Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam
Tăng quyền tự chủ cho các trường đại học là xu hướng tất yếu để giáo dục đại
học Việt Nam dần tháo gỡ những rào cản về cơ chế để phát triển, bắt kịp trình độ của
khu vực và thế giới. Trong thời gian qua, tự chủ trong giáo dục đại học ở nước ta đã có
nhiều chuyển biến tích cực, các trường đại học dần được trao quyền tự chủ trong các
mặt hoạt động. Tuy nhiên một số trường đại học còn chưa thực sự sẵn sàng thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Học hỏi kinh nghiệm trao quyền tự chủ cho các
trường Đại học từ các nước trên thế giới để thấy được chúng ta cần phải làm gì, xây
dựng mô hình tự chủ như thế nào cho phù hợp là điều cần thiết. Điển hình như mô
hình tự chủ của Singapore với những kết quả đã đạt được: giảm chi phí thanh tra giám
sát của chính phủ, thúc đẩy các trường tự thân năng động hơn đối mặt với nhu cầu của
thị trường lao động, nâng cao sức cạnh tranh, xếp hạng trường đại học Những kết
quả đó cần được nghiêm túc nhìn nhận để thấy được những ưu điểm trong mô hình tự
chủ của Singapore qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Từ khóa: Tự chủ giáo dục đại học; mô hình tự chủ đại học Singapore; kinh
nghiệm tự chủ đại học từ quốc tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường Đại học ở Việt Nam
523 TỰ CHỦ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO MÔ HÌNH SINGGAPORE - BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM Trần Thị Trang Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì Tóm tắt Tăng quyền tự chủ cho các trường đại học là xu hướng tất yếu để giáo dục đại học Việt Nam dần tháo gỡ những rào cản về cơ chế để phát triển, bắt kịp trình độ của khu vực và thế giới. Trong thời gian qua, tự chủ trong giáo dục đại học ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, các trường đại học dần được trao quyền tự chủ trong các mặt hoạt động. Tuy nhiên một số trường đại học còn chưa thực sự sẵn sàng thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Học hỏi kinh nghiệm trao quyền tự chủ cho các trường Đại học từ các nước trên thế giới để thấy được chúng ta cần phải làm gì, xây dựng mô hình tự chủ như thế nào cho phù hợp là điều cần thiết. Điển hình như mô hình tự chủ của Singapore với những kết quả đã đạt được: giảm chi phí thanh tra giám sát của chính phủ, thúc đẩy các trường tự thân năng động hơn đối mặt với nhu cầu của thị trường lao động, nâng cao sức cạnh tranh, xếp hạng trường đại học Những kết quả đó cần được nghiêm túc nhìn nhận để thấy được những ưu điểm trong mô hình tự chủ của Singapore qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Từ khóa: Tự chủ giáo dục đại học; mô hình tự chủ đại học Singapore; kinh nghiệm tự chủ đại học từ quốc tế. Dẫn nhập Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức đã chứng minh luận điểm của Mác: “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất chính”, lúc này khoa học công nghệ thực sự là động lực cho tăng trưởng kinh tế, tri thức trở thành hàng hóa, giáo dục trở thành lợi ích quan trọng nhất của mỗi người. Tuy nhiên, yêu cầu đối với giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học cũng thay đổi. Để đảm bảo nguyên tắc trình độ vững vàng và kỹ năng thành thục cho nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, hệ thống các trường đại học cần có sự đổi mới cơ bản và toàn diện, từ quản lý về mặt thủ tục hành chính đến chương chình nội dung, chuẩn đầu ra Yêu cầu tất yếu cần phải tái cấu trúc hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, mà bản chất là xem xét và định nghĩa lại mối quan hệ giữa giáo dục đại học với nhà nước và với thị trường lao động. Quá trình này diễn ra đối với tất cả các trường đại học trên thế giới, tiêu biểu với 3 mô hình tự chủ đại học: Mô hình tự chủ độc lập ở Anh, Úc; Mô hình bán tự chủ ở Pháp, New Zealand; Mô hình bán độc lập ở Singapore. Trong đó, chúng tôi đặc biệt lưu ý mô hình của Singapore bởi tự chủ giáo dục đại học của của Singapore đã đạt được những kết quả quan trọng, vận hành như là một phương tiện hỗ trợ sự phát triển kinh tế quốc gia và thúc đẩy sự gắn kết xã hội. Nghiên cứu mô hình tự chủ của Singapore để thấy được những đặc điểm nổi bật, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng, áp dụng vào quá trình thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam. 524 Nội dung 1. Tự chủ giáo dục đại học – bản chất và các thành tố Tự chủ là tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình không bị ai chi phối. Tự chủ đại học là quyền được tự tổ chức, quản lý các hoạt động của cơ sở một cách chủ động, tích cực, sáng tạo nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh của nhà trường. Chủ thể thực hiện quyền tự chủ là lãnh đạo của các trường đại học đó. Tự chủ đại học có nhiều cách hiểu khác nhau tùy cách tiếp cận và tùy theo nhận thức về vai trò của nhà nước đối với giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Thực tế, nếu xét trong phạm vi mối quan hệ của cơ sở giáo dục đại học có thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh: Thứ nhất, xét trong mối quan hệ giữa trường đại học với các yếu tố bên ngoài thì tự chủ đại học được hiểu là khả năng thoát ra khỏi sự kiểm soát, hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động và các ảnh hưởng chính trị. Đó là quyền tự do đưa ra các quyết định về cách thức tổ chức hoạt động cũng như thực hiện mục tiêu sứ mạng của trường. Thứ hai, ở cấp độ giữa trường với các bộ phận trong trường. Đây chính là quá trình quản lý của nhà trường với các bộ phận trong trường trên cơ sở chất lượng, hiệu quả công việc, thoát ra khỏi phạm vi quản lý hành chính. Như vậy, dù góc tiếp cận, mục đích tiếp cận khác nhau nhưng khái quát chung có thể hiểu tự chủ của trường đại học là khả năng của trường được hoạt động theo cách thức mình lựa chọn để đạt được sứ mạng và mục tiêu do trường đặt ra. Thực tế, các cơ sở giáo dục đại học sẽ vận hành tốt hơn nếu họ được nắm vận mệnh của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động lực để họ đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động của mình, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục đại học, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục theo hướng giáo dục mở với mục tiêu xây dựng xã hội học tập. Các thành tố của tự chủ đại học. “Theo Anderson & Johnson (1998) các thành tố trong tự chủ đại học bao gồm: Tự chủ nguồn nhân lực: Với quyền ... ng đại học sẽ do các trường tự vạch ra, nghĩa là nhà trường sẽ mô tả hiệu quả, chất lượng trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó chính phủ sẽ phê duyệt. Mục đích của hoạt động này nhằm xác định các chỉ tiêu phát triển chính trong các mục tiêu phát triển tổng thể. Hoạt động này được giám sát định kỳ, cứ 5 năm sẽ được rà soát, đánh giá lại một lần. Thứ ba, giám sát về chất lượng. Hoạt động này được thực hiện thông qua quá trình tự đánh giá của bản thân nhà trường và đánh giá ngoài của Hội đồng đánh giá do chính phủ chỉ định. Mục đích nhằm đảm bảo nhà trường sử dụng hiệu quả nguồn lực, thực hiện tốt các mục tiêu phát triển. Cũng giống như hoạt động giám sát hiệu quả, hoạt động giám sát chất lượng được đánh giá định kỳ 5 năm. Mô hình quản lý nhà trường Sau khi tự chủ, Hội đồng trường trở thành bộ máy lãnh đạo cao nhất trong nhà trường, quyết định mọi chiến lược phát triển của nhà trường. Hội đồng trường gồm những nhà quản lý giáo dục giỏi, doanh nhân thành đạt và các chuyên gia kinh tế nổi tiếng, là những người lãnh đạo cao nhất của nhà trường. Hội đồng trường có nhiệm vụ: chỉ đạo vĩ mô lãnh đạo trường thực hiện các mục tiêu đề án ngắn hạn và dài hạn; chịu trách nhiệm chính, có quyền quyết định cuối cùng đối với các việc của nhà trường; quyết định phương châm tài chính của nhà trường; đảm bảo nhà trường sử dụng nguồn lực hợp lý, lựa chọn phương thức điều hành, quản lý nguồn nhân lực cũng như mục tiêu chương trình đào tạo. Dưới Hội đồng trường có các ban chuyên trách, giúp Hội đồng trường kiểm soát mọi tình hình trong nhà trường và tư vấn các quyết sách. Hội đồng trường có quyền đưa ra các quyết sách, hiệu trưởng có quyền thực thi các quyết sách của Hội đồng trường, các chuyên gia có trách nhiệm tư vấn và cùng thảo luận bàn bạc các vấn đề lớn của trường. Các giáo sư đều tham gia quản lý trường có chức trách phản hồi, cho ý kiến về các vấn đề chuyên môn, học thuật. Trong đó, đứng đầu hội đồng giáo sư là Ban trị sự gồm những giáo sư uy tín nhất và Ban cố vấn.[6] Hàng năm nhà trường phải có trách nhiệm báo cáo, công khai tình hình phát triển của nhà trường, theo sự giám sát của các cơ quan ban ngành liên quan của chính phủ và sự giám sát của xã hội. Năm năm lại báo cáo chi tiết tình hình phát triển với Bộ giáo dục, để Bộ giáo dục đánh giá chất lượng đào tạo. Mô hình quản lý tuyển dụng Nhà trường có quyền tự quyết trong việc tuyển dụng lao động, cán bộ giảng viên. Giảng viên được tuyển dụng cần phù hợp với mục tiêu đào tạo đặc trưng của trường. Nhiệm vụ của giảng viên bao gồm hai hoạt động chính là giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Nhà trường có trách nhiệm bảo đảm cho họ mức sống trung lưu trong xã hội. Đối với giảng viên sau khi được tuyển dụng sẽ được ký hợp đồng ba năm một, sau 6 năm không đạt được chức danh phó giáo sư thì nhà trường sẽ hủy hợp đồng tuyển dụng. Để được đứng lớp, giảng viên phải thường xuyên nhận được sự đánh giá tích cực từ Hội đồng khoa học khoa và sinh viên. Đặc điểm trong mô hình tự chủ của Singgapore. Thứ nhất, tính linh hoạt trong cơ cấu tổ chức. Sản phẩm đầu ra của giáo dục đại học là nguồn nhân lực đạt chuẩn vì vậy nhiệm vụ của các trường đại học trong đào tạo 528 cần phải gắn liền với nhu cầu của xã hội, xu thế của khoa học công nghệ và nền sản xuất. Việc tăng sự gắn kết giữa nhà trường và xã hội là giải pháp giúp nâng cao tính linh hoạt trong tự chủ giáo dục đại học. Mô hình tự chủ đại học ở Singapore đã tạo ra tính linh hoạt trong các mặt hoạt động của nhà trường, trong đó đặc biệt là tính linh hoạt trong tự chủ tài chính và tự chủ chuyên môn học thuật. Đặc điểm này tạo điều kiện cho các trường có cơ hội tiếp cận tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, đồng thời nhà trường cũng có nhiều hơn các lựa chọn trong việc thực hiện đa dạng hóa các mục tiêu đào tạo nhằm bắt nhịp với xu hướng phát triển của khoa học công nghệ. Thứ hai, dân chủ hóa nền giáo dục. Sau khi được giao quyền tự chủ, các trường đại học ở Singapore thực hiện cơ cấu tổ chức quyền lực trên cơ sở phát huy tối đa năng lực và những đóng góp của các thành viên trong hội đồng nhà trường. Đó là sự chủ động về cách thức quản lý nguồn lực bên trong của nhà trường nhằm đạt tới các mục tiêu phát triển; là quyền tự quyết định và chủ động trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức, phân tách, thành lập các đơn vị trực thuộc, tuyển dụng, bổ nhiệm... Tính dân chủ trong nền giáo dục giúp phát huy tối đa nguồn lực riêng của từng trường đại học. Từ đó, các trường có cơ sở thiết lập riêng chương trình giảng dạy theo nhu cầu thị trường lao động hay theo năng lực riêng của học sinh. Như vậy, Trong cơ chế thị trường, quá trình đào tạo của các trường đại học không chỉ đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho khu vực nhà nước mà còn đáp ứng nhu cầu cho mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện mục tiêu đó trường đại học phải thực sự có quyền tự chủ trong công tác đào tạo. Nghĩa là đào tạo không chỉ theo kế hoạch Nhà nước, mà còn đào tạo theo hợp đồng với các tổ chức sử dụng lao động, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân phù hợp với khả năng của nhà trường. Đó là cơ sở xuất phát mô hình tự chủ giáo dục đại học ở Singapore. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang có nhiều biến đổi, cơ chế thị trường tác động ngày càng mạnh mẽ, cần thiết phải tiến hành tự chủ giáo dục đại học và từ mô hình Singapore chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều trong quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học hiện nay. 3. Tự chủ đại học ở Việt Nam Trong gần một thập kỷ qua, vấn đề tự chủ trong giáo dục đại học Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ toàn thể hệ thống giáo dục đại học Việt Nam như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua Bộ Giáo dục và đào tạo, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ, thể hiện qua các văn bản pháp quy của Nhà nước. Điều lệ trường đại học, ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ở Điều 10 đã nêu rõ “Trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự”.[2] Luật Giáo dục ban hành tháng 7 năm 2005 đã đề cập đến ở Điều 14 thể hiện: “tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục”[4] Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ban hành ngày 2 tháng 11 năm 2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 cũng khẳng 529 định tầm quan trọng của việc hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học, theo đó đổi mới cơ chế quản lý cần chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính; xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.[3] Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo đã nêu rõ quyền tự chủ của đơn vị trong việc xác định nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; trong việc tổ chức bộ máy và biên chế trong đơn vị; trong việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức.[5] Gần đây nhất là Dự thảo Luật giáo dục đại học năm 2018 được xây dựng cũng quan tâm rất nhiều đến vấn đề tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. “Đảm bảo quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học gắn liền với trách nhiệm giải trình, tăng cường kiểm định chất lượng, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, có sự kiểm tra, thanh tra của Nhà nước và giám sát xã hội, theo quy định của pháp luật” [1]. Dự thảo luật đã đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến quyền tự chủ của các trường đại học như vấn đề về Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục, tuyển sinh, chương trình giáo dục, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh Các văn bản phát quy của Nhà nước và Bộ giáo dục đại học đã tạo ra hành lang pháp lý cho quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, nhưng các quyền tự chủ đó vẫn chưa thật sự phát huy hết tác dụng vì tính chất chưa triệt để và sự thiếu nhất quán, đồng bộ trong quá trình thực hiện. Các cơ sở giáo dục đại học dường như vẫn chưa thực sự mong muốn được tăng thêm quyền tự chủ, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý tài chính, bộ máy, nhân sự, tuyển sinh Như vậy, cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế, chính sách, nhà nước cần xây dựng thí điểm các trường đại học tự chủ mang tính chỉnh thể, đồng bộ, từ đó nhận thức rõ ưu điểm hạn chế để chú trọng trong công tác triển khai thực hiện trên phạm vi rộng. Bên cạnh đó, trong giải pháp trước mắt nhà nước cần hỗ trợ tích cực bằng những biện pháp thích hợp, kể cả việc đặt nó dưới sự kiểm soát của nhà nước như Singapore đã làm. 4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình tự chủ của Singgapore. Từ kinh nghiệm của Singapore trong quá trình tự chủ giáo dục đại học, để tăng cường tính tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay cần thiết học tập một số kinh nghiệm từ mô hình Singapore. Thứ nhất, quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học cần được giao đồng bộ. Khi trao quyền tự chủ cho các trường đại học, cần phải thực hiện đồng bộ trên các mặt như: tự chủ tài chính; tự chủ nguồn nhân lực; tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên; tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục như phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nội dung chương trình và giáo trình học liệu Các quy định pháp lý về 530 quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học cần được thống nhất, nhất quán giúp các cơ sở giáo dục đại học có được quyền tự chủ trọn vẹn và có cơ chế hỗ trợ thực hiện quyền tự chủ đó. Thay đổi cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa Bộ chủ quản, Bộ Giáo dục đào tạo với nhà trường. Bộ giáo dục không can thiệp vào các hoạt động giảng dạy cụ thể của nhà trường, mà chỉ kiểm soát, can thiệp hành chính ở một mức độ nhất định. Bộ chủ quản cần có cơ chế ủng hộ các trường tự chủ tài chính, huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau, Thực tế, khi các quyền được trao quyền tự chủ nghĩa là quản lý vĩ mô về giáo dục đại học cần được thay đổi. Khi đối tượng quản lý thay đổi sẽ đòi hỏi sự thay đổi về phương thức quản lý. Không thể giữ nguyên phương thức quản lý vĩ mô như cũ nhưng cũng không phải xóa bỏ hoàn toàn vai trò quản lý của nhà nước. Tự chủ đại học chỉ có thể thực hiện trong điều kiện tồn tại cơ chế quản lý vĩ mô thích hợp. Trong đó các cơ quan nhà nước thay vì kiểm soát sẽ thực hiện quyền giám sát và đánh giá. Thứ hai, xây dựng hệ thống đánh giá về tự chủ đại học. Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm không có nghĩa là các trường đại học tự hoạt động và thoát khỏi mọi sự giám sát, đánh giá. Quyền tự chủ gắn liền với quyền tự chịu trách nhiệm. Trách nhiệm của các trường đại học là đảm bảo kế hoạch mục tiêu đào tạo theo những thỏa thuận đã cam kết. Nhà nước trên cơ sở các thỏa thuận của các trường đã đăng ký sẽ đánh giá mức độ, hiệu quả thực hiện quyền tự chủ của các trường, trên cơ sở đó sẽ có những biện pháp vĩ mô phù hợp. Nghĩa là vai trò kiểm soát của nhà nước sẽ thay đổi, thay vì kiểm tra điều kiện, quá trình hoạt động, nhà nước sẽ chuyển sang kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động đồng thời có những biện pháp xử lý nghiêm những vi phạm. Thứ ba, linh hoạt và dân chủ trong quản lý nhà trường Như đã phân tích trong đặc điểm mô hình tự chủ của Singapore, tính linh hoạt và dân chủ đã giúp cho các trường đại học ở Singapore phát huy tối đa nguồn lực riêng tạo điều kiện thiết lập chương trình giảng dạy theo nhu cầu thị trường lao động. Đối với Việt Nam, để phát huy vai trò trách nhiệm của các trường đại học trong tự chủ, trước hết Nhà nước cần trao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo đại học một cách đồng bộ nhưng bản thân các trường cần linh hoạt và dân chủ trong thực hiện phân cấp cho các đơn vị trong trường; mở rộng nguồn thu và khoán chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường. Kết luận và khuyến nghị • Kết luận Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học để bắt kịp xu hướng phát triển của các nước trong khu vực và thế giới, chúng ta phải tiến hành tự chủ đại học. Học hỏi mô hình tự chủ của Singapore để từ đó nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với tình hình nước ta là một hướng giải pháp hiệu quả, thiết thực. • Khuyến nghị cho những nghiên cứu tiếp theo Như đã trao đổi trong phần giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi mới chỉ nghiên cứu mô hình tự chủ đại học của Singapore, bản chất, nội dung và những đặc điểm của 531 mô hình tự chủ đó, trên cơ sở đó góp nhặt những nhận xét về kinh nghiệm để quá trình tự chủ đại học ở Việt Nam có thể tiếp biến. Còn rất nhiều khoảng trống để các nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp. Vì vậy, những nghiên cứu sắp tới có thể triển khai theo các hướng sau: Kinh nghiệm từ các mô hình tự chủ độc lập, hay mô hình bán tự chủ; Điều kiện và khả năng thực hiện tự chủ ở Việt Nam; thực trạng và những giải pháp cơ bản cho quá trình tự chủ của Việt Nam Có thể nói tự chủ đại học là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Quá trình này sẽ tạo điều kiện để các trường năng động, linh hoạt hơn trong việc tiếp cận các nguồn kinh phí từ xã hội, nâng cao năng lực cạnh trong đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu thị trường lao động. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018/QH14. [2]. Điều lệ trường Đại học ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ - TTg, ngày 30/7/203. [3]. Nghị quyết số 14/2005/NQ – CP ngày 2/11/2005 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. [4]. Luật Giáo dục 2005, Luật số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005. [5]. Thông tư số 07/2009/TTLT – BGDĐT – BNV ngày 15/4/2009 về việc hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập Giáo dục và đào tạo. [6]. Thuongtruong.com.vn/tintuctrongnuoc/Tự chủ Đại học – Kinh nghiệm và bài học từ Singapore. [7]. https://vnu.edu.vn/Tự chủ đại học – xu thế của phát triển.
File đính kèm:
- tu_chu_giao_duc_dai_hoc_theo_mo_hinh_singgapore_bai_hoc_kinh.pdf