Tự chủ Đại học ở các trường Đại học địa phương: Những khó khăn - thách thức và lộ trình tiến tới tự chủ
Tự chủ đại học là điều kiện giúp các cơ sở giáo dục đại học (GDDH) vận hành
tốt hơn khi các trường được nắm vận mệnh của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động lực để
các trường đại học đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động, đồng thời
cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH, tạo điều kiện để đa dạng hóa các
hoạt động giáo dục. Vì thế, xu hướng chung trên thế giới hiện nay là “chuyển dịch dần
từ mô hình Nhà nước kiểm soát sang các mô hình có mức độ tự chủ cao hơn, từ Nhà
nước kiểm soát (state control) sang Nhà nước giám sát (state supervison)”[1]. Do đó
tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên
tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Việc trao quyền tự chủ cho các cơ
sở giáo dục đại học là xu Việt Nam hiện nay. Điều 32, Luật Giáo dục Đại học sửa đổi
(2018) khẳng định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm
giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm
tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học”[2]. Tuy vậy, đã 8 năm
trôi qua kể từ khi Luật Giáo dục Đại học ban hành đến nay thì kết quả tự chủ đại học
của Việt Nam đạt được vẫn còn rất khiêm tốn và không tránh khỏi những khó khăn,
vướng mắc nhất là ở các trường đại học địa phương (ĐHĐP). Trên cơ sở tìm hiểu việc
tự chủ ở một số trường đại học trên thế giới và thực trạng triển khai tự chủ trong giáo
dục đại học ở Việt Nam thời gian qua chúng tôi phân tích những kết quả đã đạt được
và những khó khăn thách thức đặt ra đối với các trường đại học ở nước ta nhất là các
trường đại học địa phương trên lộ trình triển khai việc tự chủ đại học đề xuất một số
giải pháp để tiếp tục triển khai việc tự chủ ở các trường ĐHĐP nói chung và trường
Đại học Quảng Bình nói riêng trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ Đại học ở các trường Đại học địa phương: Những khó khăn - thách thức và lộ trình tiến tới tự chủ
401 TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỊA PHƯƠNG: NHỮNG KHÓ KHĂN - THÁCH THỨC VÀ LỘ TRÌNH TIẾN TỚI TỰ CHỦ Nguyễn Đức Vượng Lê Trọng Đại Trường Đại học Quảng Bình TÓM TẮT: Trên cơ sở xem xét việc tự chủ trong giáo dục đại học một số nước trên thế giới và thực trạng triển khai tự chủ trong giáo dục đại học ở Việt Nam thời gian qua; nhóm tác giả phân tích những khó khăn - thách thức đặt ra đối với các trường đại học địa phương Việt Nam trên lộ trình triển khai việc tự chủ đại học. Trong bài viết này nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp để tiếp tục triển khai việc tự chủ giáo dục đại học ở các trường đại học địa phương nói chungvà trường Đại học Quảng Bình nói riêngtrong thời gian tới. Từ Khóa: Tự chủ, khó khăn, thách thức, giải pháp, lộ trình. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tự chủ đại học là điều kiện giúp các cơ sở giáo dục đại học (GDDH) vận hành tốt hơn khi các trường được nắm vận mệnh của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động lực để các trường đại học đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục. Vì thế, xu hướng chung trên thế giới hiện nay là “chuyển dịch dần từ mô hình Nhà nước kiểm soát sang các mô hình có mức độ tự chủ cao hơn, từ Nhà nước kiểm soát (state control) sang Nhà nước giám sát (state supervison)”[1]. Do đó tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học là xu Việt Nam hiện nay. Điều 32, Luật Giáo dục Đại học sửa đổi (2018) khẳng định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học”[2]. Tuy vậy, đã 8 năm trôi qua kể từ khi Luật Giáo dục Đại học ban hành đến nay thì kết quả tự chủ đại học của Việt Nam đạt được vẫn còn rất khiêm tốn và không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc nhất là ở các trường đại học địa phương (ĐHĐP). Trên cơ sở tìm hiểu việc tự chủ ở một số trường đại học trên thế giới và thực trạng triển khai tự chủ trong giáo dục đại học ở Việt Nam thời gian qua chúng tôi phân tích những kết quả đã đạt được và những khó khăn thách thức đặt ra đối với các trường đại học ở nước ta nhất là các trường đại học địa phương trên lộ trình triển khai việc tự chủ đại học đề xuất một số giải pháp để tiếp tục triển khai việc tự chủ ở các trường ĐHĐP nói chung và trường Đại học Quảng Bình nói riêng trong thời gian tới. 2. NỘI DUNG 2.1. Việc tự chủ trong giáo dục ĐH một số nước trên thế giới Thái Lan bắt đầu thực hiện cơ chế tự chủ đại học từ năm 1992 và tất cả các trường đại học ở Thái Lan đều được quyền tự chủ rất lớn. Mặc dù được xem là đại học 402 tự chủ nhưng các trường đại học ở Thái Lan vẫn được nhận một khoản trợ cấp nhất định của Nhà nước, song các trường được hoạt động bên ngoài bộ máy hành chính của Chính phủ và được Bộ Giáo dục& Đào tạo giám sát. Trường được quyền tự do xác định mức lương của cán bộ giảng viên, nhân viên và tự quuyết về nhân sự. Mục tiêu của chính sách này là giúp các trường đại học tăng hiệu quả trong việc sử dụng tài chính và quản lý trường (Wasan Kanchanamukda, 2013). Khi thực hiện tự chủ đại học, Chính phủ Thái Lan gặp 2 mâu thuẫn đó là tăng chất lượng giáo dục và giảm học phí trong các trường đại học. Nhật Bản thông qua Đạo luật Hiệp hội Đại học Quốc gia năm 2003 trao quyền tự chủ về mặt pháp lý cho tất cả các trường đại học với quyền lực nhiều hơn cho Giám đốc/Hiệu trưởng và Ban quản trị trường. Theo thông tin từ nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Đình Đức (2018) thì sau khi thực hiện tự chủ, cơ cấu thu nhập của trường đại học có sự thay đổi tích cực. Ngân sách hỗ trợ hoạt động thường chiếm 33% (trước tự chủ 50%); Tuy nhiên, tổng nguồn thu của các trường vẫn tăng lên do nguồn thu từ nghiên cứu khoa học tăng đáng kể [3]. Năm 1985, Trung Quốc bắt đầu triển khai quyền tự chủ tài chính của các trường đại học. Tuy nhà nước vẫn cấp ngân sách cho các trường đại học nhưng ngân sách hỗ trợ chi thường xuyên giảm đi và có sự khác biệt giữa các trường. Chính phủ Trung Quốc đầu tư có lựa chọn, ưu tiên thúc đẩy trường đạt đẳng cấp quốc tế. Theo đó các trường đại học ở Trung Quốc được tự quyết định học phí. Mức học phí do nhà trường xác định theo nguyên tắc chia sẻ chi phí giữa Nhà nước, nhà trường, người học và không đồng nhất giữa các vùng, các trường và các ngành học. Bên cạnh việc các nước ở các khu vực khác nhau có mức độ tự chủ đại học khác nhau, ở trong cùng một quốc gia, mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) có thể cũng rất khác nhau tùy theo tính chất, chất lượng của các cơ sở GDĐH đó. Theo báo cáo của ngân hàng thế giới (WB) năm 2008, trên thế giới có 4 mô hình quản trị đại học với các mức độ tự chủ khác nhau gồm: (1). ... n sinh thường phải mất vài năm và khi đó tình hình đội ngũ, nhu cầu xã hội đã có những thay đổi nhất định. + Khó khăn - thách thức trong công tác quản trị nhân sự Với bất kỳ trường đại học nào thì trình độ của đội ngũ giảng viên luôn giữ vai trò rất quan trọng; nó quyết định chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học làm nên thương hiệu của nhà trường. Vì các trường đại học địa phương trong giai đoạn đầu, đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sỹ vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Khi Luật Giáo dục Đại học ra đời và có hiệu lực, các trường ĐHĐP đều đẩy mạnh việc thu hút tuyển dụng giảng viên có trình độ cao về công tác, mặt khác các trường đều ban hành những quy định và tạo điều kiện cho giảng viên nâng cao trình độ bằng cách đi học sau đại học để lấy bằng thạc sỹ, tiến sỹ. Các ĐHĐP cũng đề nghị với lãnh đạo tỉnh, thành phố nơi trường đóng ban hành chính sách thu hút nhân tài để khuyến khích các cán bộ khoa học có trình độ cao về trường địa phương công tác hoặc hỗ trợ các giảng viên của trường đi đào tạo nâng cao trình độ. Tuy vậy thông thường chính sách thu hút nhân tài của địa phương và chính sách hỗ trợ của các trường ĐHĐP cũng không đủ sức hấp dẫn để các nhà khoa học trình độ cao rời các trường đại học lớn, các viện nghiên cứu của trung ương về địa phương công tác. Vì thế cách thu hút này gần như không mang lại kết quả đáng kể. Do đó các trường ĐHĐP chủ yếu dựa vào con đường khuyến khích các giảng viên của trường mình đi nâng cao trình độ. Con đường này đã giúp các trường cải thiện đáng kể trình độ của giảng viên. Tuy nhiên các trường đại học địa phương mới 407 gần như phổ cập được trình độ thạc sỹ còn số lượng tiến sỹ chỉ mới đạt khoảng 10 - 20%, số lượng phó giáo sư, giáo sư lại càng ít. Mặt khác trong số các nghiên cứu sinh, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sỹ mặc dù được trường và tỉnh hỗ trợ kinh phí trong thời gian học tập, nghiên cứu nhưng khi tốt nghiệp thì khoảng 30% không về lại cơ sở cử đi đào tạo mà có xu hướng xin chuyển công tác đến các trường đại học lớn, hoặc các cơ quan thuộc các thành phố lớn; mặc dù họ buộc phải bồi hoàn kinh phí được hỗ trợ trong quá trình đi đào tạo nâng cao trình độ. Những tiến sỹ mới bảo vệ xong đã xin chuyển công tác bởi vì họ được cơ sở mới tiếp nhận với chính sách đãi ngộ cao hơn rất nhiều về lương và khoản hỗ trợ thu hút để họ có thừa kinh phí bồi hoàn khoản hỗ trợ của địa phương và trường cũ cấp cho giảng viên mà họ thu hút. Một số tiến sỹ trẻ mới đào tạo từ nước ngoài về trường theo chính sách thu hút nhân tài qua một thời gian công tác họ thấy thu nhập thấp, tuyển sinh khó khăn, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và nghiên cứu nhỏ bé phần lớn cũng tìm cách chuyển đến các trường đại học lớn. Như vậy ở các trường ĐHĐP tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ trở lên vốn đã thấp lại còn bị chảy máu chất xám do đó vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn luôn là bài toán hóc búa đối với các nhà quản lý. Đây cũng là khó khăn -thách thức mà hầu hết các trường đại học địa phương đang phải đối mặt. + Khó khăn - thách thức trong lĩnh vực tài chính Vì các trường ĐHĐP đều do chính quyền địa phương trực tiếp quản lý về nhân sự, đầu tư cơ sở vật chất, cấp ngân sách trả lương cho đội ngũ, cấp học phí đào tạo các ngành sư phạm. Tuy vậy ngân sách của đa số các địa phương đều rất eo hẹp vì phải xin hỗ trợ của trung ương (tính đến năm 2016 cả nước chỉ có 13/63 tỉnh thành tự cân đối được ngân sách). Ở Đại học Quảng Bình, UBND tỉnh cấp ngân sách cho đào tạo các ngành sư phạm nhưng chỉ đáp ứng mức 60% kinh phí theo qui định (đây cũng là tỷ lệ ngân sách trung ương cấp cho Tỉnh), do đó nhà trường phải tự bù đắp 40% chi phí đào tạo trong khi sinh viên sư phạm được miễn học phí, vì thế nhà trường không thể thu học phí để bù đắp thiếu hụt kinh phí đào tạo. Đối với các ngành ngoài sư phạm Nhà trường được phép thu học phí nhưng UBND tỉnh khống chế trần mức thu học phí. Với nhóm ngành: Khoa học xã hội, kinh tế, luật, nông, lâm, thủy sản: 260.700 dồng/tín chi/ 1 sinh viên (từ năm học 2020 - 2021); Với nhóm ngành: Khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ; thể dục thể thao, nghệ thuật, khách sạn, du lịch: 311.100 đồng/tín chỉ/ 1 sinh viên. Với mức học phí này việc đảm bảo các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong hoàn cảnh hiện nay là rất khó khăn. Đó là chưa tính đến số lượng sinh viên nhập học thường rất ít. Với số lượng sinh viên ít nên kinh phí gần như chỉ đủ dành cho dạy và học, phần dành cho nghiên cứu khoa học và đầu tư cơ sở vật chất gần như không đáng là bao. Mặt khác những năm gần đây do số lượng tuyển sinh giảm sút dẫn tới nguồn thu từ học phí của trường giảm nên để duy trì hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư cơ vật chất và trả lương cho cán bộ giảng viên, nhân viên đã và đang trở thành bài toán khó đối với lãnh đạo nhà trường. + Khó khăn trên phương diện cơ chế, chính sách Mặc dù Luật Giáo dục Đại học sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2020, nhưng các văn bản hướng đẫn thi hành vẫn chưa được ban hành đầy đủ thậm chí một số văn bản luật thiếu đồng bộ nên việc triển khai của các trường đại học đều gặp phải những khó khăn nhất định. Theo tiến sỹ Lê Đình Thăng: “Các trường đại học công lập tuy đã được giao tự chủ song trên thực tế hoạt động vẫn đang tuân thủ và là đối tượng điều chỉnh của nhiều Luật như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Xây dựng, Luật Viên chức và các luật về Thuế, tài 408 chính, các Nghị định của Chính phủ Vì vậy, các trường đại học công lập cho rằng cơ sở pháp lý về tự chủ đại học là chưa vững chắc, thiếu đồng bộ, hệ thống pháp luật vẫn có những quy định chưa phù hợp với quá trình vận hành nên quá trình tự chủ nhiều lúc vẫn mang tính hình thức. Các văn bản quy phạm liên quan hầu như không có các điều kiện cụ thể hóa được các nội dung tự chủ đại học, đặc biệt là chưa quy định được điều kiện để giao quyền tự chủ (việc giao quyền tự chủ cho các trường chỉ dựa vào đề án của trường, không có quy định chung về tiêu chí tự chủ)”[5]. Chúng tôi thấy rằng qui định về kiểm định chất lượng các trường đại học là cần thiết, hơn nữa chu kỳ cứ 5 năm kiểm định một lần cũng là một gánh nặng đối với các trường ĐHĐP. Bởi vì chi phí cho một đợt kiểm định chất lượng bằng đánh giá ngoài sẽ tiêu tốn của trường trên 2 tỷ đồng trong hoàn cảnh tuyển sinh khó khăn. 2.3.2. Giải pháp khắc phục khó khăn - thách thức và lộ trình tiến tới tự chủ của các trường đại học địa phương + Nhóm giải pháp giải quyết khóa khăn - thách thức về tuyển sinh Giải quyết khó khăn thách thức này các trường đại học phải cùng lúc tiến hành một nhóm giải pháp cụ thể sau đây: - Trường thành lập 1 bộ phận chuyên trách, có nhiệm vụ truyền thông tuyển sinh quanh năm. Bộ phận này được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Giám hiệu. Bộ phận truyền thông tuyển sinh có nhiệm vụ xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch truyền thông tuyển sinh tổng thể theo từng năm và kế hoạch truyền thông cụ thể từng tháng. Ngoài thành phần cứng thì bộ phận truyền thông tuyển sinh phải có sự tham gia của cán bộ làm nhiệm truyền thông tuyển sinh của phòng Đào tạo, phòng Công tác sinh viên, phòng Khoa học đối ngoại và cán bộ được phân công làm nhiệm vụ truyền thông tuyển sinh của các khoa (bộ môn) có ngành đào tạo có chỉ tiêu tuyển sinh. - Tổ chức cho toàn thể cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên của nhà trường tham gia truyền thông tuyển sinh. Trường có các biện pháp để mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên coi truyền thông tuyển sinh là nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân, để họ tích cực, tự giác tham gia công tác truyền thông bằng mọi cách mà họ có thể. + Giải pháp giải quyết khóa khăn trong việc mở mã ngành đào tạo mới Trường Đại học được chủ động xây dựng hồ sơ mở mã ngành đào tạo mới và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc mở mã ngành mới này khi trường đại học đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đề ra. Bộ Giáo dục & Đào tạo sẽ tiến hành công tác kiểm tra khi các trường bắt đầu triển khai kế hoạch đào tạọ ngành học mới vừa tuyển sinh khóa đầu tiên. Đây là cách rút ngắn thời gian làm thủ tục mở mã ngành và đơn giản hóa quy trình xét duyệt, cấp phép. + Nhóm giải pháp giải quyết khóa khăn trong công tác quản trị nhân sự Để có độ ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao đảm bảo các điều kiện về tuyển sinh, mở mã ngành đào tạo mới, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, các trường ĐHĐP phải xây dựng được kế khoạch có tính chiến lược và kế hoạch cụ thể của từng giai đoạn. Các trường ĐHĐP đều phải chịu sự quản lý về nhân sự của Đảng và chính quyền địa phương do đó cấp ủy Đảng và lãnh đạo chính quyền địa phương (cấp tỉnh, thành phố) hỗ trợ trường bằng chính sách thu hút nhân tài đủ hấp dẫn các giảng viên 409 trẻ là thạc sỹ, tiến sỹ tốt nghiệp xuất sắc ở trong nước và nước ngoài xung phong về trường công tác. Những ngành nghề đào tạo thuộc diện cần thiết đối với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương thì chính quyền địa phương cần có cơ chế chính sách riêng để thu hút các cán bộ giảng viên có trình độ tiến sỹ về trường ĐHĐP làm cán bộ giảng dạy. + Nhóm giải pháp giải quyết khó khăn trong công tác tài chính Hiện nay các trường đại học công lập được trao quyền tự chủ về tài chính ở một mức độ nhất định (trường ĐHĐP cũng được phép lập kế hoạch tài chính và tự quyết định việc thu chi, được ban hành qui chế chi tiêu nội bộ, quy định mức học phí đào tạo tùy theo loại hình) tuy vậy UBND Tỉnh (Thành phố) vẫn khống chế trần thu học phí của trường ĐHĐP rất thấp. Chúng tôi cho rằng để nhà trường tự chủ về tài chính thì Tỉnh phải xóa bỏ quy định trên và cho phép trường đại học tự xác định mức thu học phí đảm bảo các hoạt động học thuật, bổ sung sửa chữa thiết bị dạy học và có phần hỗ trợ thu nhập tăng thêm cho cán bộ giảng viên. Mặc dù trao quyền tự chủ gần như hoàn toàn cho các trường đại học nhưng các tỉnh (thành phố) có trường ĐHĐP và Bộ Giáo dục & Đào tạo vẫn cần hỗ trợ kinh phí cho nhà trường khi xét thấy nguồn thu của nhà trường không đáp ứng đủ nhu cầu chi cho các hoạt động (nhất là kinh phí bổ sung hoặc cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất và kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học của nhà trường). + Nhóm giải pháp giải quyết khó khăn về cơ chế, chính sách Trong thời gian tới chúng tôi cho rằng cần thống nhất một đầu mới quản lý lĩnh vực chuyên môn của trường đại học đó là Bộ Giáo dục & Đào tạo nhưng chủ yếu Bộ giữ vai trò cơ quan giám sát. Những lĩnh vực còn lại thì trao quyền tự chủ hoàn toàn cho trường đại học. Riêng các trường ĐHĐP, thì lĩnh vực nhân sự do địa phương trực tiếp giám sát. Mặt khác, nhà nước cần xóa bỏ những nội dung chồng chéo trong các văn bản luật và dưới luật. Trên lĩnh vực khoa học & công nghệ chính quyền địa phương nên có cơ chế dành ưu tiên cho trường ĐHĐP trong việc phê duyệt, phân bổ hoặc đặt hàng các đề tài khoa học, dự án nghiên cứu chuyển giao khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. + Lộ trình tự chủ dành cho các trường ĐHĐP Căn cứ thực tế của các trường ĐHDP, Bộ Giáo dục & Đào tạo nên có lộ trình tự chủ dành riêng cho các trường ĐHĐP. Chúng tôi xin mạo muội phác thảo một lộ trình tự chủ cho các trường ĐHĐP như sau: Về lộ trình tổng thể: các trường ĐHĐP triển khai tự chủ từng bước và tiến tới tự chủ toàn diện trong 10 năm (2021 - 2030), chia làm 2 giai đoạn. Trong 5 năm đầu (2021 - 2025) các trường triển khai việc tự chủ về học thuật, nhân sự, tuyển sinh, quản lý sinh viên và trong 5 năm cuối (2026 - 2030) tự chủ về tài chính. Về lộ trình cụ thể: Trong giai đoạn 1 (2021 - 2025) thực hiện tự chủ về học thuật, nhân sự, tuyển sinh, quản lý sinh viên với các bước 410 Bước 1: xây dựng các chương trình đào tạo đảm bảo chất lượng được đánh giá kiểm định chất lượng một cách khách quan. Bước 2: Hình thành các quy chế, cơ chế phù hợp với việc tự chủ của trường theo từng đại học địa phương, (về mở ngành đào tạo, xác định chỉ tiêu tuyển sinh, về quản lý người học) Bước 3: Nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý, đội ngũ chuyên môn hoàn chỉnh bộ máy quản lý của nhà trường. Trong giai đoạn 2 (2026 - 2030) thực hiện tự chủ về tài chính: Bước 1: Nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách để trao quyền tự chủ về tài chính cho ĐHĐP, các trường ĐHĐP hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ khoa học. Nhà trường được phép tự xác định mức học phí của tất cả các ngành đàò tạo của trường dựa trên kinh phí đào tạo cụ thể của từng ngành học ở mức đảm bảo chất lượng (bỏ trần học phí mà địa phương quy định bắt buộc nhà trường phải áp dụng). Bước 2: Quy định cụ thể và công khai những khoản thu sự nghiệp ngoài học phí theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và tích lũy hợp lý. Trường tự quyết định thu nhập tăng thêm của người lao động theo quy chế chi tiêu nội bộ, ngoài tiền lương ngạch, bậc theo quy định của Nhà nước. Bước 3: Trường ĐHĐP dựa trên thế mạnh nguồn lực về đội ngũ, cơ sở vật chất để lựa chọn và mở một số ngành đào tạo chất lượng cao từ đó đưa ra mức học phí tương xứng để đảm bảo chất lượng đào tạo. 3. KẾT LUẬN Tự chủ đại học ở các trường ĐHĐP Việt Nam hiện vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Nhóm tác giã đã mạnh dạn nêu lên được thực trạng khó khăn, thách thức và đề xuất nhóm giải pháp trên lộ trình tiến tới tự chủ Đại học địa phương. Với khuôn khổ một bài viết tham gia hội thảo nên có nhiều vấn đề chưa được nhóm tác giả nghiên cứu thật thấu đáo. Với thời gian có hạn chắc rằng bài viết khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Tuy nhiên tự chủ đại dọc ở trường ĐHĐP là chủ đề mà nhóm tác giả mong muốn được trao đổi và nhận được sự góp ý của các nhà khoa học ở Hội thảo lần này./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hoàng Thị Xuân Hoa (2020), Tự chủ đại học: Xu thế của phát triển, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, [2]. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luât Giáo dục Đại học, Luật số: 34/2018/QH14, Hà nội, ngày 19 tháng 11 năm 2018. [3]. Nguyễn Thu Hương và cộng sự (2019), “Tự chủ tài chính đại học ở các nước trong khu vực và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí tài chính, bản điện từ ngày 17/8/2019, [4]. Thục Anh (2017), “Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập”, báo thi đua khen thưởng, bản điện từ ngày 20/10/2017. 411 [5]. Trung tâm Truyền thông Giáo dục - Bộ GD& ĐT, “Hội nghị Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập” Bản tin điện tử Bộ Giáo dục & đào tạo, ngày 20/10/2017. [6]. Thùy Linh (2020), “Những con số biết nói về kết quả thực hiện tự chủ của Đại học Tôn Đức Thắng”, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ngày 29/8/2020, [7]. Hồng Lộc (2019), “Nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập”, Báo Kiểm toán điện tử, ngày 19/3/2019.
File đính kèm:
- tu_chu_dai_hoc_o_cac_truong_dai_hoc_dia_phuong_nhung_kho_kha.pdf