Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới

Tóm tắt: Hiện nay, tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trong

quản trị giáo dục đại học, là xu thế tất yếu của các quốc gia trong quản trị đại học, đó

là xu hướng cắt giảm sự can thiệp của nhà nước trong quản lý nhà trường, tăng cường

giao quyền tự chủ cho các trường. Quyền tự chủ đại học ở các quốc gia khác nhau phụ

thuộc vào mô hình nhà nước, trình độ phát triển, văn hóa, xã hội, pháp luật Kinh

nghiệm quốc tế, đặc biệt là những quốc gia có nền giáo dục phát triển cũng như có nét

tương đồng về thể chế nhà nước, về văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng

để đề ra các giải pháp phù hợp cho đổi mới tăng cường quyền tự chủ cho các trường

đại học ở Việt Nam. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo là một trong

những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định nhằm

đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo-một trong ba đột phá chiến lược cần

thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn mới. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi

nghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một số

nước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 1

Trang 1

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 2

Trang 2

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 3

Trang 3

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 4

Trang 4

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 5

Trang 5

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 6

Trang 6

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 7

Trang 7

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 8

Trang 8

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 9

Trang 9

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 03/01/2022 8220
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới

Tự chủ Đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới
 503 
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI 
Nguyễn Công Đức 
Trường Đại học Công đoàn 
Tóm tắt: Hiện nay, tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trong 
quản trị giáo dục đại học, là xu thế tất yếu của các quốc gia trong quản trị đại học, đó 
là xu hướng cắt giảm sự can thiệp của nhà nước trong quản lý nhà trường, tăng cường 
giao quyền tự chủ cho các trường. Quyền tự chủ đại học ở các quốc gia khác nhau phụ 
thuộc vào mô hình nhà nước, trình độ phát triển, văn hóa, xã hội, pháp luật Kinh 
nghiệm quốc tế, đặc biệt là những quốc gia có nền giáo dục phát triển cũng như có nét 
tương đồng về thể chế nhà nước, về văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng 
để đề ra các giải pháp phù hợp cho đổi mới tăng cường quyền tự chủ cho các trường 
đại học ở Việt Nam. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo là một trong 
những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định nhằm 
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo-một trong ba đột phá chiến lược cần 
thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn mới. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi 
nghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một số 
nước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. 
Từ khóa: Tự chủ đại học; kinh nghiệm thế giới; thực tiễn Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề 
Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay là một vấn đề 
được cả xã hội và các ban ngành quan tâm, phải giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo 
dục đại học thì mới có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo 
dục đại học, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo và mấu 
chốt vấn đề là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập 
khu vực và quốc tế. Việc nghiên cứu quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công 
lập trong bối cảnh hiện nay là hoàn toàn cần thiết và kịp thời, sẽ là cơ sở để đề xuất 
các giải pháp tăng cường quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học công lập, góp 
phần đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học 
2. Khái quát một số vấn đề về tự chủ giáo dục đại học 
Tự chủ đại học (University autonomy) là quyền của cơ sở giáo dục đại học 
quyết định sứ mạng và chương trình hoạt động của mình, cách thức và phương tiện 
thực hiện sứ mạng và chương trình hoạt động đó, đồng thời tự chịu trách nhiệm trước 
công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của mình. Đây là hình 
thức quản trị thích hợp với những tổ chức không thuộc hệ thống hành chính (hệ thống 
có cấp trên cấp dưới; cấp dưới do cấp trên bổ nhiệm và phải làm theo quyết định của 
cấp trên.). 
Trên thế giới, khái niệm “tự chủ đại học” (University autonomy) nói đến các 
mối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học (N.V. Varghese, 
Michaela Martin, Thomas Estermann). Xu hướng thay đổi cơ bản là phát huy truyền 
thống tự do học thuật và giảm dần sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan công quyền 
đối với trường đại học. Từ góc độ này, tự chủ đại học là quyền tự do của thể chế đại 
học trong việc ra quyết định và thực thi các quyết định đối với các hoạt động nội bộ 
 504 
của đại học mà không có sự kiểm soát hay can thiệp của nhà nước và bất kỳ sự ảnh 
hưởng nào nếu có của nhà nước cũng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Tự chủ đại 
học là tự chủ thể chế đại học với nghĩa là tự chủ của trường đại học và tự chủ này được 
thể chế hóa bởi hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà nước. 
Thuật ngữ “tự chủ đại học”, mặc dù xuất hiện nhiều trong truyền thông đại 
chúng, nhưng chưa được sử dụng một cách chính thức trong đường lối, chính sách 
giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1979-2005. Nghị quyết số 14/1979/NQ-TW về cải cách 
giáo dục chưa nói đến “đổi mới giáo dục”, “tự chủ”, “tự chịu trách nhiệm” trong giáo 
dục. Nhưng Nghị quyết này sử dụng từ ngữ “cải cách giáo dục” 33 lần, trong đó nêu rõ 
ba mục tiêu của cải cách giáo dục là: (i) chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ lúc thơ ấu 
đến lúc trưởng thành, (ii) thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, (iii) đào tạo và 
bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới. 
Nghị quyết số 04/1993/NQ-TW về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào 
tạo sử dụng từ ngữ “cải cách giáo dục” 3 lần, sử dụng từ ngữ “cải cách” 12 lần, nhưng 
chưa sử dụng từ ngữ “tự chịu trách nhiệm, “trách nhiệm giải trình” và “tự do” trong 
giáo dục. Đặc biệt, Nghị quyết này đã 2 lần sử dụng từ ngữ “tự chủ”. 
Luật Giáo dục (2005) có hiệu lực từ ngày 01-01-2006 chỉ 1 lần sử dụng từ ngữ 
“đổi mới” khi quy định một trong các nhiệm vụ của nhà giáo là “đổi mới phương pháp 
giảng dạy” (Điều 72, Khoản 4). Luật này chỉ 1 lần sử dụng từ ngữ “cải cách” nhưng 
không phải “cải cách giáo dục”nói chung mà cải cách nội dung chương trình của một 
cấp học (Điều 100, Khoản 1). 
Như vậy, đến năm 2005 từ ngữ “tự chủ đại học” (University autonomy) vẫn 
chưa được sử dụng trong Luật Giáo dục (2005), nhưng các trường đại học, trường 
trung cấp,  ... công, tư vấn và giám sát các trường tư. Singapore mở rộng quyền tự chủ cho tất 
cả các trường trong vấn đề chương trình, kinh phí và quản lý nhân sự. 
Chính phủ Singapore đầu tư 20% tổng ngân sách quốc gia cho giáo dục; có 
chính sách tài trợ cho học sinh nghèo và gia đình đông con bằng việc miễn giảm học 
phí, miễn phí thi tốt nghiệp phổ thông, cấp học bổng cho học sinh, sinh viên xuất 
sắc Để nâng cao chất lượng giáo dục, Singapore tăng cường quốc tế hoá giáo dục, 
thực hiện nền giáo dục dựa trên năng lực, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho 
nền kinh tế tri thức và thông tin trong thế kỷ 21. Chính phủ cho phép các trường nước 
ngoài danh tiếng đầu tư 100% vốn để mở trường và khuyến khích các trường trong 
nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đặc biệt là các trường liên kết Mỹ-Singapore. 
Có thể nói, giáo dục đại học ở các nước tiên tiến đều phát triển đa dạng, nhiều 
loại hình, chính quy và không chính quy, công và tư, giáo dục suốt đời Các trường 
được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Nhìn chung, cả 
giáo dục đại học công và tư đều có những mặt mạnh và những hạn chế cần khắc phục. 
Việc ra đời các trường tư và trường công thu học phí đã hình thành nên thị trường 
cung cấp các dịch vụ giáo dục ở các cấp học, đặc biệt là thị trường giáo dục đại học. 
Đa số các nước đều tiến hành cải cách giáo dục đại học theo mô hình của Mỹ, Anh, 
Đức, Nhật Bản, Úc, Singapore 
Việc nghiên cứu mô hình giáo dục đại học của các nước phát triển, giúp Việt 
Nam đúc kết được những kinh nghiệm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của 
đất nước, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 
4. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam 
4.1. Thực trạng tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam 
Giáo dục Đại học của Việt Nam trong nhiều năm qua đã có sự phát triển vượt 
bậc cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo tổng kết năm học 2016-2017 của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo, hiện nay cả nước có 235 trường đại học, học viện (bao gồm 170 
 509 
trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 
viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sỹ, 33 trường cao 
đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam 
hiện có 72.792 người, trong đó giảng viên có trình độ tiến sỹ là 16.514 người và thạc 
sỹ là 43.065 người và hiện đang đào tạo cho khoảng 1,76 triệu sinh viên đại học, cao 
đẳng trên cả nước1. 
Tự chủ về đào tạo 
Công tác tuyển sinh là một khâu quan trọng của quá trình đào tạo cũng như hoạt 
động của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Hằng năm, việc xác định số lượng tuyển 
sinh phải trên cơ sở nhu cầu học tập, nhu cầu nhân lực của xã hội, phụ thuộc vào năng 
lực về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, tài chính, khả năng quản lý giảng dạy của 
từng trường để Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét và ký duyệt. 
Trong những năm qua, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển 
sinh cũng đã có những thành tựu bước đầu quan trọng, cụ thể như: 
 Về xác định chỉ tiêu tuyển sinh: chỉ tiêu tuyển sinh là một nội dung quan 
trọng nhất của tuyển sinh đại học và sau đại học ở các trường, quyết định sự tồn tại và 
phát triển của các ngành đào tạo nói riêng và các trường nói chung. Chỉ tiêu tuyển sinh 
trước đây từ chổ được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cụ thể cho các trường, đồng nghĩa 
với việc cấp ngân sách nhà nước cho trường thông qua chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm 
thì đến nay các trường đại học đã được phép tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh của mình 
thông qua năng lực đào tạo, năng lực đội ngũ và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của 
ngành nghề đào tạo. Trên thực tế việc xác định chỉ tiêu đào tạo của các trường đại học 
công lập hiện nay được thực hiện theo quy định của thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT 
ngày 02/12/2011 quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sỹ, thạc sỹ, 
đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, Thông tư số 20/2012/TT-BGDĐT ngày 
12/6/2012 sửa đổi điều 6 của Thông tư số 57 và Thông tư số 32/2015/TT-BGDĐT 
ngày 16/12/2015 quy định xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở giáo dục đại 
học. Theo đó, chỉ tiêu tuyển sinh của các trường được xác định chủ yếu dựa trên số 
lượng đội ngủ giảng viên cơ hữu của trường và diện tích sàn xây dựng phục vụ nhu 
cầu học tập, thực hành và giải trí của sinh viên. Các chỉ tiêu này có sự khác nhau ở các 
nhóm ngành cũng như ở các nhóm trường, ví dụ các trường đào tạo nhóm ngành nghệ 
thuật, nhóm ngành khoa học y học thì tỷ lệ này thường cao hơn các nhóm ngành khoa 
học xã hội hoặc kinh tế. Thủ tục giao chỉ tiêu cho các trường cũng khác trước đây, nếu 
trước đây Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định giao chỉ tiêu cho từng trường thì hiện 
nay các trường tự xác định chỉ tiêu và đăng ký với Bộ Giáo dục và Đào tạo theo năm 
tài chính, sau đó Bộ sẽ thông báo chỉ tiêu của các trường rộng rãi trên các phương tiện 
thông tin của Bộ để phụ huynh và sinh viên cả nước có thể theo dõi và giám sát chặt 
chẽ việc thực hiện chỉ tiêu của các trường. 
Có thể nói việc giao quyền tự chủ cho các trường trong công tác tự xác định chỉ 
tiêu tuyển sinh của mình thể hiện rõ một bước tiến lớn trong việc giao quyền tự chủ, 
giúp cho các trường chủ động trong việc xác định chỉ tiêu phù hợp với nhu cầu phát 
triển kinh tế xã hội của ngành nghề mình đào tạo, phù hợp với năng lực của cơ sở đào tạo 
Tự chủ về tài chính 
Cơ chế tự chủ về tài chính đã có tác động tích cực đến nhiều khía cạnh của các 
trường đại học công lập, đặc biệt là nguồn thu, việc sử dụng nguồn lực tài chính, thu 
 510 
nhập. Bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các trường năm 2016 là 10.553 
tỷ đồng, các trường đại học công lập đã huy động các nguồn thu sự nghiệp năm 2016 
là 14.878 tỷ đồng2. 
Chính sách tự chủ tài chính đã mang lại một sự đổi mới về chất, tác động tích 
cực hơn đến công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà trường. 
Chính sách tự chủ đã đặt ra yêu cầu buộc các trường (đặc biệt là tập thể lãnh đạo nhà 
trường) phải quan tâm hơn đến công tác quản lý và sử dụng nguồn kinh phí, nâng cao 
tinh thần tiết kiệm, hiệu quả trong sử dụng nguồn lực tài chính. Trên cơ sở đó, các 
trường được chủ động mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, tạo điều 
kiện tăng nguồn thu sự nghiệp, tiết kiệm chi, bổ sung nguồn kinh phí tăng cường cơ sở 
vật chất, trang thiết bị giảng dạy của nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt 
động sự nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy, 87,8% ý kiến khẳng định việc thực hiện 
chính sách tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực tài chính 
của trường. 
Chính sách tự chủ tài chính đã thực sự hướng đến tính hiệu quả trong việc quản 
lý và sử dụng các nguồn lực tài chính, thể hiện qua sự tích lũy, tăng trưởng của việc 
trích lập các quỹ (đặc biệt là Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của trường) và thu 
nhập tăng thêm của người lao động tăng dần qua các năm. 67,9% ý kiến cho rằng, việc 
thực hiện chính sách tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực 
tài chính cho phát triển cơ sở vật chất của trường. 
Các trường chủ động hơn trong việc định hướng phát triển công tác đào tạo, 
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm mở rộng, khai thác các nguồn thu 
sự nghiệp. Trong đó có việc chủ động quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các 
nhiệm vụ khoa học và công nghệ, từ đó thương mại hóa kết quả nghiên cứu, liên kết 
với các doanh nghiệp để tạo ra giá trị thực tiễn từ các công trình nghiên cứu khoa học. 
Ngoài ra, việc tự chủ về tài chính cũng giúp các trường mở rộng quy mô đào 
tạo theo nhu cầu xã hội, tăng cường các hoạt động đào tạo liên kết để nâng cao chất 
lượng đào tạo, nhằm thu hút được sinh viên trong bối cảnh có rất nhiều trường đại học 
cùng được mở mã ngành đào tạo nhiều loại hình nhóm ngành nghề như hiện nay. 
Tự chủ về tổ chức, nhân sự 
Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ thời điểm được giao thí 
điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp với lực 
lượng lao động trực tiếp (giảng viên) tăng lên trong khi đội ngũ lao động gián tiếp 
(chuyên viên và nhân viên) giảm xuống trong đó chú trọng hơn đến việc sử dụng công 
nghệ thông tin hoặc thuê ngoài nhằm tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy. Tính đến 
tháng 7/2017, cơ cấu nhân lực tại các trường như sau: số lượng giảng viên chiếm tỷ lệ 
là 62,52%-lớn nhất trong cơ cấu nhân lực của nhà trường, gấp đôi số lượng nhân viên. 
Đội ngũ lãnh đạo và quản lý chiếm gần 10% tổng số nhân lực tại các trường tự chủ. 
Theo cáo của các trường, số lượng cán bộ/giảng viên có chức danh giáo sư, phó 
giáo sư và học vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường đã tự chủ tăng lên đáng kể, số lượng 
cử nhân giảm xuống so với giai đoạn trước tự chủ. Về phát triển đội ngũ giảng viên, 
năm học 2016-2017, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 72.792 người , 
tăng 4,6% so với năm học 2015-2016, trong đó giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 
(tăng 21,4%) và thạc sĩ là 43.065 (tăng 6,6%). Kết quả tích cực này đến từ việc các 
trường chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ giảng viên, tuyển dụng đội ngũ giảng 
 511 
viên có học vị từ tiến sĩ trở lên, kéo dài thời gian công tác đối với giảng viên có chức 
danh, học vị cao. 
Hình 1. Sự thay đổi về chất lượng nhân sự của các trường tự chủ (2015-2017) 
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017) 
4.2. Một số giải pháp cơ bản 
Thứ nhất, Quốc hội sửa đổi Luật Giáo dục đại học và hoàn thiện thiện hệ thống 
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sau khi được 
sửa đổi. Trong quá trình sửa đổi Luật Giáo dục đại học, một số vấn đề về tự chủ của 
các trường đại học công lập đặc biệt cần làm rõ như: quan niệm về tự chủ đại học, 
quyền tự chủ đại học, nội dung và điều kiện tự chủ đại học; trách nhiệm giải trình của 
các cơ sở Giáo dục đại học tự chủ; hoàn thiện, bổ sung và xác định rõ cơ chế quản trị 
đại học nói chung và vị trí, vai trò của Hội đồng trường nói riêng; làm rõ và phân định 
vai trò chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng trường, Ban giám hiệu và Đảng ủy. Đề xuất 
xem xét sửa đổi các luật có liên khác như Luật Đầu tư công, Luật Viên chức v.v. để 
các trường đại học được thực hiện tự chủ thực sự. 
Thứ hai, cần thay đổi tư duy quản lý Nhà nước theo hướng Nhà nước chỉ quy 
định về khung trình độ quốc gia, chuẩn kỹ năng nghề nghiệp quốc gia để từ đó các cơ 
sở giáo dục đại học sẽ xây dựng mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra cho người học đáp ứng 
các chuẩn nói trên, từ đó các cơ sở giáo dục đại học hoàn toàn tự chủ trong việc tổ 
chức đào tạo. 
Thứ ba, cần đổi mới phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo 
hướng chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang phân cấp và mở rộng quyền tự chủ cho 
các trường đại học. Nhà nước nên thay đổi từ vai tr “người lái đ ” sang vai tr định 
hướng cho sự phát triển, chuyển từ kiểm soát sang giám sát thông qua chính sách kiểm 
định chất lượng và phân bổ ngân sách. Có như vậy thì nhà nước vẫn đảm bảo được 
tính hiệu quả và hiệu lực trong việc thực thi vai trò quản lý của mình. 
Thứ tư, Giao quyền toàn bộ về công tác tuyển sinh cho nhà trường. Bộ Giáo dục 
và Đào tạo cần giao cho các trường quyền quyết định chỉ tiêu tuyển dựa trên tín hiệu 
thị trường lao động và hệ thống đảm bảo chất lượng với các tiêu chí chung do Bộ Giáo 
dục và Đào tạo quy định, quyết định hình thức và phương thức tuyển sinh phù hợp với 
năng lực mỗi trường. 
 512 
Thứ năm, Rà soát, đánh giá sự phù hợp của Luật đầu tư công với cơ chế tự chủ 
Giáo dục đại học. Việc đầu tư cho các trường nên áp dụng cơ chế trọn gói và theo dự 
án. Các dự án quy mô lớn, cần sự hỗ trợ của nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần 
hướng dẫn cơ sở Giáo dục đại học tự chủ đề xuất dự án đầu tư để thẩm định, tổng hợp 
vào kế hoạch đầu tư công trung hạn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định 
và hàng năm bố trí kế hoạch vốn đầu tư cho cơ sở Giáo dục đại học tự chủ để triển 
khai thực hiện. 
Thứ sáu, Hoàn thiện các hướng dẫn theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ 
sở Giáo dục đại học mới ban hành; rà soát, sửa đổi, bổ sung trình cấp có thẩm quyền 
ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, 
kiểm định chất lượng dịch vụ giáo dục đào tạo và thực hiện cơ chế tự chủ. Bên cạnh 
đó, tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong phạm 
vi thẩm quyền liên quan đến tự chủ đại học nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất, 
đồng bộ cho các trường đại học thực hiện cơ chế tự chủ. Trước mắt tập trung vào việc 
rà soát, sửa đổi, ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ trong khi 
chờ đợi sự điều chỉnh về luật và các nghị định. 
5. Kết luận 
Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập là một trong những vấn 
đề có tính cấp bách nhất hiện nay của giáo dục đại học Việt Nam, giải quyết được vấn 
đề này sẽ giúp đổi mới quản trị đại học, đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước 
đối với giáo dục đại học hiện nay. Đúng như Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 
25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp 
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động 
của các đơn vị sự nghiệp công lậpđã đề ra. Trong quá trình mở rộng tự chủ cho các 
cơ sở giáo dục đại học việc nghiên cứu, học tập các mô hình giáo dục đại học quốc tế 
là hết sức cần thiết, đặc biệt từ những nền giáo dục đại học tiên tiến có xuất phát điểm 
gần với Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đồng Thế Hiển (2017), Đổi mới cơ chế tự chủ giáo dục đại học công lập 
giai đoạn 2015-2017: kết quả và kiến nghị chính sách, Tạp chí Tài chính, 
tháng 12/2017. 
2. Phan Thị Bích Nguyệt (2016), Tự chủ đại học và các vấn đề nhức nhối cần 
lời giải, Hội thảo “Tự chủ Đại học-Cơ hội và thách thức” do Hiệp hội các 
trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam tổ chức ngày 30/9/2016. 
3. Nguyễn Kiều Oanh (2017), Đường lối chiến lược, chính sách phát triển 
giáo dục đại học Việt Nam trước yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và nâng 
cao năng lực cạnh tranh quốc tế, Chuyên đề Bồi dưỡng Ngạch giảng viên 
chính, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017. 
4. Maassen, P., Gornitzka, & Fumasoli, T. (2017). University reform and 
institutional autonomy: A framework for analysing the living autonomy. 
Higher Education Quarterly, 71(3), 239. 
5. Provot, E.B. & Easterman, T. (2017). University Autonomy in Europe III 
The Scorecard 2017. Available at: 
https://eua.eu/resources/publications/830:the-european-university-
 513 
association-and-science-europe-join-efforts-to-improve-scholarly-research-
assessment-methodologies.html. 
6. Nguyễn Minh Thuyết (2014): Tự chủ đại học-Thực trạng và giải pháp, Đối 
thoại Giáo dục Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề Cải cách giáo dục đại học 
ở Việt Nam, ngày 31/07 và 01/08/2014 tại TP Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdftu_chu_dai_hoc_o_viet_nam_hien_nay_tu_kinh_nghiem_the_gioi.pdf