Tổng quan các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” ban đầu
được đề cập với nội hàm tương đối hẹp dùng để
chỉ sự phát triển có tính tới bảo vệ các tài nguyên
sinh vật. Đến năm 1987, Ủy ban Thế giới về Môi
trường và Phát triển của Liên hợp quốc sử dụng
khái niệm “phát triển bền vững” để chỉ “sự phát
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà
không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai”. [1] Năm 1992,
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và
phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) một
lần nữa khảng định lại nội hàm của khái niệm
này [1]. Như vậy, đến những năm 1992 nội hàm
của khái niện “phát triển bền vững” chủ yếu nhấn
mạnh đến khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống
cho con người trong quá trình phát triển.
Cho đến hiện tại, nội hàm của khái niệm phát
triển bền vững đã được mở rộng hơn rất nhiều.
Nhiều người coi phát triển bền vững là một mục
tiêu cao đẹp của sự phát triển, nhiều người xác
định đây là một phương thức phát triển tổng hợp
đa ngành, liên ngành, hay là một chương trình
hành động với các tiêu chí rõ ràng và cụ thể [1].
Godian, Hecdue và Grima Lino lại tiếp cận “phát
triển bền vững” như là một mô hình chuyển đổi
mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong
hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng
và những lợi ích tương tự trong tương lai. Năm
2002, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về “phát
triển bền vững” tổ chức ở Johannesburg (Cộng
hoà Nam Phi) xác định phát triển bền vững là
một quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển,
gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh
tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử
lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất
lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá
rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên). Như vậy, cho đến nay có rất
nhiều cách tiếp cận khác khau về phát triển
bền vững, đây vừa là mục tiêu, vừa được tiếp cận
như một mô hình, phương thức phát triển đồng
thời nó cũng được xem như là một quá trình
phát triển.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 9 Review Article Overview of Approaches on Sustainable Development Management Dang Thi Anh Tuyet1, Hoang Thi Quyen2, 1Ho Chi Minh National Academy of Politics, 135 Nguyen Phong Sac, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2Academy of Politics Region IV, 6 Nguyen Van Cu, An Binh, Ninh Kieu, Can Tho, Vietnam Received 24 August 2020 Revised 11 September 2020; Accepted 14 September 2020 Abstract: So far, as people become more and more aware of the meaning and importance of the natural and social environment, the concept of "sustainable development" is also constantly being expanded. Researchers around the world have spent a lot of time on developing perspectives on "sustainable development" and "sustainable development management". Our main contribution in this paper is to explore and analyze approaches for sustainable development management in order to find the key components for building a sustainable development management system that is appropriate for Vietnam's practices in a new context. Keywords: Sustainable development, sustainable development management, Sustainable development management system. ________ Corresponding author. Email address: hoangquyenhv4@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4258 D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 10 Tổng quan các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững Đặng Thị Ánh Tuyết1, Hoàng Thị Quyên2, 1Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2Học viện Chính trị Khu vực IV, Số 6 Nguyễn Văn Cừ, An Bình, Ninh Kiều, Cần Thơ, Việt Nam Nhận ngày 24 tháng 8 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 11 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 9 năm 2020 Tóm tắt: Cho đến nay khi con người ngày càng ý thức rõ hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội thì nội hàm của khái niệm “phát triển bền vững” cũng không ngừng được mở rộng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã dành nhiều thời gian cho việc phát triển các quan điểm về “phát triển bền vững” và “quản lý phát triển bền vững”. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả cố gắng góp phần luận giải và phân tích các cách tiếp cận về quản lý phát triển bền vững nhằm tìm ra các thành tố chính cho việc xây dựng hệ thống quản lý phát triển bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong bối cảnh mới. Từ khóa: Phát triển bền vững, quản lý phát triển bền vững, hệ thống quản lý phát triển bền vững. 1. Quan điểm, các cách tiếp cận và tiêu chí đo lường phát triển bền vững Khái niệm “phát triển bền vững” ban đầu được đề cập với nội hàm tương đối hẹp dùng để chỉ sự phát triển có tính tới bảo vệ các tài nguyên sinh vật. Đến năm 1987, Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc sử dụng khái niệm “phát triển bền vững” để chỉ “sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. [1] Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) một lần nữa khảng định lại nội hàm của khái niệm này [1]. Như vậy, đến những năm 1992 nội hàm của khái niện “phát triển bền vững” chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển. ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: hoangquyenhv4@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4258 Cho đến hiện tại, nội hàm của khái niệm phát triển bền vững đã được mở rộng hơn rất nhiều. Nhiều người coi phát triển bền vững là một mục tiêu cao đẹp của sự phát triển, nhiều người xác định đây là một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành, hay là một chương trình hành động với các tiêu chí rõ ràng và cụ thể [1]. Godian, Hecdue và Grima Lino lại tiếp cận “phát triển bền vững” như là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng và những lợi ích tương tự trong tương lai. Năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về “phát triển bền vững” tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) xác định phát triển bền vững là một quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / ... ải dựa trên cơ sở khoa học, các chỉ số hiệu suất phù hợp. Theo đó cần phải thiết lập hệ thống đo lường để hiểu và giám sát các tác động môi trường, kinh tế và xã hội của các chính sách và chương trình hành động. Do vậy một trong những nội dung quản lý phát triển bền vững là thiết lập hệ thống đánh giá giám sát các tác động của chính sách và chương trình đến kinh tế, môi trường và xã hội. Đồng thời cần phải có các hoạt động để tích hợp các mục tiêu môi trường, xã hội và kinh tế vàoviệc thực hiện các chương trình và kế hoạch dài hạn hoặc gắn hạn. Vì vậy cần có các hoạt động, kỹ thuật phân tích lợi ích chi phí hay phân tích đa tiêu chí nhằm tích hợp các cân nhắc về môi trường, kinh tế và xã hội để tìm ra mô hình phát triển phù hợp [9]. Có thể thấy có rất nhiều nội dung nhằm thực hiện quản lý phát triển bền vững, công việc tiếp theo là cần chỉ ra ai chủ thể nào cần phải làm gì với mức độ ra sao và ở cấp độ nào. Các chủ thể quản lý sẽ liên kết với nhau như thế nào để vận hành hệ thống quản lý vì mục tiêu phát triển bền vững. Đây vẫn là động lực để các nhà nghiên cứu tìm tòi và phát triển cả trên phương diện lý luận và tổng kết đánh giá về mặt thực tiễn 3. Các tiêu chí đánh giá quản lý phát triển bền vững Quản lý phát triển bền vững bao gồm nhiều hoạt động với các quy trình thực hiện phức tạp và sự tham gia của nhiều nhóm chủ thể. Do đó đánh giá quản lý phát triển bền vững là việc làm hết sức khó khăn và phức tạp. Mỗi chủ thể khi tham gia đánh giá hoạt động quản lý phát triển bền vững sẽ có các tiêu chí đánh giá khác nhau. Vào năm 2007, Tổng Kiểm toán nước Anh đã yêu cầu một hội đồng chuyên gia độc lập, Hội đồng Ruy băng Xanh, tiến hành kiểm tra xem nhiệm vụ phát triển bền vững và môi trường đã được đưa vào thực tế hoạt động của Văn phòng Kiểm toán viên như thế nào kể từ khi mục tiêu phát triển vền vững được luật hóa vào năm 1995. Báo cáo đã sử dụng các bảng điều khiển để đánh giá hoạt động của Văn phòng Tổng Kiểm toán trong việc nỗ lực giảm thiểu các rủi ro về môi trường trong quy trình lựa chọn kiểm toán. Theo đó, họ đánh giá xem các ủy viên có nêu rõ việc đưa thành phần phát triển bền vững vào kế hoạch làm việc của mình hay không. Họ cũng đánh giá xem các văn phòng thực hiện kiểm toán có kiểm tra hiệu suất của các chương trình và hoạt động của chính phủ hay không nghĩa là khi thực hiện hoạt động kiểm toán các văn phòng kiểm toán có tính đến yếu tố quản lý phát triển bền vững như là một thông số để đánh giá xem hoạt động quản lý chính sách của cơ quan công quyền được thực hiện tốt như thế nào? Các báo cáo cũng tập trung đánh giá hai khía cạnh đặc biệt là thách thức trong việc quản lý phát triển bền vững liên quan đến việc tích hợp các hiệu ứng môi trường, kinh tế và xã hội vào chiến lực, chính sách phát triển và sự thay đổi trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững giữa các khu vực và theo thời gian được đo bằng các thế hệ [9]. Nghiên cứu này đã đưa ra các nhóm tiêu chí khi xác định việc D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 15 thực hiện quản lý phát triển bền vững áp dụng cho quy mô quản lý của đơn vị, tổ chức cụ thể. Thời gian gần đây mô hình "quản trị tốt" ("good governance") được xem như hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước. Cho đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau về "quản trị tốt" . Dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau việc đánh giá hoạt động quản lý qua các tiêu chí liên quan đến quản trị tốt đòi hỏi việc quản lý đảm bảo 8 đặc trưng chính đó là: “sự tham gia (participatory), định hướng đồng thuận (consensusoriented), trách nhiệm giải trình (accountable), sự minh bạch (transparent), sự kịp thời (responsive), tính hiệu lực (effective), tính hiệu quả (efficient), tính bình đẳng và không loại trừ chủ thể nào (equitable and inclusive) và tuân thủ pháp quyền (follows the rule of law)” [10]. Hệ thống tiêu chí đánh giá quản lý theo nguyên tắc quản trị tốt rất rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực từ kinh tế, xã hội cho đến chính trị. Việc đánh giá cũng được xác định trên nhiều khía cạnh từ đánh giá nội dung quản lý cho đến chủ thể tham gia quản lý, phương thức, công cụ quản lý và hiệu quả hoạt động quản lý. Tất cả những tiêu chí này lại được kết hợp với nhau tạo nên các nhóm tiêu chí phức hợp. Do vậy, việc bảo đảm tất cả các nguyên tắc của quản trị tốt là không dễ dàng đồng thời cũng rất khó để thu thập đủ dữ liệu và thông tin cho việc phân tích, đánh giá chu trình, chính sách hay mục tiêu quản lý theo tiêu chí quản trị tốt. Để đơn giản hơn một số nghiên cứu đánh giá hoạt động quản lý xã hội, quản lý phát triển bền vững theo từng khía cạnh riêng lẻ như chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội dung quản lý, chính sách công cụ quản lý. Việc đánh giá nội dung quản lý chính là việc đánh giá các hoạt động cũng như việc thực hiện các hoạt động quản lý. Theo đó các hoạt động thường được đưa vào đánh giá là: i) Xây dựng thể chế, thiết chế cho hoạt động quản lý; ii) Các hoạt động phổ biến, tuyên truyền chương trình, chính sách, pháp luật; iii) Sự phân phân công phối hợp thực hiện chương trình chính sách; iv) Các hoạt động được triển khai để duy trì chính sách; v) Hoạt động điều chỉnh chính sách; vi) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách, pháp luật; vii) Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm đối với quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Khi đánh giá chủ thể các nhà nghiên cứu thường quan tâm tìm hiểu xem có nhóm chủ thể nào tham gia vào hoạch định và thực thi chương trình, chính sách? Mức độ tham gia của các nhóm? Sự phối hợp giữa các nhóm chủ thể này ra sao? Khi đánh giá dự tham gia của các nhóm chủ thể vào quá trình quản lý xã hội, theo Chương trình phát triển Liên Hợp quốc để quản trị xã hội tiêu chí quản trị tốt nhằm hướng đến mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hòa của quốc gia, chủ thể tham gia vào quản lý xã hội cần có sự tham gia ngày càng lớn của người dân. Ngân hàng Thế giới xác định tiêu chí cơ bản đánh giá mô hình quản trị tốt là sự tham gia của xã hội công dân [11]. Không chỉ đánh giá xem có những nhóm chủ thể nào tham gia vào quá trình hoạch định và thực thi chương trình, chính sách quản lý mà chúng ta còn phải đánh giá mối quan hệ của các nhóm chủ thể này khi họ tham gia vào hoạch định thực thi chính sách. Nghĩa là đánh gia mức độ bình đẳng, dân chủ trong việc thực hiện vai trò, trách nhiệm của các nhóm chủ thể trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách quản lý. Khi đánh giá các chương trình, chính sách các nhà nghiên cứu thường sử dụng các tiêu chí như: i) Tính Phù hợp của chương trình, chính sách được xây dựng, triển khai thực hiện. Phù hợp nghĩa là phù hợp với Hiến pháp (“hợp hiến”); Phù hợp với quan điểm, đường lối và các chính sách liên quan; Phù hợp với thực tiễn, nhu cầu của xã hội; ii) Tính Hệ thống của chương trình, chính sách được xây dựng, triển khai thực hiện. Tính hệ thống đề cập đến sự toàn vẹn, đầy đủ của chính sách; Sự thống nhất giữa các bộ phận hợp thành chính sách (không có mâu thuẫn nội tại); Sự tương thích giữa mục tiêu và biện pháp của chính sách; iii) Tính Khả thi của chương trình, chính sách được xây dựng, triển khai thực hiện. Tính khả thi sẽ được đánh giá khi chúng ta đối chiếu chính sách với điều kiện thực hiện chính sách, về: nhân lực; tài lực, vật chất; tổ chức thực hiện; thời gian; iv) Tính Công bằng của chương trình, chính sách được xây dựng, triển khai thực hiện. Các chính sách được xây D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 16 dựng cần đảm bảo bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho các đối tượng mà chính sách hướng đến. Bình đẳng có thể được xét trên các chiều cạnh như bình đẳng giới; bình đẳng giữa các dân tộc; bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; Các chương trình và chính sách cần đảm bảo lợi ích hài hòa của các tác nhân liên quan, phục vụ số đông (tránh “nhóm lợi ích” cục bộ); Hỗ trợ nhóm khó khăn, nhóm yếu thế (người nghèo, phụ nữ, DTTS). Bên cạnh việc đánh giá các hoạt động và công cụ chính sách, một trong những nội dung trọng tâm khi đánh giá hoạt động quản lý là đánh giá hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý. Khái niện hiệu lực quản lý thường được dùng để đánh giá hiệu lực của quản lý nhà nước. Theo Trần Đình Thắng (2020), hiệu lực quản lý là “mức độ pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý xét theo những điều kiện lịch sử nhất định” [12]. Hiệu lực quản lý nhà nước thường được đánh giá qua: mức độ tuân thủ, chấp hành pháp luật, tuân thủ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý. Thông qua mức độ tuân thủ, chấp hành quyết định quản lý của các khách thể quản lý chúng ta cũng đánh giá uy tín và khả năng hiện thực quyền lực của các chủ thể quản lý. Theo đó để đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước các nhà nghiên cứu, cũng như các nhà quản lý thường dựa vào mức độ tuân thủ các quy định pháp luật của khách thể quản lý; mức độ thực hiện tổ chức xây dựng và triển khai các chương trình chính sách nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Cũng như đánh giá kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động này như việc ban hành các văn bản chính sách, pháp luật có đầy đủ, đồng bộ, kịp thời để xây dựng cơ sở pháp lý cho việc quản lý các vấn đề xã hội tại khu công nghiệp? Mức độ điều tiết, can thiệp của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý. Thông thường để đánh giá sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu sẽ đánh giá xem sự can thiệp đó có đảm bảo sự phù hợp. Nghĩa là sự can thiệt của chủ thể quản lý có là quá sâu hay quá hời hợt, sự can thiệt là đúng thời điểm hay quá sơm hoặc quá muộn. Bên cạnh đó chúng ta cũng đánh giá kết quả việc thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các hoat động quản lý thông qua việc phát hiện các sai phạm và kết quả xử lý cá sai phạm. Khác với hiệu lực, hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả hoạt động tối đa với chi phí hoạt động tối thiểu, hoặc là chỉ tiêu phản ánh năng suất hoạt động, hiệu suất sử dụng các chi phí đầu vào. Hiệu quả quản lý nói đén kết quả tốt nhất của hoạt động quản lý với mức chi phí ở mức tối thiểu. Nghĩa là các chủ thể quản lý đã sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực và thông tin nhằm đạt được mục tiêu quản lý ở mức cao nhất. Hiệu quả quản lý thường được được đánh giá thông qua các tiêu chí như: Mức độ đạt các mục tiêu mà chủ thể quản lý đặt ra [12]. Đồng thời chúng ta cần đánh giá những tác động không mong muốn do quá trình thực hiện nội dung quản lý gây ra. Lời cảm ơn Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ 2020 - 2021: “Quản lý phát triển xã hội bền vững trong điều kiện mới” do Viện Xã hội học và Phát triển chủ trì. Tài liệu tham khảo [1] P.T.T. Binh, What are the criteria for sustainable development? (in Vietnamese) doi-binh-luan/phat-trien-ben-vung-o-viet-nam- tieu-chi-danh-gia-va-dinh-huong-phat-trien- 94064.html?mobile=true, 2016 (accessed 10 April 2020) [2] S. Bell, S. Morse, Sustainability Indicators Measuring the Immeasurable?, Earthscan, UK and USA, 2008, p.17. [3] Legrand, Sustainable development: definition, background, issues and objectives, https://www.legrandgroup.com/en/sustainable- development-description (accessed 10 April 2020) [4] T.M. Parris, R.W. Kates, Characterizing and Measuring Sustainable Development, Annual Review of Environment and Resources, Vol. 28, pp.559-586, D.T.A. Tuyet, H.T. Quyen / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 9-17 17 https://www.annualreviews.org/doi/pdf/10.1146/a nnurev.energy.28.050302.105551, 2003 (accessed 10 April 2020). [5] H.C. Bao, Current theoretical issues on social development and social development management – Application in Vietnam (in Vietnamese), National Politic Publisher, 2010. [6] E. Ostrom, Governing thecommons-The Evolution of Institutions for Collective Action, The United States of America, 1990. [7] T.V. Phuc, The role of social organizations in social development and social development management in Vietnam in terms of developing a market economy and building a law-governed social state - Theoretical and practical basis (in Vietnamese), State scientific topics, p.16. [8] L. Nitu, A management system for sustainable development – a new challenge, Proceedings Congress: 53rd European Organization for Quality–EOQ Congress: World Quality Congress, Dubrovnik, Croatia, 2009. [9] Commissioner of the Environment and Sustainable Development, Managing Sustainable Development https://www.oag- bvg.gc.ca/internet/English/sds_fs_e_33574.html, 2009 (accessed 10 April 2020) [10] V.C. Giao, Some theoretical issues about good governance (in Vietnamese), Tạp chí tổ chức nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/36119/Mot_so_van_de _ly_luan_ve_quan_tri_totall.html, 2017 (accessed 10 April 2020). [11] V.C. Giao, Good governance-theoretical and practical (in Vietnamese), 2017, pp.8-9. [12] T.D. Thang, Criteria for evaluating the effectiveness and efficiency of state management of business valuation service activities (in Vietnamese), kinh-doanh/tieu-chi-danh-gia-hieu-luc-hieu-qua- quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-hoat-dong-kinh-doanh- dich-vu-tham-dinh-gia-318050.html, 2020 (accessed 10 April 2020).
File đính kèm:
- tong_quan_cac_cach_tiep_can_ve_quan_ly_phat_trien_ben_vung.pdf