Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam

Tăng quyền tự chủ cho các trường đại học là xu hướng tất yếu để giáo dục đại

học Việt Nam dần tháo gỡ những rào cản về cơ chế để phát triển, bắt kịp trình độ của

khu vực và thế giới. Trong thời gian qua, tự chủ trong giáo dục đại học ở nước ta đã có

nhiều chuyển biến tích cực, các trường đại học dần được trao quyền tự chủ trong các

mặt hoạt động. Tuy nhiên một số trường đại học còn chưa thực sự sẵn sàng thực hiện

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Học hỏi kinh nghiệm trao quyền tự chủ cho các

trường Đại học từ các nước trên thế giới để thấy được chúng ta cần phải làm gì, xây

dựng mô hình tự chủ như thế nào cho phù hợp là điều cần thiết. Điển hình như mô

hình tự chủ của Singapore với những kết quả đã đạt được: giảm chi phí thanh tra giám

sát của chính phủ, thúc đẩy các trường tự thân năng động hơn đối mặt với nhu cầu của

thị trường lao động, nâng cao sức cạnh tranh, xếp hạng trường đại học Những kết

quả đó cần được nghiêm túc nhìn nhận để thấy được những ưu điểm trong mô hình tự

chủ của Singapore qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Từ khóa: Tự chủ giáo dục đại học; mô hình tự chủ đại học Singapore; kinh

nghiệm tự chủ đại học từ quốc tế.

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 03/01/2022 10880
Bạn đang xem tài liệu "Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam

Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam
 523 
TỰ CHỦ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO MÔ HÌNH SINGGAPORE - 
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 
Trần Thị Trang 
Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì 
Tóm tắt 
Tăng quyền tự chủ cho các trường đại học là xu hướng tất yếu để giáo dục đại 
học Việt Nam dần tháo gỡ những rào cản về cơ chế để phát triển, bắt kịp trình độ của 
khu vực và thế giới. Trong thời gian qua, tự chủ trong giáo dục đại học ở nước ta đã có 
nhiều chuyển biến tích cực, các trường đại học dần được trao quyền tự chủ trong các 
mặt hoạt động. Tuy nhiên một số trường đại học còn chưa thực sự sẵn sàng thực hiện 
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Học hỏi kinh nghiệm trao quyền tự chủ cho các 
trường Đại học từ các nước trên thế giới để thấy được chúng ta cần phải làm gì, xây 
dựng mô hình tự chủ như thế nào cho phù hợp là điều cần thiết. Điển hình như mô 
hình tự chủ của Singapore với những kết quả đã đạt được: giảm chi phí thanh tra giám 
sát của chính phủ, thúc đẩy các trường tự thân năng động hơn đối mặt với nhu cầu của 
thị trường lao động, nâng cao sức cạnh tranh, xếp hạng trường đại học Những kết 
quả đó cần được nghiêm túc nhìn nhận để thấy được những ưu điểm trong mô hình tự 
chủ của Singapore qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. 
Từ khóa: Tự chủ giáo dục đại học; mô hình tự chủ đại học Singapore; kinh 
nghiệm tự chủ đại học từ quốc tế. 
Dẫn nhập 
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức đã chứng 
minh luận điểm của Mác: “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất chính”, lúc này khoa 
học công nghệ thực sự là động lực cho tăng trưởng kinh tế, tri thức trở thành hàng hóa, 
giáo dục trở thành lợi ích quan trọng nhất của mỗi người. Tuy nhiên, yêu cầu đối với 
giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học cũng thay đổi. Để đảm bảo nguyên tắc trình độ 
vững vàng và kỹ năng thành thục cho nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường 
lao động, hệ thống các trường đại học cần có sự đổi mới cơ bản và toàn diện, từ quản 
lý về mặt thủ tục hành chính đến chương chình nội dung, chuẩn đầu ra Yêu cầu tất 
yếu cần phải tái cấu trúc hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, 
mà bản chất là xem xét và định nghĩa lại mối quan hệ giữa giáo dục đại học với nhà 
nước và với thị trường lao động. Quá trình này diễn ra đối với tất cả các trường đại học 
trên thế giới, tiêu biểu với 3 mô hình tự chủ đại học: Mô hình tự chủ độc lập ở Anh, 
Úc; Mô hình bán tự chủ ở Pháp, New Zealand; Mô hình bán độc lập ở Singapore. 
Trong đó, chúng tôi đặc biệt lưu ý mô hình của Singapore bởi tự chủ giáo dục đại học 
của của Singapore đã đạt được những kết quả quan trọng, vận hành như là một phương 
tiện hỗ trợ sự phát triển kinh tế quốc gia và thúc đẩy sự gắn kết xã hội. Nghiên cứu mô 
hình tự chủ của Singapore để thấy được những đặc điểm nổi bật, từ đó rút ra một số 
bài học kinh nghiệm có thể vận dụng, áp dụng vào quá trình thực hiện tự chủ đại học ở 
Việt Nam. 
 524 
Nội dung 
1. Tự chủ giáo dục đại học – bản chất và các thành tố 
Tự chủ là tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình không bị ai chi phối. 
Tự chủ đại học là quyền được tự tổ chức, quản lý các hoạt động của cơ sở một cách 
chủ động, tích cực, sáng tạo nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh của nhà 
trường. Chủ thể thực hiện quyền tự chủ là lãnh đạo của các trường đại học đó. 
Tự chủ đại học có nhiều cách hiểu khác nhau tùy cách tiếp cận và tùy theo nhận 
thức về vai trò của nhà nước đối với giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. 
Thực tế, nếu xét trong phạm vi mối quan hệ của cơ sở giáo dục đại học có thể được 
nhìn nhận từ hai khía cạnh: Thứ nhất, xét trong mối quan hệ giữa trường đại học với 
các yếu tố bên ngoài thì tự chủ đại học được hiểu là khả năng thoát ra khỏi sự kiểm 
soát, hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động và các ảnh 
hưởng chính trị. Đó là quyền tự do đưa ra các quyết định về cách thức tổ chức hoạt 
động cũng như thực hiện mục tiêu sứ mạng của trường. Thứ hai, ở cấp độ giữa trường 
với các bộ phận trong trường. Đây chính là quá trình quản lý của nhà trường với các 
bộ phận trong trường trên cơ sở chất lượng, hiệu quả công việc, thoát ra khỏi phạm vi 
quản lý hành chính. Như vậy, dù góc tiếp cận, mục đích tiếp cận khác nhau nhưng khái 
quát chung có thể hiểu tự chủ của trường đại học là khả năng của trường được hoạt 
động theo cách thức mình lựa chọn để đạt được sứ mạng và mục tiêu do trường đặt ra. 
Thực tế, các cơ sở giáo dục đại học sẽ vận hành tốt hơn nếu họ được nắm vận mệnh 
của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động lực để họ đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn 
trong hoạt động của mình, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo 
dục đại học, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục theo hướng giáo dục 
mở với mục tiêu xây dựng xã hội học tập. 
Các thành tố của tự chủ đại học. 
“Theo Anderson & Johnson (1998) các thành tố trong tự chủ đại học bao gồm: 
Tự chủ nguồn nhân lực: Với quyền  ... ng đại học sẽ do các 
trường tự vạch ra, nghĩa là nhà trường sẽ mô tả hiệu quả, chất lượng trong hoạt động 
đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó chính phủ sẽ phê duyệt. Mục đích của 
hoạt động này nhằm xác định các chỉ tiêu phát triển chính trong các mục tiêu phát triển 
tổng thể. Hoạt động này được giám sát định kỳ, cứ 5 năm sẽ được rà soát, đánh giá lại 
một lần. 
Thứ ba, giám sát về chất lượng. Hoạt động này được thực hiện thông qua quá 
trình tự đánh giá của bản thân nhà trường và đánh giá ngoài của Hội đồng đánh giá do 
chính phủ chỉ định. Mục đích nhằm đảm bảo nhà trường sử dụng hiệu quả nguồn lực, 
thực hiện tốt các mục tiêu phát triển. Cũng giống như hoạt động giám sát hiệu quả, 
hoạt động giám sát chất lượng được đánh giá định kỳ 5 năm. 
Mô hình quản lý nhà trường 
Sau khi tự chủ, Hội đồng trường trở thành bộ máy lãnh đạo cao nhất trong nhà 
trường, quyết định mọi chiến lược phát triển của nhà trường. Hội đồng trường gồm 
những nhà quản lý giáo dục giỏi, doanh nhân thành đạt và các chuyên gia kinh tế nổi 
tiếng, là những người lãnh đạo cao nhất của nhà trường. Hội đồng trường có nhiệm vụ: 
chỉ đạo vĩ mô lãnh đạo trường thực hiện các mục tiêu đề án ngắn hạn và dài hạn; chịu 
trách nhiệm chính, có quyền quyết định cuối cùng đối với các việc của nhà trường; 
quyết định phương châm tài chính của nhà trường; đảm bảo nhà trường sử dụng nguồn 
lực hợp lý, lựa chọn phương thức điều hành, quản lý nguồn nhân lực cũng như mục 
tiêu chương trình đào tạo. 
Dưới Hội đồng trường có các ban chuyên trách, giúp Hội đồng trường kiểm 
soát mọi tình hình trong nhà trường và tư vấn các quyết sách. Hội đồng trường có 
quyền đưa ra các quyết sách, hiệu trưởng có quyền thực thi các quyết sách của Hội 
đồng trường, các chuyên gia có trách nhiệm tư vấn và cùng thảo luận bàn bạc các vấn 
đề lớn của trường. Các giáo sư đều tham gia quản lý trường có chức trách phản hồi, 
cho ý kiến về các vấn đề chuyên môn, học thuật. Trong đó, đứng đầu hội đồng giáo sư 
là Ban trị sự gồm những giáo sư uy tín nhất và Ban cố vấn.[6] 
Hàng năm nhà trường phải có trách nhiệm báo cáo, công khai tình hình phát 
triển của nhà trường, theo sự giám sát của các cơ quan ban ngành liên quan của chính 
phủ và sự giám sát của xã hội. Năm năm lại báo cáo chi tiết tình hình phát triển với Bộ 
giáo dục, để Bộ giáo dục đánh giá chất lượng đào tạo. 
Mô hình quản lý tuyển dụng 
 Nhà trường có quyền tự quyết trong việc tuyển dụng lao động, cán bộ giảng 
viên. Giảng viên được tuyển dụng cần phù hợp với mục tiêu đào tạo đặc trưng của 
trường. Nhiệm vụ của giảng viên bao gồm hai hoạt động chính là giảng dạy và nghiên 
cứu khoa học. Nhà trường có trách nhiệm bảo đảm cho họ mức sống trung lưu trong 
xã hội. Đối với giảng viên sau khi được tuyển dụng sẽ được ký hợp đồng ba năm một, 
sau 6 năm không đạt được chức danh phó giáo sư thì nhà trường sẽ hủy hợp đồng 
tuyển dụng. Để được đứng lớp, giảng viên phải thường xuyên nhận được sự đánh giá 
tích cực từ Hội đồng khoa học khoa và sinh viên. 
Đặc điểm trong mô hình tự chủ của Singgapore. 
Thứ nhất, tính linh hoạt trong cơ cấu tổ chức. Sản phẩm đầu ra của giáo dục đại 
học là nguồn nhân lực đạt chuẩn vì vậy nhiệm vụ của các trường đại học trong đào tạo 
 528 
cần phải gắn liền với nhu cầu của xã hội, xu thế của khoa học công nghệ và nền sản 
xuất. Việc tăng sự gắn kết giữa nhà trường và xã hội là giải pháp giúp nâng cao tính 
linh hoạt trong tự chủ giáo dục đại học. 
Mô hình tự chủ đại học ở Singapore đã tạo ra tính linh hoạt trong các mặt hoạt 
động của nhà trường, trong đó đặc biệt là tính linh hoạt trong tự chủ tài chính và tự chủ 
chuyên môn học thuật. Đặc điểm này tạo điều kiện cho các trường có cơ hội tiếp cận 
tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, đồng thời nhà trường cũng có nhiều hơn các lựa 
chọn trong việc thực hiện đa dạng hóa các mục tiêu đào tạo nhằm bắt nhịp với xu 
hướng phát triển của khoa học công nghệ. 
Thứ hai, dân chủ hóa nền giáo dục. Sau khi được giao quyền tự chủ, các trường 
đại học ở Singapore thực hiện cơ cấu tổ chức quyền lực trên cơ sở phát huy tối đa năng 
lực và những đóng góp của các thành viên trong hội đồng nhà trường. Đó là sự chủ 
động về cách thức quản lý nguồn lực bên trong của nhà trường nhằm đạt tới các mục 
tiêu phát triển; là quyền tự quyết định và chủ động trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức, 
phân tách, thành lập các đơn vị trực thuộc, tuyển dụng, bổ nhiệm... Tính dân chủ trong 
nền giáo dục giúp phát huy tối đa nguồn lực riêng của từng trường đại học. Từ đó, các 
trường có cơ sở thiết lập riêng chương trình giảng dạy theo nhu cầu thị trường lao 
động hay theo năng lực riêng của học sinh. 
Như vậy, Trong cơ chế thị trường, quá trình đào tạo của các trường đại học 
không chỉ đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho khu vực nhà nước mà còn đáp ứng 
nhu cầu cho mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện mục tiêu 
đó trường đại học phải thực sự có quyền tự chủ trong công tác đào tạo. Nghĩa là đào 
tạo không chỉ theo kế hoạch Nhà nước, mà còn đào tạo theo hợp đồng với các tổ chức 
sử dụng lao động, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân phù hợp với khả năng của 
nhà trường. Đó là cơ sở xuất phát mô hình tự chủ giáo dục đại học ở Singapore. Đối 
với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang có nhiều biến đổi, cơ chế 
thị trường tác động ngày càng mạnh mẽ, cần thiết phải tiến hành tự chủ giáo dục đại 
học và từ mô hình Singapore chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều trong quá trình 
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học hiện nay. 
3. Tự chủ đại học ở Việt Nam 
Trong gần một thập kỷ qua, vấn đề tự chủ trong giáo dục đại học Việt Nam đã 
có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ toàn thể hệ thống giáo dục đại học Việt Nam 
như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua 
Bộ Giáo dục và đào tạo, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ, thể hiện 
qua các văn bản pháp quy của Nhà nước. 
Điều lệ trường đại học, ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của 
Thủ tướng Chính phủ ở Điều 10 đã nêu rõ “Trường đại học được quyền tự chủ và tự 
chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà 
trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ, tài chính, quan hệ quốc 
tế, tổ chức và nhân sự”.[2] 
Luật Giáo dục ban hành tháng 7 năm 2005 đã đề cập đến ở Điều 14 thể hiện: 
“tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo 
dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục”[4] 
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ban hành ngày 2 tháng 11 năm 2005 về đổi mới 
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 cũng khẳng 
 529 
định tầm quan trọng của việc hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo 
hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự 
quản lý của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học, 
theo đó đổi mới cơ chế quản lý cần chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang 
hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách 
nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính; xóa bỏ cơ chế bộ chủ 
quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học 
công lập.[3] 
Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV hướng dẫn quyền tự chủ, tự 
chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị 
sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo đã nêu rõ quyền tự chủ của đơn vị trong việc 
xác định nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; trong việc tổ chức bộ máy 
và biên chế trong đơn vị; trong việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, 
viên chức.[5] 
Gần đây nhất là Dự thảo Luật giáo dục đại học năm 2018 được xây dựng cũng 
quan tâm rất nhiều đến vấn đề tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. “Đảm bảo quyền tự 
chủ của các cơ sở giáo dục đại học gắn liền với trách nhiệm giải trình, tăng cường 
kiểm định chất lượng, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, có sự kiểm tra, thanh 
tra của Nhà nước và giám sát xã hội, theo quy định của pháp luật” [1]. Dự thảo luật đã 
đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến quyền tự chủ của các trường đại học như vấn 
đề về Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ 
sở giáo dục, tuyển sinh, chương trình giáo dục, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh 
Các văn bản phát quy của Nhà nước và Bộ giáo dục đại học đã tạo ra hành lang 
pháp lý cho quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, nhưng các quyền tự chủ đó 
vẫn chưa thật sự phát huy hết tác dụng vì tính chất chưa triệt để và sự thiếu nhất quán, 
đồng bộ trong quá trình thực hiện. Các cơ sở giáo dục đại học dường như vẫn chưa 
thực sự mong muốn được tăng thêm quyền tự chủ, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý 
tài chính, bộ máy, nhân sự, tuyển sinh 
Như vậy, cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế, chính sách, nhà 
nước cần xây dựng thí điểm các trường đại học tự chủ mang tính chỉnh thể, đồng bộ, 
từ đó nhận thức rõ ưu điểm hạn chế để chú trọng trong công tác triển khai thực hiện 
trên phạm vi rộng. Bên cạnh đó, trong giải pháp trước mắt nhà nước cần hỗ trợ tích 
cực bằng những biện pháp thích hợp, kể cả việc đặt nó dưới sự kiểm soát của nhà nước 
như Singapore đã làm. 
4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình tự chủ của 
Singgapore. 
Từ kinh nghiệm của Singapore trong quá trình tự chủ giáo dục đại học, để tăng 
cường tính tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay cần thiết học tập 
một số kinh nghiệm từ mô hình Singapore. 
Thứ nhất, quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học cần được giao đồng bộ. 
 Khi trao quyền tự chủ cho các trường đại học, cần phải thực hiện đồng bộ trên 
các mặt như: tự chủ tài chính; tự chủ nguồn nhân lực; tự chủ trong các vấn đề liên 
quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên; tự chủ trong các hoạt động học thuật và 
chương trình giáo dục như phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập 
của sinh viên, nội dung chương trình và giáo trình học liệu Các quy định pháp lý về 
 530 
quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học cần được thống nhất, nhất quán giúp các 
cơ sở giáo dục đại học có được quyền tự chủ trọn vẹn và có cơ chế hỗ trợ thực hiện 
quyền tự chủ đó. 
Thay đổi cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa Bộ chủ quản, Bộ Giáo dục đào 
tạo với nhà trường. Bộ giáo dục không can thiệp vào các hoạt động giảng dạy cụ thể 
của nhà trường, mà chỉ kiểm soát, can thiệp hành chính ở một mức độ nhất định. Bộ 
chủ quản cần có cơ chế ủng hộ các trường tự chủ tài chính, huy động kinh phí từ nhiều 
nguồn khác nhau, 
Thực tế, khi các quyền được trao quyền tự chủ nghĩa là quản lý vĩ mô về giáo 
dục đại học cần được thay đổi. Khi đối tượng quản lý thay đổi sẽ đòi hỏi sự thay đổi về 
phương thức quản lý. Không thể giữ nguyên phương thức quản lý vĩ mô như cũ nhưng 
cũng không phải xóa bỏ hoàn toàn vai trò quản lý của nhà nước. Tự chủ đại học chỉ có 
thể thực hiện trong điều kiện tồn tại cơ chế quản lý vĩ mô thích hợp. Trong đó các cơ 
quan nhà nước thay vì kiểm soát sẽ thực hiện quyền giám sát và đánh giá. 
Thứ hai, xây dựng hệ thống đánh giá về tự chủ đại học. 
Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm không có nghĩa là các trường đại 
học tự hoạt động và thoát khỏi mọi sự giám sát, đánh giá. Quyền tự chủ gắn liền với 
quyền tự chịu trách nhiệm. Trách nhiệm của các trường đại học là đảm bảo kế hoạch 
mục tiêu đào tạo theo những thỏa thuận đã cam kết. Nhà nước trên cơ sở các thỏa 
thuận của các trường đã đăng ký sẽ đánh giá mức độ, hiệu quả thực hiện quyền tự chủ 
của các trường, trên cơ sở đó sẽ có những biện pháp vĩ mô phù hợp. Nghĩa là vai trò 
kiểm soát của nhà nước sẽ thay đổi, thay vì kiểm tra điều kiện, quá trình hoạt động, 
nhà nước sẽ chuyển sang kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động đồng thời có những biện 
pháp xử lý nghiêm những vi phạm. 
Thứ ba, linh hoạt và dân chủ trong quản lý nhà trường 
Như đã phân tích trong đặc điểm mô hình tự chủ của Singapore, tính linh hoạt 
và dân chủ đã giúp cho các trường đại học ở Singapore phát huy tối đa nguồn lực riêng 
tạo điều kiện thiết lập chương trình giảng dạy theo nhu cầu thị trường lao động. Đối 
với Việt Nam, để phát huy vai trò trách nhiệm của các trường đại học trong tự chủ, 
trước hết Nhà nước cần trao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo đại học một cách đồng 
bộ nhưng bản thân các trường cần linh hoạt và dân chủ trong thực hiện phân cấp cho 
các đơn vị trong trường; mở rộng nguồn thu và khoán chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu 
nội bộ; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức 
hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý 
tài chính cho các đơn vị trong trường. 
Kết luận và khuyến nghị 
• Kết luận 
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học để bắt kịp xu hướng phát triển của 
các nước trong khu vực và thế giới, chúng ta phải tiến hành tự chủ đại học. Học hỏi 
mô hình tự chủ của Singapore để từ đó nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với tình 
hình nước ta là một hướng giải pháp hiệu quả, thiết thực. 
• Khuyến nghị cho những nghiên cứu tiếp theo 
Như đã trao đổi trong phần giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi mới chỉ nghiên 
cứu mô hình tự chủ đại học của Singapore, bản chất, nội dung và những đặc điểm của 
 531 
mô hình tự chủ đó, trên cơ sở đó góp nhặt những nhận xét về kinh nghiệm để quá trình 
tự chủ đại học ở Việt Nam có thể tiếp biến. Còn rất nhiều khoảng trống để các nghiên 
cứu tiếp theo có thể tiếp. Vì vậy, những nghiên cứu sắp tới có thể triển khai theo các 
hướng sau: Kinh nghiệm từ các mô hình tự chủ độc lập, hay mô hình bán tự chủ; Điều 
kiện và khả năng thực hiện tự chủ ở Việt Nam; thực trạng và những giải pháp cơ bản 
cho quá trình tự chủ của Việt Nam 
Có thể nói tự chủ đại học là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Quá trình 
này sẽ tạo điều kiện để các trường năng động, linh hoạt hơn trong việc tiếp cận các 
nguồn kinh phí từ xã hội, nâng cao năng lực cạnh trong đào tạo nguồn nhân lực theo 
nhu cầu thị trường lao động. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 
2018/QH14. 
[2]. Điều lệ trường Đại học ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ - TTg, ngày 
30/7/203. 
[3]. Nghị quyết số 14/2005/NQ – CP ngày 2/11/2005 về đổi mới căn bản và toàn diện 
giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. 
[4]. Luật Giáo dục 2005, Luật số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005. 
[5]. Thông tư số 07/2009/TTLT – BGDĐT – BNV ngày 15/4/2009 về việc hướng dẫn 
thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ 
máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập Giáo dục và đào tạo. 
[6]. Thuongtruong.com.vn/tintuctrongnuoc/Tự chủ Đại học – Kinh nghiệm và bài học 
từ Singapore. 
[7]. https://vnu.edu.vn/Tự chủ đại học – xu thế của phát triển. 

File đính kèm:

  • pdftu_chu_giao_duc_dai_hoc_theo_mo_hinh_singgapore_bai_hoc_kinh.pdf