Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Trên thế giới, tự chủ đại học đã bắt đầu từ rất sớm. Trải qua lịch sử hình thành

và phát triển, các trường đại học đã từng bước được quyền tự chủ trên các lĩnh vực

thuộc phạm vi hoạt động của cơ sở giáo dục. Hiện nay, có nhiều mô hình về tự chủ

như: tự chủ hoàn toàn, bán tự chủ và tự chủ từng phần. Tiêu biểu như Hoa Kỳ,

Singapore hay Nhật Bản. Bên cạnh đó, vẫn còn những quốc gia vẫn chưa được tự chủ

đại học như Malaysia. Ở Việt Nam, tự chủ đại học đã được triển khai và ban hành

chính sách từ nhà nước từ khá sớm. Đến nay, các trường đại học đã đạt được một số

quyền tự chủ nhất định. Song, trên thực tế, tự chủ đại học đang đối mặt với nhiều vấn

đề như sự quản lý, giám sát từ phía Bô giáo dục, các luật định chồng chéo trên các lĩnh

vực, khiến cho việc tự chủ đại học đang bị trói buộc và chưa đạt được kết quả như

mong muốn. Để tự chủ đại học được thực hiện một cách triệt để, cần có sự điều tiết,

hoạch định lại luật pháp trên các lĩnh vực để tránh sự chồng chéo giữa luật và quỳền tự

chủ đại học. Bên cạnh đó, cần tăng thêm quyền tự chủ cho các trường đại học nhất là

quyền tự do học thuật.

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 1

Trang 1

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 2

Trang 2

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 3

Trang 3

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 4

Trang 4

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 5

Trang 5

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 6

Trang 6

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 7

Trang 7

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 8

Trang 8

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 9

Trang 9

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 03/01/2022 9920
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Tự chủ Đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
 491 
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC NHÌN TỪ THẾ GIỚI VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆT NAM 
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY 
 Nguyễn Thị Huyền Thảo 
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM 
 Tóm tắt 
Trên thế giới, tự chủ đại học đã bắt đầu từ rất sớm. Trải qua lịch sử hình thành 
và phát triển, các trường đại học đã từng bước được quyền tự chủ trên các lĩnh vực 
thuộc phạm vi hoạt động của cơ sở giáo dục. Hiện nay, có nhiều mô hình về tự chủ 
như: tự chủ hoàn toàn, bán tự chủ và tự chủ từng phần. Tiêu biểu như Hoa Kỳ, 
Singapore hay Nhật Bản. Bên cạnh đó, vẫn còn những quốc gia vẫn chưa được tự chủ 
đại học như Malaysia. Ở Việt Nam, tự chủ đại học đã được triển khai và ban hành 
chính sách từ nhà nước từ khá sớm. Đến nay, các trường đại học đã đạt được một số 
quyền tự chủ nhất định. Song, trên thực tế, tự chủ đại học đang đối mặt với nhiều vấn 
đề như sự quản lý, giám sát từ phía Bô giáo dục, các luật định chồng chéo trên các lĩnh 
vực, khiến cho việc tự chủ đại học đang bị trói buộc và chưa đạt được kết quả như 
mong muốn. Để tự chủ đại học được thực hiện một cách triệt để, cần có sự điều tiết, 
hoạch định lại luật pháp trên các lĩnh vực để tránh sự chồng chéo giữa luật và quỳền tự 
chủ đại học. Bên cạnh đó, cần tăng thêm quyền tự chủ cho các trường đại học nhất là 
quyền tự do học thuật. 
Từ khoá: đại học, tự chủ, quản lý, pháp luật, giáo dục 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ. 
Đổi mới giáo dục toàn diện là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục và là nhiệm 
vụ chung của toàn hệ thống chính trị nước ta. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong 
việc đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát 
triển đất nước. Kể từ khi Nghị Quyết 29 TW về đổi mới giáo dục toàn diện đã tạo 
động lực cho những nhà quản lý, nhà giáo, nhà khoa học tham gia vào các hoạt động 
để thực hiện thành công công cuộc đổi mới giáo dục mà Đảng và Nhà nước đề ra. Đến 
nay, giáo dục đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ từ chính sách đến thực tiễn và 
mang lại những hiệu quả đáng kể. Giáo dục phổ thông đã có nhiều thay đổi ấn tượng 
và được nghi nhận như một sự kiện nổi bật của giáo dục khu vực, góp phần đưa giáo 
dục Việt Nam vào các bảng đánh giá, xếp hạng với các nước có nền giáo dục phát 
triển. Trong bối cảnh đó, giáo dục đại học nước ta cũng đang trong quá trình chuyển 
động, đổi mới đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và thế giới. Kinh nghiệm của các 
nước có nền giáo dục đại học phát triển đó chính là việc tự chủ trong điều hành, quản 
lý, nội dung, chương trình giảng dạy và tuyển sinh...Ở Việt Nam, trong những năm 
gần đây, tự chủ đại học được đề cập nhiều, vì đây là cách để cho các trường đại học 
được cởi trói, phát triển theo hướng riêng của mình trong sự phát triển chung của giáo 
dục Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, tự chủ đại học đang đối mặt với nhiều vấn đề phát 
sinh trong quá trình triển khai và thực hiện. Vậy, tự chủ đại học là gì? Tự chủ trên thế 
giới như thế nào? Ở Việt Nam tự chủ đại học hiện nay như thế nào? Bài viết trình bày 
và phân tích một số vấn đề về tự chủ đại học nhìn từ thế giới và thực trạng của Việt 
Nam trong bối cảnh hiện nay. 
 492 
2. Tổng quan về tự chủ đại học 
Theo từ điển tiếng Việt, tự chủ là tự điều hành, quản lí mọi công việc của mình, 
không bị ai chi phối1. Điều này có nghĩa, tự chủ là khả năng tự điều hành, quản lý 
công việc của một cá nhân hay một nhóm người trong tổ chức để đạt được hiệu quả 
trong công việc. Như vậy, tự chủ là khả năng tự điều hành và quản lý mọi công việc 
của một cá nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao đạt hiệu quả cao 
nhất có thể. 
Tự chủ đại học là gì? Theo báo cáo đề dẫn của Debreczeni (2002) trong Hội 
thảo quốc tế “Tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức” thì tự chủ đại học được hiểu 
là tự chủ thể chế (institutional autonomy)2. Nghĩa là tự chủ là dạng điều kiện cho phép 
một tổ chức giáo dục đại học điều hành hoạt động mà không có sự can thiệp từ bên 
ngoài. Sự tự do trong công việc sẽ thúc đẩy sự năng động và sự phát triển của từng cá 
nhân và kéo theo đó là sự vững mạnh của cơ sở giáo dục đại học. Trên thực tiễn, tự 
chủ trong giáo dục đại học diễn ra trên các phương diện sau: 
- Tự chủ thực chất (substantive autonomy): trường đại học có quyền xác định 
các chương trình học tập và mục đích của những chương trình này. 
- Tự chủ thủ tục (Procedural autonomy): trường đại học có quyền xác định các 
phương tiện cần thiết để hoàn thành các ưu tiên đáp ứng với các nhiệm vụ nằm trong 
chính sách quốc gia. 
- Tự chủ tổ chức (Organic autonomy): trường đại học có quyền xác định các tổ 
chức học thuật, nên dựa vào các Khoa và Phòng/Ban hay các trường, các viện nghiên 
cứu,... 
- Tự chủ trong quản trị là sự tự do của cơ sở đào tạo trong việc sắp xếp và tổ 
chức các sự kiện, các mối quan hệ liên quan đến công việc lập kế hoạch, tổ chứcvà 
điều phối. 
- Tự chủ về tài chính là sự tự do của cơ sở đào tạo trong việc sử dụng các nguồn 
lực tài chính theo chiến lược ưu tiên mà mình lựa chọn3. 
Có thể nói, tự ch ... yết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, 
ngày 4/11/ 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đã giao 
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo phát huy vai trò của 
hội đồng trường. Bên cạnh đó, Nghị định số 16/2015/ND-CP ngày 14/ 02/ 2015 có nêu 
rõ: “Cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu 
trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của 
đơn vị sự nghiệp công”. Điều này được xem là chỉ đạo chung, rõ ràng và cụ thể về 
quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục và đào tạo trong đó có các trường đại học. 
Cho đến nay, quyền tự chủ của các trường đại học đã được ban hành dựa trên 
các Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị sau: Quyết định số 153/2003/QĐ - TTg ngày 
30/7/2003; Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 2014 về Ban hành 
13 Điều 14, Luật giáo dục 2005 
14 Khoản 1, Điều 32 của Luật Giáo dục đại học năm 2012 
15 Luật Giáo dục Đại học số 08/2012/QH13 do Quốc hội ban hành ngày18/6/2012. 
 497 
Điều lệ trường đại học đã xác định nhiệm vụ, quyền hạn, quyền tự chủ và tự chịu trách 
nhiệm của trường đại học. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới 
cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, Chỉ thị số 
296/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/2/2010 về đổi mới quản lý giáo dục 
trong giai đoạn 2010 - 2012 nêu rõ “việc đổi mới quản lý GDĐH bao gồm quản lý nhà 
nước về giáo dục và quản lý của các cơ sở đào tạo là khâu đột phá để tạo ra sự đổi mới 
toàn diện của Giáo dục đại học”. Từ đây, các trường đại học lần lượt được giao quyền 
tự chủ trên các lĩnh vực sau: 
- Tự chủ về tài chính bao gồm tự chủ về các nguồn thu, chi: Nghị định số 
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ đã nói đến việc giao quyền tự chủ tài 
chính cho các “đơn vị sự nghiệp dịch vụ công”, trong đó có các trường đại học. Nghị 
định 43/2006, nghị định 16/2015 và nghị quyết số 77/2014 về cơ chế tự chủ cho các 
trường đại học công lập hiện nay đều dựa vào khả năng tự chủ về kinh phí hoạt động 
thường xuyên cũng như chi đầu tư của các trường 16. 
+ Quyền tự chủ trong hoạt động hợp tác quốc tế: Thông tư liên tịch số 
07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15/ 4/ 2015 hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự 
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự 
nghiệp công lập giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, quy định về hợp tác quốc tế tại các 
trường đại học tại Điều 42, 43 trong Điều lệ nhà trường quy định nhiệm vụ, quyền hạn 
và quản lý của trường đại học trong hoạt động hợp tác quốc tế. Theo đó, các trường 
được phép xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương trình hợp tác quốc tế 
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của nhà trường phù hợp với mục tiêu hoạt động hợp tác 
quốc tế theo Luật định. Như vậy, theo chủ trương, chính sách của Nhà nước về hội 
nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo; các trường đại học có thể tổ chức, quản lý và 
triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án hợp tác quốc tế theo thẩm quyền; thực 
hiện đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác với các đối tác nước ngoài theo quy định 
của pháp luật. 
+ Quyền tự chủ về tổ chức, nhân sự: Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP 
ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chínhphủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp 
công lập thì các đơn vị sự nghiệp công được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể 
các đơn vị không thuộc cơ cấu tổ chức các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ 
quan có thẩm quyền, khi đáp ứng các tiêu chí, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của 
pháp luật; xây dựng phương án sắp xếp lại các đơn vị cấu thành trình cơ quan có thẩm 
quyền quyết định. Quyền tự chủ trong tự chủ nhân sự của các trường đại học công lập 
dựa trên tinh thần Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT- BNV. 
Như vậy, tự chủ đại học đã được Nhà nước ban hành từng bước, cụ thể và rõ 
ràng dựa trên các Nghị quyết của Đảng, Thông tư, Chỉ thị của Nhà Nước. Điều này 
cho thấy, Đảng và Nhà nước đã nhận thấy vai trò tự chủ của các trường đại học trong 
xu thế phát triển chung của giáo dục và đào cũng như việc phân quyền quản lý trong 
hoạt động giáo dục của khu vực và thế giới. 
16 Trích điều 32 Luật giáo dục đại học 2012: “Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc 
các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm 
chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với 
năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục”. 
 498 
- Đến thực tiễn 
Quan điểm và chính sách về tự chủ đại học đã có, nhưng trên thực tế, tự chủ đại 
học trong thời gian qua đã và đang bộc lộ khá nhiều vấn đề. Có thể điểm qua một số 
vấn đề sau: 
- Tự chủ nhân sự, quản lý và điều hành: Trên thực tế, các trường đại học 
công lập vẫn còn chịu sự giám sát và kiểm soát của nhà nước về việc tuyển dụng, bổ 
nhiệm chức danh quản lý các trường đại học. Mọi quyết định phải tuân thủ đúng quy 
trình và thủ tục để tuyển dụng và bổ nhiệm. Điều này hoàn toàn phù hợp vì các trường 
đều thuộc phạm vi quản lý, điều hành của nhà nước. Ở khu vực các trường đại học tư 
thục, dân lập hay mang tính chất quốc tế, việc tuyển dụng, bổ nhiệm chức danh quản 
lý phải tuân theo đúng quy trình và thủ tục của Bộ giáo dục và đào tạo ban hành thông 
qua quy chế hoạt động của các trường đại học.17 Điều này có nghĩa, tự chủ về nhân sự 
vẫn chưa thực sự do các trường đai học quyết định. Mặt khác, khi tuyển dụng và bổ 
nhiệm, việc quản lý, điều hành và giám sát đều phải thông qua Luật công chức, viên 
chức hay quy chế của Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. Điều này cho thấy sự chồng 
chéo về mặt pháp lý. Nếu cán bộ được tuyển dụng, bổ nhiệm của các trường đại học 
vẫn phải tuân theo đúng quy định của Bộ giáo dục và Luật quy định lại khiến cho việc 
tuyển dụng, quản lý, điều hành vẫn chỉ trên lý thuyết không sát với thực tiễn. Suy cho 
cùng, các trường đại học vẫn chưa được tự chủ. 
- Tự chủ tài chính: Đây là vấn đề được đa số các trường đaị học quan tâm, 
mong mỏi thực hiện. Việc tự chủ tài chính tạo điều kiện cho các trường đại học được 
quyền thu và chi. Ngoài sự hổ trợ, phân bổ ngân sách của nhà nước, các trường được 
phép hoạch toán thu từ nguồn học phí. Thế nên, các trường đại học được phép và đưa 
ra mức thu học phí để đầu tư và chi cho các hoạt động đào tạo. Trong thời gian qua, 
việc tự chủ tài chính dẫn đến việc các trường đaị học tham gia vào cuộc đua tăng học 
phí. Trong đó, có trường đại học tăng học phí lên đến gấp 5 lần cho một ngành học18. 
Điều này khiến cho nhiều gia đình và sinh viên lo lắng về vịêc chi trả cho hoàn thành 
học phí. Vốn dĩ học phí là một gánh nặng đối với gia đình cho thu nhập không cao và 
phần đông thu nhập bình quân đầu người của nước ta vẫn còn thấp. Vì thế, việc tăng 
học phí khiến cho xã hội có những bình luận, quan điểm trái chiều và thêm gánh nặng 
cho nhiều gia đình. Cuối cùng, Bộ giáo dục vẫn phải tham gia và can dự vào vấn đề 
này ở một mức độ phù hợp để đi đến một mức học phí có thể chấp nhận được và nhận 
được sự đồng thuận của xã hội. Thế nên, tự chủ tài chính vẫn đang ở hai mặt đối lập 
của một vấn đề. 
- Tự chủ học thuật: Môi trường học thuật ở các trường đai học theo hướng 
"khai phóng" đang là xu hướng chung và trở thành bản sắc riêng của các trường đại 
học phương Tây. Ở nước ta, tự chủ học thuật đang là một vấn đề được bàn đến rất 
nhiều song, cánh cửa mở đường cho xu hướng này vẫn chưa được triển khai một cách 
triệt để. Vẫn còn sự giám sát, quản lý chặt chẽ. Đặc biệt, ở một số ngành, lĩnh vực còn 
hiện tượng "vùng hạn chế", chưa được thực sự "tự do". Nhất là, một số ngành học liên 
quan đến ngành khoa học xã hội & nhân văn cũng như chính trị, ngoại giao. Phản biện 
trong học thuật là một phương thức để đưa ra quan điểm khác biệt, từ sự khác biệt đi 
17 Xem thêm https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/giao-su-khong-duoc-lam-hieu-truong-phai-tro-ve-my-
sua-ngay-luat-giao-duc-dai-hoc-20180509070446595.htm 
18 Xem thêm https://laodong.vn/xa-hoi/dai-hoc-y-duoc-tang-hoc-phi-gap-5-lan-bo-y-te-yeu-cau-giai-trinh-
810387.ldo 
 499 
đến tìm điểm tương đồng, đồng thuận vẫn chưa thực sự được đề cập và triển khai thực 
hiện. Vì thế, các trường đại học vẫn được tự chủ học thuật, khiến cho việc nghiên cứu 
khoa học vẫn chưa đạt được mục tiêu về tri thức. 
- Về hợp tác quốc tế: Từ quan điểm của Đảng về hợp tác quốc tế trên lĩnh vực 
giáo dục, nhất là giáo dục đại học luôn được đề cập trong văn kiện Đảng qua các kỳ 
đại hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát 
triển đất nước. Tuy nhiên, hợp tác quốc tế dù đã được ban hành và giao quyền tự chủ 
cho các trường đại học, song, trên thực tế, hợp tác quốc tế giáo dục đại học đã và đang 
tác động đến không chỉ các trường đại học mà còn có cả xã hội, nhất là những sinh 
viên, học viên trong việc không được công nhận bằng cấp19. Theo quy chế, các trường 
hợp tác quốc tế được phép liên kết đào tạo nhưng phải được công nhận kiểm định chất 
lượng giáo dục từ phía Bộ thì mới được xem là hợp pháp20. Ngược lại, các văn bằng, 
chứng chỉ không được công nhận và không hợp lệ. Vấn đề này đã và đang là vấn nạn 
trong giáo dục đại học trong những năm gần đây. Việc này để lại hệ quả nghiêm trọng 
đối với người học và người đã và đang tham gia học tập theo phương thức này. 
Bên cạnh đó, hiện nay, hoạt động tự chủ đại học của các trường đại học, nhất là 
đại học công lập đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của các luật sau: Luật Giáo dục, Luật 
Giáo dục đại học, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, 
Luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (được thay thế bởi Luật về quản lý sử dụng 
tài sản công từ 1/1/2018), Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật 
Viên chức và các luật về thuế, tài chính; các nghị định của Chính phủ, Điều lệ trường 
đại học và rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Việc chồng chéo giữa các bộ 
luật trong hoạt động của các trường đại học chính là nút thắt khiến cho tự chủ đại học 
vẫn chưa trọn vẹn.21 
Như vậy, từ chính sách đi đến thực tiễn về tự chủ đại học đang bộc lộ khá nhiều 
mâu thuẫn và đối lập trong quá trình triển khai và thực hiện. Quan điểm, chính sách 
của Đảng và Nhà nước là phù hợp với tình hình thực tiễn khách quan, song, đi vào 
thực chất lại đang ẩn chứa khá nhiều mâu thuẫn, chồng chéo và trói buộc lẫn nhau. 
Điều này khiến cho những mong muốn đạt được về việc xây dựng môi trường tự chủ 
cho các trường đại học đã không thành công. 
5. Một số đề xuất 
Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục đại học được xem là một dịch vụ công với 
sản phẩm đặc thù là nguồn nhân lực chất lượng, quyết định thành công của nền kinh tế 
xã hội. Do đó để giáo dục đại học phát triển cần có sự tham gia của các nguồn lực xã 
hội vào quá trình thực hiện nhiệm vụ của các trường. Cụ thể là được phép: 
- Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh 
- Tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục như phương 
pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nội dung chương trình 
và giáo trình học liệu... 
19 Xem thêm https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/hon-2000-bang-thac-si-cu-nhan-o-dh-quoc-gia-huy-hay-cong-
nhan-post108470.gd 
20 Xem thêm https://luatvietnam.vn/tin-phap-luat/bang-cap-nuoc-ngoai-nao-khong-duoc-cong-nhan-230-18181-
article.html 
21 Nguyễn Trọng Tuấn, 2018, Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở nước ta hiện nay, Luận án 
Tiến Sỹ Luật học, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 
 500 
- Tự chủ trong các tiêu chuẩn của văn bằng, các vấn đề liên quan đến kiểm tra 
và kiểm định chất lượng. 
- Tự chủ trong nghiên cứu và xuất bản, giảng dạy và hướng dẫn học viên cao 
học, các ưu tiên trong nghiên cứu và quyền tự do xuất bản. 
- Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính và tài chính, quản 
lý và sử dụng ngân sách, các nguồn tài chính của trường. 
Trên cơ sở phân tích từ chính sách đi đến thực tiễn về tự chủ đại học, việc các 
nhà quản lý, hoạch định chính sách cần quan tâm đó là: 
- Quy hoạch lại hệ thống văn bản pháp luật, các nghị định thông tư về tự chủ 
đại học sao không bị chồng chéo, xâm lấn lẫn nhau trên các lĩnh vực có liên quan 
trong việc điều hành, quản lý các công việc của các trường đại học, không những thế, 
cần trao quyền tự chủ cho các trường nhiều hơn để các trường tự quyết định vận mệnh 
của mình. Điều này giúp cho các trường tự tin tham gia vào việc phát triển chất lượng 
gíao dục và hoàn thiện về điều hành, quản lý và vận hành bộ máy hành chính, công 
việc theo hướng hiệu quả hơn. Cụ thể, cho phép các trường được phép thiết lập chính 
sách, các chương trình và sử dụng nguồn tài chính một cách hợp lý. 
- Cần hướng đến việc cho phép các trường đại học quyền tự do học thuật. 
- Tăng cường sự giám sát của nhà nước, Bộ giáo dục về việc thực hiện quyền tự 
chủ. Song, cần phải xem xét đến khả năng phân quyền hóa, các trường đại học lại sử 
dụng sự ưu ái này đưa ra các quyết định ảnh hưởng tới chính sách chung về hệ thống 
giáo dục đại học của cả nước. 
- Nâng cao vai trò của giải trình và trách nhiệm của các trường đại học 
Có như thế, các trường đại học mới "bung hết năng lực", khả năng để vươn 
mình đứng dậy, tham gia vào quá trình phát triển chung của giáo dục đại học trong khu 
vực và thế giới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Thị Phương Lan (2010), Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ (1994 - 2010), 
NXBKHXH 
2. Đỗ Thị Diệu Ngọc. (2007). Giáo dục đại học đại chúng của Hoa Kỳ - nguyên 
nhân, thực trạng, và những lưu ý cho Việt Nam, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 04 
- 2007. 
3. Hà Văn Hội, Phạm Thu Phương. (2010). Một số đặc điểm nổi bật trong chính sách 
giáo dục đại học Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 09 - 2010. 
4. Nguyễn Như Ý, (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, NXBVHTT 
5. Nguyễn Trọng Tuấn, 2018, Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập 
ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến Sỹ Luật học, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 
6. Nguyễn Xuân Xanh (2011), Đại học lịch sử một ý tưởng, từ Ngô Bảo Châu, 
Pierre Darriulat, Cao Huy Thuần, Hoàng Tuỵ, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân 
Yêm (2011), Kỷ Yếu Festschrift đại học Humbold 200 năm (1810 - 2010), trang 
35 
 501 
7. 
dong.aspx?ItemID=4478 
8. 
truong-dai-hoc.html 
9. https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/giao-su-khong-duoc-lam-hieu-
truong-phai-tro-ve-my-sua-ngay-luat-giao-duc-dai-hoc-20180509070446595.htm 
10. https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/hon-2000-bang-thac-si-cu-nhan-o-dh-quoc-
gia-huy-hay-cong-nhan-post108470.gd https://luatvietnam.vn/tin-phap-luat/bang-
cap-nuoc-ngoai-nao-khong-duoc-cong-nhan-230-18181-article.html 
11. https://laodong.vn/xa-hoi/dai-hoc-y-duoc-tang-hoc-phi-gap-5-lan-bo-y-te-yeu-
cau-giai-trinh-810387.ldo 

File đính kèm:

  • pdftu_chu_dai_hoc_nhin_tu_the_gioi_va_thuc_trang_cua_viet_nam_t.pdf