Tối đa hóa lợi ích giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong dự án cấp nước tập trung ở nông thôn Việt Nam
Nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung nông thôn ngày càng lớn
trong khi ngân sách nhà nước hạn chế không đáp ứng yêu cầu thì giải pháp đầu tư theo hình thức
đối tác công tư có vài trò và vị trí quan trọng để giải quyết vấn đề này. Để thu hút khu vực tư nhân
đầu tư theo hình thức đối tác công tư thì việc cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư là nhân tố
quan trọng nhất. Bài báo sử dụng mô hình lập trình tuyến tính nâng cao để đề xuất cơ cấu nguồn
vốn chủ sở hữu nhằm tối ưu lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư sử dụng số liệu dự án đầu tư xây
dựng nhà máy cấp nước sạch liên xã Trung Đông, Trực Tuấn huyện Trực Ninh; xã Nam Thanh
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Kết quả nghiên cứu cho thấy cơ cấu vốn chủ sở hữu tối ưu là 20%,
phần tham gia của nhà nước khoảng từ 28,32% đến 51,97% so với tổng chi phí đầu tư xây dựng
công trình. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để các bên liên quan như doanh nghiệp dự án, cơ quan quản
lý nhà nước và tổ chức tài chính cho vay/ngân hàng tham khảo khi lựa chọn dự án thực hiện theo
hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước tập trung nông thôn ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tối đa hóa lợi ích giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong dự án cấp nước tập trung ở nông thôn Việt Nam
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 1 TỐI ĐA HÓA LỢI ÍCH GIỮA KHU VỰC NHÀ NƯỚC VÀ KHU VỰC TƯ NHÂN TRONG DỰ ÁN CẤP NƯỚC TẬP TRUNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM Đoàn Thế Lợi, Nguyễn Tuấn Anh Viện Kinh tế và Quản lý Thủy lợi Nguyễn Hữu Dũng Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt: Nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung nông thôn ngày càng lớn trong khi ngân sách nhà nước hạn chế không đáp ứng yêu cầu thì giải pháp đầu tư theo hình thức đối tác công tư có vài trò và vị trí quan trọng để giải quyết vấn đề này. Để thu hút khu vực tư nhân đầu tư theo hình thức đối tác công tư thì việc cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư là nhân tố quan trọng nhất. Bài báo sử dụng mô hình lập trình tuyến tính nâng cao để đề xuất cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu nhằm tối ưu lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư sử dụng số liệu dự án đầu tư xây dựng nhà máy cấp nước sạch liên xã Trung Đông, Trực Tuấn huyện Trực Ninh; xã Nam Thanh huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Kết quả nghiên cứu cho thấy cơ cấu vốn chủ sở hữu tối ưu là 20%, phần tham gia của nhà nước khoảng từ 28,32% đến 51,97% so với tổng chi phí đầu tư xây dựng công trình. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để các bên liên quan như doanh nghiệp dự án, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức tài chính cho vay/ngân hàng tham khảo khi lựa chọn dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước tập trung nông thôn ở Việt Nam. Từ khóa: Vốn chủ sở hữu, quan hệ đối tác công - tư, công trình cấp nước tập trung nông thôn Summary: The demand for investment in the construction of rural water supply schemes is increasing while the state budget is limited to meet the requirements, the solution of investment in the form of public- private partners has several roles and important positions to solve this problem. In order to attract the private sector to invest in the form of public-private partnerships, the balance of benefits between the public and private sectors is the most important factor. The paper uses Enhanced Linear Programming (ELP) to propose a structure of equity to optimize benefits between the public and private sectors with data from an investment project of clean water supply scheme in Trung Dong and Truc Tuan communes, Truc Ninh district; Nam Thanh commune, Nam Truc district of Nam Dinh province. Research results show that the optimal equity structure is 20%, the public sector participation is from 28.32% to 51.97% of the construction investment. These findings should be used as a benchmark for relevant agencies such as project enterprises, state management agencies, and financial institutions when selecting projects for Public Private Partnership in Rural Water Supply in Vietnam. Keywords: equity structure, public-private partnership, rural water supply scheme. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Nước sạch là nhu cầu thiết yếu của con người, nhu cầu đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch nông thôn còn rất lớn, trong khi ngân sách vốn nhà nước hạn hẹp, nhất là trong bối Ngày nhận bài: 04/01/2019 Ngày thông qua phản biện: 25/02/2019 Ngày duyệt đăng: 26/3/2019 cảnh nợ công ở mức cao. Hơn nữa các cơ quan quản lý cấp nước nông thôn đang gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý và vận hành bền vững các công trình cấp nước nông thôn, tình trạng công trình hoạt động kém hiệu quả, xuống cấp xẩy ra ở nhiều địa phương, chất lượng dịch vụ cấp nước thấp nhất là các khu vực khan hiếm nước, ô nhiễm nguồn nước. Xu hướng thu hút khu vực tư nhân tham gia theo KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 2 hình thức đối tác công tư đã bắt đầu thực hiện từ những năm 1980, một số nước đã chuyển từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân như một phương tiện để cải thiện hoạt động hiệu quả của các công trình cấp nước (Haarmeyer và Mody, 1998). Theo thống kê của ngân hàng thế giới (WB) trong giai đoạn 1990-2017 có tổng số 1072 dự án cấp nước được thực hình theo hình thức đối tác công tư trên toàn thế giới, với tổng nguồn vốn 47,35 tỷ USD và tập trung chủ yếu ở vùng Đông Á và Thái Bình Dương, Châu Mỹ La Tinh và Caribe. Hình 1. Các số lượng và kinh phí thực hiện các dự án cấp nước theo hình thức đối tác công-tư giai đoạn từ năm 1990 đến 3/2018. Nguồn: Ngân hàng thế giới (2018) Huy động nguồn tài chính của khu vực tư nhân từ lâu đã được công nhận là đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các cơ sở hạ tầng công cộng trên toàn thế giới (Sungmin Yun và cộng sự 2009). Quan hệ đối tác công - tư (PPP) đang trở thành một lựa chọn ngày càng phổ biến của việc phân phối dự án (S. Thomas Ng và cộng sự 2007). Xu hướng hợp tác đầu tư theo hình thức PPP các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng tăng nhanh từ những năm 1990. Một quan hệ đối tác công và tư có thể hiểu đơn giản như là một thỏa thuận dài hạn giữa khu vực nhà nước và nhà đầu tư tư nhân với (Deepak K. Sharma và cộng sự 2010). Theo nghị định số 63 ... như sau: Thỏa mãn các điều kiện: KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 7 Ba thành phần chủ thể tham gia dự án PPP tương ứng với 3 nguồn vốn tương ứng là nợ của tổ chức tài chính/ngân hàng, vốn cổ phân tư nhân và phần tham gia của nhà nước. Nếu doanh thu dự kiến ít hơn so với kỳ vọng thì khả năng trả nợ các tổ chức tài chính/ngân hàng sẽ giảm, các tổ chức tài chính/ngân hàng xem xét tỷ số khả năng trả nợ (DSCR) của dự án. Để dự án đảm bảo khả năng trả nợ cần có sự tham gia của phần vốn nhà nước, dĩ nhiên đối với những dự án có lợi nhuận cao thì phần tham gia của nhà nước sẽ nhỏ xuống. Phần (P1-E1) là đại diện cho vốn chủ sở hữu tư nhân. Tuy nhiên nhà nước luôn muốn tối thiểu hóa khoản chi phí phải bỏ ra xây dựng các dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư, nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án được công khai. Để cân nhắc nguồn vốn đầu tư cho các dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư, hệ số γ để tính toán tổn thất cơ hội do việc sử dụng ngân sách chung cho các dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư. γ * E2 thể hiện cho chi phí cơ hội của nguồn vốn cho phần tham gia của nhà nước vào dự án PPP cấp nước sạch ở nông thôn. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Trong nghiên cứu này, các tác giả sử dụng nghiên cứu điển hình là dự án đầu tư xây dựng nhà máy cấp nước sạch liên xã Trung Đông, Trực Tuấn huyện Trực Ninh; Nam Thanh huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là dự án thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công tư đối với lĩnh vực cấp nước tập trung nông thôn ở Việt Nam. Vị trí công trình thu và trạm bơm nước cấp một đặt tại xã Nam Thanh, huyện Nam Trực. Trạm xử lý đặt tại khu đất ruộng xóm 8, xã Trung Đông, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Diện tích sử dụng đất của của dự án là 5.600m2 trong đó diện tích trạm bơm nước thô là 200 m2, diện tích của trạm xử lý khoảng 5.400m2. Dự án với công cuất cấp nước là 4.700 m3/ngày-đêm khai thác nước mặt sông Hồng. Với số người dân phục vụ của dự án khi dự án đi vào hoạt động ổn định là 23.874 người. Giá nước tính toán của dự án sau thuế là 9.918 đ/m3. Hình 3. Bản đồ khu vực thực hiện dự án Nguồn: Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Bảng 3. Các thông số đầu vào tính toán liên quan đến mô hình TT Thông số Giá trị Diễn giải 1 C 91,367 tỷ đồng Chi phí đầu tư xây dựng công trình 2 C0 0,600 tỷ đồng Chi phí giải phóng mặt bằng, dự án không có di dân tái định cư 2 iA 5,2% Hệ số chiết khấu của nguồn vốn nhà nước theo quy định của Việt Nam lấy theo lãi suất danh nghĩa của trái phiếu chính phủ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 8 TT Thông số Giá trị Diễn giải 3 iB 6,8% Hệ số chiết khấu của tổ chức tài chính/ngân hàng theo quy định tại thông tư số 55/2016/TT-BTC của Bộ Tài Chính ngày 23/3/2016 tính bằng 1,3 lần so với lãi suất trái phiếu chính phủ trong 10 năm. 4 iPmin 11% Hệ số chiết khấu của doanh nghiệp dự án tham khảo ngành giao thông thực hiện theo hình thức đối tác công tư đã thực hiện do chưa có quy định cụ thể. 5 iPmax 14% 6 DSCR 1,5 Bekatjan và cộng sự (2013); Deepak K. Sharma và cộng sự (2010) 7 γ 2 Tham khảo nghiên cứu của tác giả Deepak K. Sharma và cộng sự (2010) 8 T 30 năm Thời gian thực hiện dự án 9 Α 1,16 Hệ số chuyển đổi từ tỷ lệ chiết khấu iB sang iA 10 βmin 1,25 Hệ số chuyển đổi từ tỷ lệ chiết khấu của iPmin sang iA 11 βmax 1,98 Hệ số chuyển đổi từ tỷ lệ chiết khấu của iPmax sang iA Lĩnh vực cấp nước tập trung nông thôn tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan đến doanh thu của dự án do số hộ kết nối sau khi thực hiện dự án. Từ năm 2009, Chính phủ đã có chính sách thu hút khu vực tư nhân tham gia vào đầu tư, quản lý vận hành công trình nước sạch ở khu vực nông thôn tại Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg. Nghiên cứu của Viện Kinh tế và quản lý Thủy lợi thực hiện ở 3 tỉnh Long An, Thái Bình và Hà Nam1 (2015) cho thấy với dự án các dự án do khu vực tư nhân đầu tư thì hiệu suất giữa số hộ kết nối thực tế so với thiết kế là 89,50%, đối với các khu vực còn lại quản lý thì hiệu suất trung bình các tỉnh là 67,70% và tính trung bình cho các tất cả khu vực quản lý là 78,60%. Do đó, trong nghiên cứu này sẽ tính toán doanh thu, chi phí và lợi nhuận của dự án tương ứng với các hiệu suất tương ứng trong thực tế các dự án được thực hiện. Doanh thu, chi phí và lợi nhuận (trong đó bao gồm lợi nhuận sau khi trừ tất cả các chi phí cộng với khấu hao của công trình) trong thời gian thực hiện dự án 30 năm, tính toán với hiệu suất số hộ sử dụng thực tế bằng với số hộ theo thiết kế từ 67,70% đến 100% (xem bảng 4). Bảng 4. Doanh thu và chi phí của dự án tính cả thời gian thực hiện dự án (30 năm) Hiệu suất (tính theo số hộ đấu nối so với thiết kế) Doanh thu (tỷ đồng) Chi phí quản lý vận hành (tỷ đồng) Lợi nhuận (tỷ đồng) 100,00% 455,566 377,948 77,618 89,50% 407,732 338,263 69,468 78,60% 358,075 297,067 61,008 67,70% 308,418 255,871 52,548 Đưa1 các thông số của dự án điển hình trong 1 Viện Kinh tế và Quản lý Thủy lợi (2015), Báo cáo Đánh giá sự tham gia của khu vực tư nhân trong đầu tư xây dựng và quản lý vận hành khai thác hệ thống cấp nước nông thôn ở Việt Nam. bảng 3 và bảng 4 vào mô hình tuyến tính đơn giản ở trên và dùng phần mềm tối ưu LINGO 17.0 cho kết quả tính toán phần vốn chủ sở hữu, phần tham gia của nhà nước, phần đi vay của dự án như bảng 5. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 9 Bảng 5. Kết quả tính toán tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối ưu Hiệu suất (tính theo số hộ đấu nối so với thiết kế) E1 (tỷ đồng) E2 (tỷ đồng) D (tỷ đồng) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng chi phí xây dựng công trình (%) Tỷ lệ phần tham gia của nhà nước so với tổng chi phí xây dựng công trình (%) Tỷ lệ hần nợ so với tổng chi phí xây dựng công trình (%) 100% 18,273 25,873 47,221 20,00 28,32 51,68 89,5% 18,273 32,898 40,196 20,00 36,01 43,99 78,6% 18,273 40,192 32,902 20,00 43,99 36,01 67,7% 18,273 47,486 25,608 20,00 51,97 28,03 Kết quả nghiên cứu cho thấy với kịch bản là hiệu suất đưa vào vận hành từ 67,7% đến 100% thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu không đổi trong các kịch bản là 20% trên tổng chi phí đầu tư xây dựng. Kết quả nghiên cứu khá tương đồng với các kết quả nghiên cứu trước của các tác giả Carlos Fernandes và cộng sự (2015), Ke Feng và cộng sự (2017), Jan.Svedik và Libena.Tetrevova (2013). Và khi hiệu suất càng giảm thì tỷ lệ phầm tham gia của nhà nước lên từ 28,32% đến 51,97% so với vốn đầu xây dựng công trình. Ngoài ra, phần đi vay của dự án khi hiệu suất của công trình giảm thì phần vay nợ giảm từ 51,68% đến 28,03% so với tổng chi phí xây dựng. Với kết quả này, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân tương ứng với khung lợi nhuận kỳ vọng, và lợi ích của nhà nước tương ứng với lãi suất của đối với các nguồn vốn đầu tư công theo trái phiếu của chính phủ. Và đối với tổ chức cho vay/ngân hàng xác định được cơ cấu phần đi vay của dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước tập trung nông thôn đảm bảo khả năng trả nợ. Với kết quả này, các nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng mức đầu tư đảm bảo tối ưu cho các bên liên quan khi lập dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước tập trung ở nông thôn. 5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH Nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung ở nông thôn ngày càng lớn trong khi ngân sách nhà nước hạn chế, thì đầu tư theo hình thức đối tác công tư có vài trò và vị trí quan trọng để giải quyết vấn đề cấp nước sạch nông thôn. Cơ cấu các nguồn vốn tham gia vào dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước ở nông thôn đóng đảm bảo cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân, phần tham gia của nhà nước và phần đi vay đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ công - tư. Việc tính toán cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và khu vực tư đóng vai trò quan trọng quyết định tính bền vững của dự án trong thời gian thực hiện dự án. Sử dụng mô hình tối ưu tuyến tính sử dụng nhằm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước tập trung ở nông thôn. Với dự án nghiên cứu điển hình cho thấy vốn chủ sở hữu yêu cầu là 20% so với tổng chi phí xây dựng công trình đảm bảo lợi ích cân bằng giữa khu vực tư nhân và khu vực công. Tương ứng, tỷ lệ phần tham gia của nhà nước nằm trong khoảng từ 28,32% đến 51,97% so với tổng chi phí xây dựng công trình. Kết quả nghiên cứu rất hữu ích cho doanh nghiệp dự án, tổ chức tài chính cho vay/ngân hàng và cơ quan quản lý nhà nước làm cơ sở để lập dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực cấp nước ở khu vực nông thôn. Về phía cơ quan quản lý nhà nước: (1) Xác định khoảng giao động của vốn chủ sở KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 10 hữu; (2) Là cơ sở để đàm phán, thỏa thuận hợp đồng dự án. Về phía doanh nghiệp dự án, xác định được cơ cấu vốn chủ sở hữu của mình và lợi nhuận kỳ vọng thu được. Về các tổ chức tài chính cho vay/ngân hàng là cơ sở để xác định được cho vay đảm bảo tính khả thi của dự án. Tuy nhiên, với mô hình tối ưu ở trên tương ứng với 3 nguồn vốn cho dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư có 3 lãi suất tương ứng khác nhau do đó sẽ rất phức tạp trong thực tế khi có nhiều biến động có thể xảy ra trong thực tế vận hành. Và ngoài ra, do chưa có dự án cấp nước tập trung ở khu vực nông thôn nào đã thực hiện trước nên các thông số về khung lợi nhuận tham khảo của lĩnh vực giao thông để tính toán. Dự án điển hình nằm ở vùng đồng bằng ở Việt Nam là vùng thuận lợi do dân cư ở khu vực nông thôn tập trung. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. A. Wibowo (2009), ‘Maximizing equity net present value of project-financed infrastructure project under build, operate, transfer (BOT) scheme’, In Proceedings of the International Conference on Sutainable Infrastructure and Built Environment in Development Countries, pp.198-204. [2]. Bakatjan, S., Arikan, M. và Tiong, R. L. K. (2003), ‘Optimal Capital Structure Model for BOT Power Projects in Turkey’. Journal of Construction Engineering and Management, (129), 89-97. (2003)129: 1(89). [3]. Carlos fernandes, Miguel ferreira và Filipe moura (2016), ‘PPPs — True Financial Costs and Hidden Returns’, Transport Reviews, Issue 2, Volume 36. [4]. David Haarmeyer và Ashoka Mody (1998), ‘Tapping the Private Sector Approaches to Managing Risk in Water and Sanitation’, The Journal of Structured Finance, 4 (2) 7-23, Summer 1998 [5]. Deepak K. Sharma, Qingbin Cui, Lijian Chen và Jay K. Lindly (2010), ‘Balancing Private and Public Interests in Public–Private Partnership Contracts Through Optimization of Equity Capital Structure’, Transportation Research Record: Journal of the Transportation Research Board, No. 2151 pp. 60–66. [6]. Eduardo Engel, Ronald Fischer và Alexander Galetovic (2014), ‘Finance and Public- Private Partnerships’, from: https://www.rba.gov.au/ publications/ confs/ 2014/ pdf/engel-fischer-galetovic.pdf [7]. ESCAP (2011), ‘A guidebook on public-private partnership in infrastructure’ [8]. Fredy Kurniawan, Sri Wiwoho Mudjanarko và Stephen Ogunlana (2015), ‘Best practice for financial models of PPP projects’, The 5th International Conference of Euro Asia Civil Engineering Forum (EACEF-5). [9]. Gibranius Berutu, Muhammad Firdaus và Hendro Sasongko (2017), ‘Capital Structure Optimization of Staging Development Toll Road Project in Indonesia’, International Journal of Science and Research, Volume 6 Issue 3, March 2017. [10]. Viện Kinh tế và Quản lý Thủy lợi (IWEM) (2015), ‘Report on private sector participation in rural water supply (Study sites: Ha Nam, Thai Binh, Long An)’, Workshop on rural water supply and sanitation national target program for period of 2012-2015 closing and participation of private sector in rural water supply, November 2015. [11]. Jan.Svedik và Libena.Tetrevova (2015), ‘Use of Public Debt Mezzanine Instruments in the Czech Republic’, Procedia - Social and Behavioral Sciences, Volume 210, Pages 449-455. CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 53 - 2019 11 [12]. K. C. Iyer và M. Sagheer (2012), ‘Optimization of bid winning potential and capital structure for buildoperate-transfer road project in India’, Journal of Management and Engineering, 28 (2), pp. 104-113.. [13]. S. Bakatjan, M. Arikan và RLK. Tiong, ‘Optimal capital structure model for BOT power projects in Turkey’, Journal of Construction Engineering and Management, 129 (1), pp. 89-97. [14]. Schaufelberger và Wipadapisut (2003), ‘Alternate Financing Strategies for Build-Operate- Transfer Projects’, Journal of Construction Engineering and Management, Vol. 129, Issue 2. [15]. S. Thomas Ng, Jingzhu Xie, Yau Kai Cheung và Marcus Jefferies (2007), ‘A simulation model for optimizing the concession period of public–private partnerships schemes’, International Journal of Project Management, Volume 25, Issue 8, Pages 791-798. [16]. Sungmin Yun, Seung Heon Han, Hyoungkwan Kim và Jong Ho Ock (2009), ‘Capital structure optimization for build–operate–transfer (BOT) projects using a stochastic and multi-objective approach’, Canadian Journal of Civil Engineering, 38(2): 166-174. [17]. Ke Feng, Wei Xiong, Shouqing Wang, Chunlin Wu và Yanguang Xue (2017), ‘Optimizing an Equity Capital Structure Model for Public–Private Partnership Projects Involved with Public Funds’, Journal of Construction Engineering and Management, Vol. 143, Issue 9. [18]. Kleemeier Elizabeth L (2010), ‘Private Operators and Rural Water Supplies : A Desk Review of Experience’. Water papers;. World Bank, Washington, DC, from: https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/17248. [19]. M. Islam và S. Mohamed (2009), ‘Bid-winning potentialoptimization for concession schemes with imprecise investment parameters’, Journal of Construction Engineering and Management, 135 (8), pp. 690-700. [20]. World Bank (2017), ‘Investments in IDA Countries Private Participation in Infrastructure (PPI) 2013 – 2017’, from: https://ppi.worldbank.org/ ~/media/ GIAWB/PPI/ Documents/Global-Notes/PPI_ IDACountries_2013-2017.pdf [21]. Trung tâm tư vấn và chuyển giao công nghệ cấp nước và vệ sinh môi trường (2017), Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Đầu tư xây dựng nhà máy cấp nước sạch liên xã: Trung Đông, Trực Tuấn, huyện Trực Ninh; Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. [22]. Xueqing Zhang (2005), ‘Financial Viability Analysis and Capital Structure Optimization in Privatized Public Infrastructure Projects’, Journal of Construction Engineering and Management, Vol. 131, Issue 6.
File đính kèm:
- toi_da_hoa_loi_ich_giua_khu_vuc_nha_nuoc_va_khu_vuc_tu_nhan.pdf