ đó đưa ra gợi ý chính sách về quản lý nợ công.
Chính vì vậy, trong nghiên cứu tác giả đã tác giả đã phân tích thực trạng thâm hụt ngân sách và
nợ công Việt Nam. Từ đó, sử dụng mô hình động Cechetti, Mohanty và Zampolli (2010) để dự báo
xu hướng nợ công của Việt Nam tới năm 2030, theo 3 kịch bản: Kịch bản cơ bản là không có sự cải
thiện về cán cân ngân sách cơ bản, Kịch bản cơ bản là không có sự cải thiện về cán cân ngân sách
cơ bản, Kịch bản xấu là thâm hụt ngân sách cơ bản ở mức cao. Từ đó, đưa ra hàm ý chính sách về
quản lý nợ công nhằm hướng tới mục tiêu tăng tính bền vững của nợ công tại Việt Nam.
Từ khoá: Nợ công, mô hình động, dự báo xu thế nợ công, quản lý nợ công
GIỚI THIỆU
Nền kinh tế Việt Nam kể từ sau khủng hoảng kinh
tế Thế giới được đặc trưng bởi 2 bất cập lớn: Thứ
nhất là bội chi ngân sách kéo dài, đạt mức cao nhất
là 6,9% vào năm 2009 do việc đưa ra gói kích cầu đầy
tham vọng. Và tiếp sau đó, thâm hụt ngân sách luôn
ởmức trung bình vào khoảng 5% vào giai đoạn 2010-
2016 (thâm hụt ngân sách cơ bản năm 2017 ở mức
3,48%GDP và năm 2018 ở mức 3,67% GDPa). Thứ
hai là tăng trưởng theo chiều rộng, dựa trên khai thác
tài nguyên và lao động giản đơn, đã đạt đến ngưỡng
tới hạn, khiến cho tốc độ tăng trưởng bị chững lại.
Mức tăng trưởngGDPđạt 5,32% vào năm2009 –mức
thấp nhất kể từ 10 năm trước đó. Tiếp sau, tốc độ
tăng trưởng trung bình củaGDP chỉ vào khoảng 5,9%
trong suốt giai đoạn 2010 - 2015 và khoảng 6,7% vào
giai đoạn 2016-2018 thay vì 7% như kỳ vọng. Thâm
hụt ngân sách cao và kéo dài, đi kèm với tốc độ tăng
trưởng bị chững lại, đã làm cho tỷ lệ nợ công trênGDP
nhảy vọt từ 42,9% vào năm 2008 lên 52,6 % vào năm
2009. Tiếp sau đó, nợ công trên GDP tiếp tục tăng
nhanh, đạt 54,9% vào 2011; 63,7% vào năm 2016 áp
sát ngưỡng trần là 65%mà Quốc hội đặt ra và hai gần
năm gần đây nợ công trên GDPmới giảm đi đôi chút,
aTừ năm 2017, thống kê thâm hụt ngân sách không bao gồm chi
trả nợ gốc năm, 
-duoi-goc-nhin-chuyen-gia-phan-tich-20190205085543234.chn
nợ công trên GDP năm 2017 là 61,3%, năm 2018 là
58,4%.
Một điều rõ ràng là nếu bội chi ngân sách tiếp tục kéo
dài, cộng với đà tăng trưởng bị chững lại, thì việc đưa
ra trần nợ công là rất ít có ý nghĩa, vì nợ công trên
GDP sẽ tiếp tục tăng. Do vậy, việc phân tích nguyên
nhân làm nợ công tăng và dự báo xu thế nợ công là
rất cần thiết, để từ đó đưa ra gợi ý chính sách về quản
lý nợ công. Nhằm mục đích đó, bài viết sẽ sử dụng
mô hình động để dự báo xu hướng nợ công của Việt
Nam tới năm 2030, theo một số kịch bản. Cuối cùng
là hàm ý chính sách về quản lý nợ công nhằm hướng
tới mục tiêu tăng tính bền vững của nợ công tại Việt
Nam.
TỔNGQUANNGHIÊN CỨU
Khung chung cho dự báo nợ công đều dựa trên Cec-
chetti, Mohanty và Zampolli (2010). Trong nghiên
cứu của mình, các tác giả trình bày mô hình dự báo
xu hướng nợ công của các nước OECD. Nhóm tác giả
chỉ ra rằng, sau khủng hoảng 2008, tỷ lệ nợ trên GDP
của OECD đã vượt quá 100%. Đi kèm theo đó là mức
độ già hóa rất nhanh của dân số, đặt ra nghĩa vụ phát
sinh (contingent liability) rất lớn trong tương lai. Câu
hỏi đặt ra là khi nào thì nợ công sẽ gây áp lực lên chính
phủ1.
Tiếp đến, các tác giả làm dự báo xu thế nợ công cho
triển vọng 30 năm tới. Họ chọn tầm nhìn 30 năm để
Trích dẫn bài báo này: Vi D H T. Tương lai nợ công Việt Nam: Triển vọng và hàm ý chính sách . Sci.
Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(3):963-972.
963
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):963-972
hàm chứa được chi phí hay nghĩa vụ phải trả trong
tương lai, liên quan đến sự già hóa dân số. Trong
kịch bản chính, nhóm t ...  là phương trình (1),
nhưng các biến được biểu diễn dưới dạng tỷ lệ% so với
GDP danh nghĩa. Vì vậy, thay việc viết các biến bằng
chữ in, ta viết chúng bằng chữ nhỏ. Đặt wt = gt  tt
là tỷ lệ % thâm hụt ngân sách cơ bản so với GDP vào
năm t; ta có thể viết (2) gọn lại như sau:
dt dt1 =

wt +brtdt1 (3)
Theo phương trình (3), sự gia tăng tỷ trọng nợ công
trên GDP, dt dt1, là do thâm hụt ngân sách cơ bản
so với GDP, wt , cộng với chi trả lãi nợ gốc, brtdt1.
Lưu ý
brt = it +1
(1+pt)(1+ gt)
1 it pt  gt
Từ phương trình (3), chúng ta thấy rằng,
1. Thâm hụt ngân sách cơ bản so với GDP, wt =
gt  tt , làm tăng tỷ lệ nợ công trên GDP: wt >
0) dt dt1 > 0.
2. Lãi suất danh nghĩa của các khoản nợ, it , làm
tăng chi trả lãi nợ gốc, nên cũng làm tăng tỷ lệ
nợ công trên GDP.
3. Tăng trưởng kinh tế thực, gt , làm tăngGDP thực
tế cũng như danh nghĩa, do đó, nó làm giảm tỷ
lệ nợ công trên GDP.
4. Lạm phát, pt , làm tăng GDP danh nghĩa. Do đó,
nó cũng làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP. Kết
luận này đòi hỏimột điều kiện quan trọng là lạm
phát phải xấp xỉ với lạm phat quốc tế, khiển cho
tỷ giá giao động quanh một ngưỡng ổn định. Vì
vậy, lạm phát sẽ không kéo theo sự mất giá của
đồng nội tệ, nên không làm tăng gánh nặng nợ
công nước ngoài. Dữ liệu thực nghiệm cho thấy
giả thuyết này đúng cho điều kiện kinh tế của
Việt nam, do tỷ giá đồng dollar so với VND khá
ổn định trong nhiều năm.
Như vậy, tăng trưởng cao đi kèm với lạm phát có kiểm
soát (ngang bằng với lạm phát quốc tế) sẽ giúp giảm
tỷ trọng nợ công trên GDP. Trong khi thâm hụt ngân
sách cơ bản và lãi suất danh nghĩa của nợ làm tăng tỷ
trọng nợ trên GDP. Sự tương tác giữa các yếu tố này
sẽ quyết định nợ công trên GDP tăng hay giảm. Dựa
trên nhận định đó, ta có thể chia ra hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu các yếu tố làm giảm tỷ trọng nợ trên
GDP trội hơn các yếu tố làm tăng tỷ trọng nợ trên
GDP, thì ta sẽ chứng kiến một sự giảm xuống của tỷ
trọng nợ công trên GDP. Cụ thể là tăng trưởng cao,
thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP thấp có thể làm
giảm tỷ trọng nợ trên GDP. Đây là tình huống xẩy ra
với kịch bản lạc quan, có mức tăng trường cao, gt =
6:5%, và tỷ trọng thâmhụt ngân sách cơ bản trênGDP
là 3% vào 2016, được cắt giảm thấp dần, trung bình là
0,1 điểm % / năm, trong suốt giai đoạn 2017 – 2030.
Thứhai, nếu các yếu tố làmgiảm tỷ trọng nợ trênGDP
có tác động yếu hơn các yếu tố làm tăng tỷ trọng nợ
trên GDP, thì ta sẽ chứng kiến một sự gia tăng của tỷ
trọng nợ công trên GDP. Cụ thể là tăng trưởng thấp,
thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP cao sẽ làm tăng
tỷ trọng nợ trên GDP. Đây là tình huống xẩy ra với 2
kịch bản cơ bản và xấu, có mức tăng trường gt = 6%,
và tỷ trọng thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP cao,
là 3% và 4%.
969
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):963-972
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU
Dựa trên các dự báo này, chúng ta có thể nói gì về
mục tiêu của chính phủ nhằm đưa nợ công trên GDP
về ngưỡng dưới 65% vào năm 2020 và 60% vào năm
2030?
Theo kịch bản cơ bản, mà nó là điều dễ xẩy ra nhất,
thì tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng trung bình 6%
năm và thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP là 3%
năm. Khi đó, nợ công trênGDP xấp xỉ 65,5% vào năm
2020. Nếu cho rằng, tăng trưởng trung bình là cao
hơn, khoảng 6,5% năm, thì đến năm 2020, nợ công
trên GDP sẽ là 65%, ngay mức trần nợ công mà Quốc
hội đề ra. Hơn thế nữa, nợ công sẽ tiếp tục tăng, đạt
ngưỡng 67% GDP vào năm 2030. Nếu tăng trưởng
chỉ vào khoảng 6% năm, thi vào năm 2030, tỷ lệ nợ
công trên GDP sẽ là trên 69%. Tức là mục tiêu giảm
tỷ trọng nợ công trên GDP xuống 60% vào năm 2030
là không đạt được.
Tình hình sẽ tồi hơn với kịch bản xấu, khi tăng trưởng
là 6% năm và thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP về
trung bình là 4% năm. Theo kịch bản này, nợ công
trên GDP đến năm 2020 sẽ là 66,5%, thay vì 65,5%
như kịch bản cơ bản. Cũng giống như kịch bản cơ
bản, nợ công sẽ tiếp tục tăng, đạt 78,5%GDP vào năm
2030. Như vậy, thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP
chỉ tăng thêm có 1% so với kịch bản cơ bản, thì đã
làm tình hình nợ công xấu đi nhiều trong triển vọng
dài hạn. Điều đó nói lên rằng tỷ lệ nợ công trên GDP
rất nhậy cảm với mức thâm hụt ngân sách cơ bản trên
GDP.
Cuối cùng, theo kịch bản lạc quan, tăng trưởng trung
bình trong dài hạn là 6,5% năm. Thâm hụt cán cân
ngân sách cơ bản trên GDP là 3% vào năm 2019. Và
mỗi năm từ 2020 đến 2030, về trung bình thâm hụt
ngân sách cơ bản trên GDP được cắt giảm 0,1 điểm
phần trăm / một năm. Như vậy là đến 2020, thâm
hụt ngân sách cơ bản trên GDP sẽ là 2,9% và đến năm
2030 con số đó là 1,9%. Lạm phát vẫn giữ là 5% và lãi
suất danh nghĩa là 7%. Theo kịch bản này, các nhân
tố làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, như tăng trưởng
và lạm phát có kiểm soát, dần dần chiếm ưu thế so
với các nhân tố làm tăng tỷ lệ nợ công trên GDP là
lãi suất vay nợ và thâm hụt cơ sách cơ bản. Nhân tố
cốt yếu tạo ra xu thế này là sự giảm dần của thâm hụt
ngân sách cơ bản theo thời gian. Hệ quả là nợ công
vẫn tăng nhẹ ở thời kỳ đầu, nhưng sau đó là giảm dần
trong triển vọng trung và dài hạn. Theo kịch bản này,
đến năm 2020, tỷ lệ nợ công trên GDP là 65%; và đến
năm2030, tỷ lệ nợ công trênGDP chỉ còn là 61%, vượt
ngưỡng 60% theo mục tiêu của chính phủ đề ra. Mặc
dù, không đạt đực mục tiêu chính phủ đề ra, nhưng
với kịch bản này về dài hạn nợ công Việt Nam sẽ được
giảm dần.
Sở dĩ chúng ta gọi đây là kịch bản lạc quan, vì các tham
số vĩ mô như tăng trưởng đạt 6,5%, lạm phát 5%, lãi
suất danh nghĩa của nợ vào khoảng 7% là hoàn toàn
khả thi. Toàn bộ vấn đề chỉ còn lệ thuộc vào nỗ lực cắt
giảm thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP từ khoảng
3% vào năm 2019 xuống 2,9% vào năm 2020 và 1,9%
vào năm 2030. Mỗi năm trung bình cắt giảm được
0,1 điểm phần trăm. Một quá trình cắt giảm thâm hụt
ngân sách cơ bản như vậy đòi hỏi nỗ lực rất lớn và bền
bỉ của chính phủ Việt Nam trong cải cách ngân sách,
đi kèm với tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng hiệu
quả, và tinh gọn bộ máy quản lý nhằm giảm chi tiêu
công. Hệ quả là có tăng trưởng bền vững, đi kèm với
sự cải thiện về cán cân ngân sách. Nếu có được thành
tựu như vậy, thì triển vọng kinh tế của Việt Nam là rất
lạc quan.
Nói gọn lại, chúng ta đưa ra 3 kịch bản. Kịch bản cơ
bản là dễ xẩy ra nhất, theo như các dữ liệu vĩ mô được
cung cấp bởi MoF. Nó cho chúng ta thấy một bức
tranh chung về nợ công Việt Nam cho đến 2030, theo
đó, mục tiêu cắt giảm nợ công xuống dưới 65% GDP
vào năm 2020 và xuống 60% GDP vào năm 2030 là
không đạt được. Mục tiêu này chỉ có thể đạt được khi
có sự cải thiện liên tục về cán cân ngân sách cơ bản,
như chỉ ra ở kịch bản lạc quan. Vậy nên, kịch bản lạc
quan phục vụ như việc đưa ra điều kiện cần thiết để
có thể đạt được mục tiêu quản lý nợ công theo hướng
bền vững của chính phủ. Kịch bản xấu, mặt khác lại
đưa ra lời cảnh tỉnh về tình trạng nợ công. Nếu thâm
hụt ngân sách cơ bản tiếp tục ở mức cao là 4%, thì nợ
công sẽ đạt ngưỡng nguy hiểm, 66,5% GDP vào 2020
và trên 78,5% GDP vào 2030. Dĩ nhiên, nếu thâm hụt
ngân sách cơ bản là 5% hoặc cao hơn nữa, thì khủng
hoảng nợ công trong triển vọng dài hạn là khó tránh
khỏi.
Theo báo cáo của Nguyễn Xuân Thành và Đỗ Thiên
Anh Tuấn (2017)7, nợ của chính phủ không chỉ dùng
cho bù đắp bội chi ngân sách, mà còn dùng để thực
hiện các chương trình đầu tư theo trái phiếu và đảo
nợ. Họ đưa ra ví dụ là vào năm 2016, dự toán bội chi
ngân sách là 254.000 tỷ đồng, nhưng số tiền chính phủ
vay lên đến 409.000 tỷ đồng, gấp 1,6 lần bội chi ngân
sách và tương đương 10% GDP. Tổng số tiền chính
phủ vay nợ trong năm 2015 còn lớn hơn, lên đến 11%
GDP. Như vậy, nợ công của Việt Nam tăng cao, không
chỉ do yêu cầu phải bù đắp bội chi ngân sách, mà còn
do phải tài trợ cho các hoạt động đầu tư ngoài ngân
sách, mà chính những khoản đầu tư này cũng mang
tính chất chi ngân sách. Theo nghĩa, chúng nên được
đưa vào trong tính toán thu – chi ngân sách. Và nếu
vậy, thì bội chi ngân sách cơ bản sẽ không dừng lại ở
con số 3% hay 4%, mà sẽ còn cao hơn. Tức là, nếu
hợp nhất các khoản đầu tư ngoài ngân sách vào trong
970
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):963-972
ngân sách thì kịch bản xấu (hoặc xấu hơn) là có khả
năng xẩy ra nhiều nhất. Hệ quả là, tỷ trọng nợ công
trên GDP sẽ khó được kiểm soát trong dài hạn.
KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN
Sự gia tăng nợ công là hệ quả của việc tích tụ các
khoản thâm hụt ngân sách trong quá khứ và hiện tại.
Vì vậy, đưa nợ công về trạng thái bến vững bao hàm
việc giảm thâm hụt ngân sách, đi kèm với tăng trưởng
bền vững trong dài hạn.
Việc giảm thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP bao
hàm việc tăng tỷ lệ thu ngân sách trên GDP và cắt
giảm tỷ lệ chi tiêu công trên GDP. Trong điều kiện
Việt nam, tỷ lệ thu thuế và phí nằm ở ngưỡng cao so
với các nước trong khu vực. Do vậy, việc tăng tỷ lệ
thu thuế trên GDP chỉ có thể thực hiện bằng cách mở
rộng nguồn thu, chống trốn thuế và gian lận thuế. Cải
cách thuế phải tập trung vào việc mở rộng các nguồn
thu bền vững.
Việc thu hẹp thâmhụt ngân sách dựa trên cắt giảm chi
tiêu công là điều phải làm khi nguồn thu ngân sách bị
giới hạn. Tuy nhiên, cắt giảm chi tiêu công chỉ có thể
thực hiện được, nếu có sự cải thiện về hiệu quả đầu
tư công và tinh gọn bộ máy quản lý hành chính công.
Nếu trong nền kinh tế có sự suy giảm về hiệu quả đầu
tư công (ICOR tăng), thì việc tái cấu trúc nền kinh tế,
nâng cao hiệu quả đầu tư, là đòi hỏi bắt buộc. Việc
làm tinh gọn khu vực kinh tế - hành chính công cũng
cho phép cắt giảm chi tiêu thường xuyên. Do vậy, nó
cũng giúp vào việc cải thiện cán cân ngân sách theo
hướng bền vững. Cán cân ngân sách bền vững với
thâm hụt nhẹ, hướng tới có thặng dư ngân sách cơ
bản là điều kiện tiên quyết để đưa tỷ lệ nợ công trên
GDP về ngưỡng an toàn.
Mục tiêu trung và dài hạn của quản lý nợ công là đưa
tỷ lệ nợ công trên GDP về ngưỡng dưới 65% vào năm
2020 và dưới 60% vào năm 2030. Việc đặt ra các mục
tiêu này cần phải được đặt trong phân tích định lượng
và dự báo, nhằm đánh giá mức độ khả thi của mục
tiêu đặt ra. Việc dự báo phải dựa trên các kịch bản về
các biến lượng vĩ mô như thâm hụt ngân sách, tăng
trưởng, lạm phát, và lãi suất vay nợ.
Theo phân tích dự báo, điều quan trọng nhất để đưa
nợ công về ngưỡng an toàn là thu hẹp thâm hụt ngân
sách cơ bản. Theo kịch bản lạc quan, thâm hụt ngân
sách cơ bản phải giảm dần từ 3% GDP vào năm 2019
xuống 2,9% GDP vào năm 2020 và 1,9% vào năm
2030. Khi đó, mục tiêu đưa nợ công xuống dưới
ngưỡng 60% trong thời gian sắp tới mới khả thi (nợ
công xuống dưới ngưỡng 60% vào năm 2032, trễ hai
năm so với mục tiêu chính phủ đề ra). Nhưng điều
này đòi hỏi nỗ lực rất lớn về cải cách cơ cấu kinh tế và
chính sách thuế nhằm tăng thu bền vững và cắt giảm
chi tiêu công.
Trong hoàn cảnh không có tiến bộ về thu hẹp cán cân
ngân sách, nợ công trong tương lai tùy thuộc rất nhiều
vào mức độ thâm hụt ngân sách. Ở ngưỡng thâm hụt
ngân sách cơ bản là 3%, thì đến năm 2030, nợ công
sẽ gần 70% GDP. Khi mức thâm hụt ngân sách cơ bản
là 4%, thì con số đó là 78,5%. Và nếu thâm hụt ngân
sách cao hơn nữa, thì điều đó sẽ đe dọa tính bền vững
của nợ công. Khủng hoảng nợ công có thể xẩy ra, do
tỷ trọng nợ công trên GDP là quá cao. Những đánh
giá dự báo này đưa ra lời cảnh tỉnh rằng, việc đưa nợ
công về giới hạn an toàn đòi hỏi phải có nỗ lực chính
sách rất lớn nhằm cắt giảm thâm hụt ngân sách. Nếu
thâm hụt ngân sách cao và kéo dài, thì nợ công có xu
hướng tăng tới ngưỡng nguy hiểm.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
GDP: Gross Domestic Product
MoF: Ministry of Finance
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột
lợi ích nào trong công bố bài báo.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Toàn bộ nội dung bài viết chỉ do tác giả thực hiện.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Cecchetti, Mohanty, Zampolli. The future of public debit:
prospects and implications. BIS working paper No300. 2010;.
2. Tuấn DTA. Tương lai nợ công của Việt Nam: Xu hướng và thách
thức, chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. 2013;.
3. Anh VTT. Nợ công, nợ chính phủ và nợ của doanh nghiệp nhà
nước. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. 2010;.
4. Anh VTT. Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam”, Sách “Chính
sách công và phát triển bền vững. Cán cân thanh toán nợ công
và đầu tư công. NXB Chính trị Quốc gia. 2012;.
5. Halllett H. Post Thacher fiscal strategies in the United Kingdom:
An interpretation”. Chapter 8 in Reinhard Neck and Stum eds,
Sustainability of Public Debt. The MIT Press. 2008;.
6. Anh PT,MinhDT, DũngNT, Thành TT. Nợ công và tính bền vững
ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai. Báo cáo RS 05, Uỷ
ban kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam. 2013;.
7. Thành NX, Tuấn DTA. “Bắt mạch” nợ công Việt Nam 2016. Diễn
đàn kinh tế Việt Nam. 2017;.
971
Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 4(3):963-972
Open Access Full Text Article Research Article
University of Economics and Law,
VNU-HCM
Correspondence
Dinh Hoang Tuong Vi, University of
Economics and Law, VNU-HCM
Email: vidht@uel.edu.vn
History
 Received: 17/9/2019 
 Accepted: 5/5/2020 
 Published: 30/9/2020
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Vietnam’s future public debt: Prospects and implicantions
Dinh Hoang Tuong Vi*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
By the end of 2017, VietNam's public debt had reached 3.1 million billion VND; 2.2 times higher
than the end of 2011 (1,393 million VND). The ratio of public debt/GDP of Vietnam has increased
rapidly in recent year, since 2011. Specifically, within only 5 years from 2011 to 2015, the ratio of
public debt / GDP of Vietnam increased by 12.2 percentage points, from 50% to 62.2%. Although,
the Government of Vietnam has made strong commitments to control public debt. But the actual
results are not as expected and tend to get worse. With the current trend of increasing the size
and risk of public debt, it is necessary to forecast the public debt and make policy implications on
public debt management.
Therefore, the author analyzed the state of Vietnam's budget deficit and public debt. Since the
author used dynamic models Cechetti, Mohanty and Zampolli (2010) to forecast Vietnam's public
debt trends to 2030, with three scenarios: The basic scenario is that there is no improvement in
the balance of budget the Basic scenario is no improvement in the basic budget balance, the Bad
scenario is the high budget deficit. From there, implications on public debt management that aim
to increase the sustainability of public debt in VietNam.
Key words: Public debt, dynamic models, forecasting public debt, managing public debt
Cite this article : Vi D H T. Vietnam’s future public debt: Prospects and implicantions. Sci. Tech. 
Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(3):963-972.
972
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i3.668

File đính kèm:

  • pdftuong_lai_no_cong_viet_nam_trien_vong_va_ham_y_chinh_sach.pdf