Tổng quan các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” ban đầu
được đề cập với nội hàm tương đối hẹp dùng để
chỉ sự phát triển có tính tới bảo vệ các tài nguyên
sinh vật. Đến năm 1987, Ủy ban Thế giới về Môi
trường và Phát triển của Liên hợp quốc sử dụng
khái niệm “phát triển bền vững” để chỉ “sự phát
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà
không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai”. [1] Năm 1992,
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và
phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) một
lần nữa khảng định lại nội hàm của khái niệm
này [1]. Như vậy, đến những năm 1992 nội hàm
của khái niện “phát triển bền vững” chủ yếu nhấn
mạnh đến khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống
cho con người trong quá trình phát triển.
Cho đến hiện tại, nội hàm của khái niệm phát
triển bền vững đã được mở rộng hơn rất nhiều.
Nhiều người coi phát triển bền vững là một mục
tiêu cao đẹp của sự phát triển, nhiều người xác
định đây là một phương thức phát triển tổng hợp
đa ngành, liên ngành, hay là một chương trình
hành động với các tiêu chí rõ ràng và cụ thể [1].
Godian, Hecdue và Grima Lino lại tiếp cận “phát
triển bền vững” như là một mô hình chuyển đổi
mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong
hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng
và những lợi ích tương tự trong tương lai. Năm
2002, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về “phát
triển bền vững” tổ chức ở Johannesburg (Cộng
hoà Nam Phi) xác định phát triển bền vững là
một quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển,
gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh
tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử
lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất
lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá
rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên). Như vậy, cho đến nay có rất
nhiều cách tiếp cận khác khau về phát triển
bền vững, đây vừa là mục tiêu, vừa được tiếp cận
như một mô hình, phương thức phát triển đồng
thời nó cũng được xem như là một quá trình
phát triển.

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17
9
Review Article
Overview of Approaches on Sustainable Development
Management
Dang Thi Anh Tuyet1, Hoang Thi Quyen2,
1Ho Chi Minh National Academy of Politics, 135 Nguyen Phong Sac, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2Academy of Politics Region IV, 6 Nguyen Van Cu, An Binh, Ninh Kieu, Can Tho, Vietnam
Received 24 August 2020
Revised 11 September 2020; Accepted 14 September 2020
Abstract: So far, as people become more and more aware of the meaning and importance of the
natural and social environment, the concept of "sustainable development" is also constantly being
expanded. Researchers around the world have spent a lot of time on developing perspectives on
"sustainable development" and "sustainable development management". Our main contribution in
this paper is to explore and analyze approaches for sustainable development management in order
to find the key components for building a sustainable development management system that is
appropriate for Vietnam's practices in a new context.
Keywords: Sustainable development, sustainable development management, Sustainable
development management system.
________
Corresponding author.
Email address: hoangquyenhv4@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4258
D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 10
Tổng quan các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững
Đặng Thị Ánh Tuyết1, Hoàng Thị Quyên2,
1Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Học viện Chính trị Khu vực IV, Số 6 Nguyễn Văn Cừ, An Bình, Ninh Kiều, Cần Thơ, Việt Nam
Nhận ngày 24 tháng 8 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 11 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 9 năm 2020
Tóm tắt: Cho đến nay khi con người ngày càng ý thức rõ hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của môi
trường tự nhiên, môi trường xã hội thì nội hàm của khái niệm “phát triển bền vững” cũng không
ngừng được mở rộng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã dành nhiều thời gian cho việc phát triển
các quan điểm về “phát triển bền vững” và “quản lý phát triển bền vững”. Trong phạm vi bài viết,
nhóm tác giả cố gắng góp phần luận giải và phân tích các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền
vững nhằm tìm ra các thành tố chính cho việc xây dựng hệ thống quản lý phát triển bền vững phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam trong bối cảnh mới.
Từ khóa: Phát triển bền vững, quản lý phát triển bền vững, hệ thống quản lý phát triển bền vững.
1. Quan điểm, các cách tiếp cận và tiêu chí đo
lường phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” ban đầu
được đề cập với nội hàm tương đối hẹp dùng để
chỉ sự phát triển có tính tới bảo vệ các tài nguyên
sinh vật. Đến năm 1987, Ủy ban Thế giới về Môi
trường và Phát triển của Liên hợp quốc sử dụng
khái niệm “phát triển bền vững” để chỉ “sự phát
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà
không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai”. [1] Năm 1992,
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và
phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) một
lần nữa khảng định lại nội hàm của khái niệm
này [1]. Như vậy, đến những năm 1992 nội hàm
của khái niện “phát triển bền vững” chủ yếu nhấn
mạnh đến khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống
cho con người trong quá trình phát triển.
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: hoangquyenhv4@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4258
Cho đến hiện tại, nội hàm của khái niệm phát
triển bền vững đã được mở rộng hơn rất nhiều.
Nhiều người coi phát triển bền vững là một mục
tiêu cao đẹp của sự phát triển, nhiều người xác
định đây là một phương thức phát triển tổng hợp
đa ngành, liên ngành, hay là một chương trình
hành động với các tiêu chí rõ ràng và cụ thể [1].
Godian, Hecdue và Grima Lino lại tiếp cận “phát
triển bền vững” như là một mô hình chuyển đổi
mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong
hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng
và những lợi ích tương tự trong tương lai. Năm
2002, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về “phát
triển bền vững” tổ chức ở Johannesburg (Cộng
hoà Nam Phi) xác định phát triển bền vững là
một quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển,
gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh
tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử
D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / ... ải dựa trên
cơ sở khoa học, các chỉ số hiệu suất phù hợp.
Theo đó cần phải thiết lập hệ thống đo lường để
hiểu và giám sát các tác động môi trường, kinh
tế và xã hội của các chính sách và chương trình
hành động. Do vậy một trong những nội dung
quản lý phát triển bền vững là thiết lập hệ thống
đánh giá giám sát các tác động của chính sách và
chương trình đến kinh tế, môi trường và xã hội.
Đồng thời cần phải có các hoạt động để tích hợp
các mục tiêu môi trường, xã hội và kinh tế
vàoviệc thực hiện các chương trình và kế hoạch
dài hạn hoặc gắn hạn. Vì vậy cần có các hoạt
động, kỹ thuật phân tích lợi ích chi phí hay phân
tích đa tiêu chí nhằm tích hợp các cân nhắc về
môi trường, kinh tế và xã hội để tìm ra mô hình
phát triển phù hợp [9]. Có thể thấy có rất nhiều
nội dung nhằm thực hiện quản lý phát triển bền
vững, công việc tiếp theo là cần chỉ ra ai chủ thể
nào cần phải làm gì với mức độ ra sao và ở cấp
độ nào. Các chủ thể quản lý sẽ liên kết với nhau
như thế nào để vận hành hệ thống quản lý vì mục
tiêu phát triển bền vững. Đây vẫn là động lực để
các nhà nghiên cứu tìm tòi và phát triển cả trên
phương diện lý luận và tổng kết đánh giá về mặt
thực tiễn
3. Các tiêu chí đánh giá quản lý phát triển
bền vững
Quản lý phát triển bền vững bao gồm nhiều
hoạt động với các quy trình thực hiện phức tạp
và sự tham gia của nhiều nhóm chủ thể. Do đó
đánh giá quản lý phát triển bền vững là việc làm
hết sức khó khăn và phức tạp. Mỗi chủ thể khi
tham gia đánh giá hoạt động quản lý phát triển
bền vững sẽ có các tiêu chí đánh giá khác nhau.
Vào năm 2007, Tổng Kiểm toán nước Anh đã
yêu cầu một hội đồng chuyên gia độc lập, Hội
đồng Ruy băng Xanh, tiến hành kiểm tra xem
nhiệm vụ phát triển bền vững và môi trường đã
được đưa vào thực tế hoạt động của Văn phòng
Kiểm toán viên như thế nào kể từ khi mục tiêu
phát triển vền vững được luật hóa vào năm 1995.
Báo cáo đã sử dụng các bảng điều khiển để đánh
giá hoạt động của Văn phòng Tổng Kiểm toán
trong việc nỗ lực giảm thiểu các rủi ro về môi
trường trong quy trình lựa chọn kiểm toán. Theo
đó, họ đánh giá xem các ủy viên có nêu rõ việc
đưa thành phần phát triển bền vững vào kế hoạch
làm việc của mình hay không. Họ cũng đánh giá
xem các văn phòng thực hiện kiểm toán có kiểm
tra hiệu suất của các chương trình và hoạt động
của chính phủ hay không nghĩa là khi thực hiện
hoạt động kiểm toán các văn phòng kiểm toán có
tính đến yếu tố quản lý phát triển bền vững như
là một thông số để đánh giá xem hoạt động quản
lý chính sách của cơ quan công quyền được thực
hiện tốt như thế nào? Các báo cáo cũng tập trung
đánh giá hai khía cạnh đặc biệt là thách thức
trong việc quản lý phát triển bền vững liên quan
đến việc tích hợp các hiệu ứng môi trường, kinh
tế và xã hội vào chiến lực, chính sách phát triển
và sự thay đổi trong việc thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững giữa các khu vực và theo thời
gian được đo bằng các thế hệ [9]. Nghiên cứu
này đã đưa ra các nhóm tiêu chí khi xác định việc
D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 15
thực hiện quản lý phát triển bền vững áp dụng
cho quy mô quản lý của đơn vị, tổ chức cụ thể.
Thời gian gần đây mô hình "quản trị tốt"
("good governance") được xem như hệ thống
tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý của
nhà nước. Cho đến nay có nhiều cách hiểu khác
nhau về "quản trị tốt" . Dù có nhiều cách tiếp cận
khác nhau việc đánh giá hoạt động quản lý qua
các tiêu chí liên quan đến quản trị tốt đòi hỏi việc
quản lý đảm bảo 8 đặc trưng chính đó là: “sự
tham gia (participatory), định hướng đồng thuận
(consensusoriented), trách nhiệm giải trình
(accountable), sự minh bạch (transparent), sự kịp
thời (responsive), tính hiệu lực (effective), tính
hiệu quả (efficient), tính bình đẳng và không loại
trừ chủ thể nào (equitable and inclusive) và tuân
thủ pháp quyền (follows the rule of law)” [10].
Hệ thống tiêu chí đánh giá quản lý theo nguyên
tắc quản trị tốt rất rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh
vực từ kinh tế, xã hội cho đến chính trị. Việc
đánh giá cũng được xác định trên nhiều khía
cạnh từ đánh giá nội dung quản lý cho đến chủ
thể tham gia quản lý, phương thức, công cụ quản
lý và hiệu quả hoạt động quản lý. Tất cả những
tiêu chí này lại được kết hợp với nhau tạo nên
các nhóm tiêu chí phức hợp. Do vậy, việc bảo
đảm tất cả các nguyên tắc của quản trị tốt là
không dễ dàng đồng thời cũng rất khó để thu thập
đủ dữ liệu và thông tin cho việc phân tích, đánh
giá chu trình, chính sách hay mục tiêu quản lý
theo tiêu chí quản trị tốt.
Để đơn giản hơn một số nghiên cứu đánh giá
hoạt động quản lý xã hội, quản lý phát triển bền
vững theo từng khía cạnh riêng lẻ như chủ thể
quản lý, đối tượng quản lý, nội dung quản lý,
chính sách công cụ quản lý. Việc đánh giá nội
dung quản lý chính là việc đánh giá các hoạt
động cũng như việc thực hiện các hoạt động quản
lý. Theo đó các hoạt động thường được đưa vào
đánh giá là: i) Xây dựng thể chế, thiết chế cho
hoạt động quản lý; ii) Các hoạt động phổ biến,
tuyên truyền chương trình, chính sách, pháp luật;
iii) Sự phân phân công phối hợp thực hiện
chương trình chính sách; iv) Các hoạt động được
triển khai để duy trì chính sách; v) Hoạt động
điều chỉnh chính sách; vi) Theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện chính sách, pháp luật; vii)
Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm đối với quá
trình hoạch định và thực thi chính sách.
Khi đánh giá chủ thể các nhà nghiên cứu
thường quan tâm tìm hiểu xem có nhóm chủ thể
nào tham gia vào hoạch định và thực thi chương
trình, chính sách? Mức độ tham gia của các
nhóm? Sự phối hợp giữa các nhóm chủ thể này
ra sao? Khi đánh giá dự tham gia của các nhóm
chủ thể vào quá trình quản lý xã hội, theo
Chương trình phát triển Liên Hợp quốc để quản
trị xã hội tiêu chí quản trị tốt nhằm hướng đến
mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hòa
của quốc gia, chủ thể tham gia vào quản lý xã hội
cần có sự tham gia ngày càng lớn của người dân.
Ngân hàng Thế giới xác định tiêu chí cơ bản
đánh giá mô hình quản trị tốt là sự tham gia của
xã hội công dân [11]. Không chỉ đánh giá xem
có những nhóm chủ thể nào tham gia vào quá
trình hoạch định và thực thi chương trình, chính
sách quản lý mà chúng ta còn phải đánh giá mối
quan hệ của các nhóm chủ thể này khi họ tham
gia vào hoạch định thực thi chính sách. Nghĩa là
đánh gia mức độ bình đẳng, dân chủ trong việc
thực hiện vai trò, trách nhiệm của các nhóm chủ
thể trong quá trình hoạch định và thực thi chính
sách quản lý.
Khi đánh giá các chương trình, chính sách
các nhà nghiên cứu thường sử dụng các tiêu chí
như: i) Tính Phù hợp của chương trình, chính
sách được xây dựng, triển khai thực hiện. Phù
hợp nghĩa là phù hợp với Hiến pháp (“hợp
hiến”); Phù hợp với quan điểm, đường lối và các
chính sách liên quan; Phù hợp với thực tiễn, nhu
cầu của xã hội; ii) Tính Hệ thống của chương
trình, chính sách được xây dựng, triển khai thực
hiện. Tính hệ thống đề cập đến sự toàn vẹn, đầy
đủ của chính sách; Sự thống nhất giữa các bộ
phận hợp thành chính sách (không có mâu thuẫn
nội tại); Sự tương thích giữa mục tiêu và biện
pháp của chính sách; iii) Tính Khả thi của
chương trình, chính sách được xây dựng, triển
khai thực hiện. Tính khả thi sẽ được đánh giá khi
chúng ta đối chiếu chính sách với điều kiện thực
hiện chính sách, về: nhân lực; tài lực, vật chất; tổ
chức thực hiện; thời gian; iv) Tính Công bằng
của chương trình, chính sách được xây dựng,
triển khai thực hiện. Các chính sách được xây
D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 16
dựng cần đảm bảo bình đẳng về cơ hội, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho các đối tượng
mà chính sách hướng đến. Bình đẳng có thể được
xét trên các chiều cạnh như bình đẳng giới; bình
đẳng giữa các dân tộc; bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế; Các chương trình và chính sách
cần đảm bảo lợi ích hài hòa của các tác nhân liên
quan, phục vụ số đông (tránh “nhóm lợi ích” cục
bộ); Hỗ trợ nhóm khó khăn, nhóm yếu thế (người
nghèo, phụ nữ, DTTS).
Bên cạnh việc đánh giá các hoạt động và
công cụ chính sách, một trong những nội dung
trọng tâm khi đánh giá hoạt động quản lý là đánh
giá hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý.
Khái niện hiệu lực quản lý thường được dùng để
đánh giá hiệu lực của quản lý nhà nước. Theo
Trần Đình Thắng (2020), hiệu lực quản lý là
“mức độ pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện
thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong mối
quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản
lý xét theo những điều kiện lịch sử nhất định”
[12]. Hiệu lực quản lý nhà nước thường được
đánh giá qua: mức độ tuân thủ, chấp hành pháp
luật, tuân thủ chấp hành các quyết định của cơ
quan quản lý. Thông qua mức độ tuân thủ, chấp
hành quyết định quản lý của các khách thể quản
lý chúng ta cũng đánh giá uy tín và khả năng hiện
thực quyền lực của các chủ thể quản lý. Theo đó
để đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước các nhà
nghiên cứu, cũng như các nhà quản lý thường
dựa vào mức độ tuân thủ các quy định pháp luật
của khách thể quản lý; mức độ thực hiện tổ chức
xây dựng và triển khai các chương trình chính
sách nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Cũng như
đánh giá kết quả của quá trình thực hiện các hoạt
động này như việc ban hành các văn bản chính
sách, pháp luật có đầy đủ, đồng bộ, kịp thời để
xây dựng cơ sở pháp lý cho việc quản lý các vấn
đề xã hội tại khu công nghiệp? Mức độ điều tiết,
can thiệp của các chủ thể quản lý đối với các đối
tượng quản lý. Thông thường để đánh giá sự can
thiệp của cơ quan quản lý nhà nước, các nhà
nghiên cứu sẽ đánh giá xem sự can thiệp đó có
đảm bảo sự phù hợp. Nghĩa là sự can thiệt của
chủ thể quản lý có là quá sâu hay quá hời hợt, sự
can thiệt là đúng thời điểm hay quá sơm hoặc quá
muộn. Bên cạnh đó chúng ta cũng đánh giá kết
quả việc thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát
đối với các hoat động quản lý thông qua việc
phát hiện các sai phạm và kết quả xử lý cá sai
phạm.
Khác với hiệu lực, hiệu quả là chỉ tiêu phản
ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu vào để tạo
ra kết quả hoạt động tối đa với chi phí hoạt động
tối thiểu, hoặc là chỉ tiêu phản ánh năng suất hoạt
động, hiệu suất sử dụng các chi phí đầu vào. Hiệu
quả quản lý nói đén kết quả tốt nhất của hoạt
động quản lý với mức chi phí ở mức tối thiểu.
Nghĩa là các chủ thể quản lý đã sử dụng một cách
hiệu quả nhất các nguồn lực và thông tin nhằm
đạt được mục tiêu quản lý ở mức cao nhất. Hiệu
quả quản lý thường được được đánh giá thông
qua các tiêu chí như: Mức độ đạt các mục tiêu
mà chủ thể quản lý đặt ra [12]. Đồng thời chúng
ta cần đánh giá những tác động không mong
muốn do quá trình thực hiện nội dung quản lý
gây ra.
Lời cảm ơn
Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu đề tài
cấp Bộ 2020 - 2021: “Quản lý phát triển xã hội
bền vững trong điều kiện mới” do Viện Xã hội
học và Phát triển chủ trì.
Tài liệu tham khảo
[1] P.T.T. Binh, What are the criteria for sustainable
development? (in Vietnamese)
doi-binh-luan/phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-
tieu-chi-danh-gia-va-dinh-huong-phat-trien-
94064.html?mobile=true, 2016 (accessed 10 April
2020)
[2] S. Bell, S. Morse, Sustainability Indicators
Measuring the Immeasurable?, Earthscan, UK and
USA, 2008, p.17.
[3] Legrand, Sustainable development: definition,
background, issues and objectives,
https://www.legrandgroup.com/en/sustainable-
development-description (accessed 10 April 2020)
[4] T.M. Parris, R.W. Kates, Characterizing and
Measuring Sustainable Development, Annual
Review of Environment and Resources, Vol. 28,
pp.559-586,
D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 17
https://www.annualreviews.org/doi/pdf/10.1146/a
nnurev.energy.28.050302.105551, 2003 (accessed
10 April 2020).
[5] H.C. Bao, Current theoretical issues on social
development and social development management
– Application in Vietnam (in Vietnamese),
National Politic Publisher, 2010.
[6] E. Ostrom, Governing thecommons-The Evolution
of Institutions for Collective Action, The United
States of America, 1990.
[7] T.V. Phuc, The role of social organizations in
social development and social development
management in Vietnam in terms of developing a
market economy and building a law-governed
social state - Theoretical and practical basis (in
Vietnamese), State scientific topics, p.16.
[8] L. Nitu, A management system for sustainable
development – a new challenge, Proceedings
Congress: 53rd European Organization for
Quality–EOQ Congress: World Quality Congress,
Dubrovnik, Croatia, 2009.
[9] Commissioner of the Environment and Sustainable
Development, Managing Sustainable Development
https://www.oag-
bvg.gc.ca/internet/English/sds_fs_e_33574.html,
2009 (accessed 10 April 2020)
[10] V.C. Giao, Some theoretical issues about good
governance (in Vietnamese), Tạp chí tổ chức nhà
nước,
https://tcnn.vn/news/detail/36119/Mot_so_van_de
_ly_luan_ve_quan_tri_totall.html, 2017 (accessed
10 April 2020).
[11] V.C. Giao, Good governance-theoretical and
practical (in Vietnamese), 2017, pp.8-9.
[12] T.D. Thang, Criteria for evaluating the
effectiveness and efficiency of state management
of business valuation service activities (in
Vietnamese),
kinh-doanh/tieu-chi-danh-gia-hieu-luc-hieu-qua-
quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-hoat-dong-kinh-doanh-
dich-vu-tham-dinh-gia-318050.html, 2020
(accessed 10 April 2020).
File đính kèm:
tong_quan_cac_cach_tiep_can_ve_quan_ly_phat_trien_ben_vung.pdf

