Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc

Sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Hàn, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có khoảng trên 135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn, có gần 40.000 cô dâu Việt. Hiện, Hàn Quốc có 4 trường đại học có khoa hoặc bộ môn tiếng Việt hoặc Việt Nam học.

 Tỉ lệ sinh viên ngành Tiếng Việt và Việt Nam học ra trường tìm được việc làm rất cao. Cung không đủ cầu. Tiếng Việt không chỉ là nhu cầu đối với những người Hàn Quốc làm ăn sinh sống ở VN, nhu cầu đối với những người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam tại Hàn Quốc, mà trong tương lai không xa, tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với con em hàng chục nghìn gia đình Hàn-Việt. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm 2014, tiếng Việt là một trong 8 ngoại ngữ thứ hai thi vào đại học. Chủ trương này đã đem đến cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng mới.

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 1

Trang 1

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 2

Trang 2

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 3

Trang 3

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 4

Trang 4

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 5

Trang 5

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 6

Trang 6

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 7

Trang 7

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 8

Trang 8

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 9

Trang 9

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Trúc Khang 11/01/2024 3760
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc

Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 70 
Tình hình đào tạo tiếng Việt 
và Việt Nam học tại Hàn Quốc 
 Lê Thị Hồng Minh 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
 Lee Kang Woo 
Trường Đại học Chungwoon, Hàn Quốc 
TÓM TẮT: 
Sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao 
Việt-Hàn, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn 
nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối 
tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn 
Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có khoảng trên 
135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt 
Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam 
đang sống và làm việc tại Hàn, có gần 40.000 
cô dâu Việt. Hiện, Hàn Quốc có 4 trường đại 
học có khoa hoặc bộ môn tiếng Việt hoặc Việt 
Nam học. Tỉ lệ sinh viên ngành Tiếng Việt và 
Việt Nam học ra trường tìm được việc làm rất 
cao. Cung không đủ cầu. Tiếng Việt không chỉ 
là nhu cầu đối với những người Hàn Quốc làm 
ăn sinh sống ở VN, nhu cầu đối với những 
người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam 
tại Hàn Quốc, mà trong tương lai không xa, 
tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với 
con em hàng chục nghìn gia đình Hàn-Việt. Bộ 
Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm 
2014, tiếng Việt là một trong 8 ngoại ngữ thứ 
hai thi vào đại học. Chủ trương này đã đem 
đến cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng 
mới. 
Từ khóa: đào tạo, tiếng Việt, tại Hàn Quốc, nhu cầu, triển vọng 
1. Mở đầu 
Sau hơn 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao 
Việt - Hàn1, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn 
nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối tác 
đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn Quốc đầu 
tư lớn nhất. Hiện có trên 135.000 người Hàn đang 
sinh sống tại Việt Nam, và trong số 123.000 người 
Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn Quốc, có 
gần 40.000 cô dâu Việt2. Số cô dâu những năm gần 
1 Chúng tôi tính từ khi Đại Hàn dân quốc và Cộng hòa Xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam thiết lập quan hệ đầy đủ ở cấp đại sứ tháng 
12 năm 1992. Còn nếu tính cả quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc 
với riêng Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) trước đó, từ 
tháng 10/1955 đến 1975, thì thời gian này đã là hơn 40 năm. 
2 Trên trang web của Bộ Ngoại giao Việt Nam tại Hàn Quốc, tính 
đến cuối năm 2013, số người Hàn đang sống tại Việt Nam là 
135.000 người. Một thông tin khác cho biết, tính đến đầu năm 
2015, con số này đã tăng lên gần 140.000. Theo thống kê của Bộ 
tư pháp Hàn Quốc tại thời điểm ngày 26/3/2015, số người Việt 
Nam đang sống và làm việc tại Hàn Quốc là 122,744 người và số 
cô dâu Việt là 39,647 người (số liệu do Tổng Lãnh sự quán Hàn 
đây trung bình mỗi năm tăng 7.000 người. Từ 2012, 
Bộ Lao động Hàn Quốc chủ trương tuyển dụng 
thêm mỗi năm 15.000 lao động mới từ Việt Nam 
sang. Như vậy, theo tình hình chung, về cơ bản, số 
công dân của Việt Nam ở Hàn Quốc mỗi ngày mỗi 
tăng và số công dân Hàn Quốc ở Việt Nam cũng là 
một con số rất lớn. Nhịp cầu nối các mối quan hệ 
chính trị, kinh tế, ngoại giao và cả tình cảm, đó 
chính là ngôn ngữ. 
Tiếng Việt không chỉ là nhu cầu đối với những 
người Hàn làm ăn, sinh sống ở Việt Nam mà còn là 
Quốc tại Tp. Hồ Chí Minh cung cấp). Tuy nhiên, theo thông báo 
chính thức của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc ngày 
08/12/2012, khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình 
Minh sang thăm Hàn Quốc, thì số cô dâu người Việt vào thời 
điểm đó đã là gần 50.000 người. Có sự khác nhau giữa 2 con số, 
theo chúng tôi, là do tiêu chí thống kê, bởi có một sự thực là, có 
một số cô dâu sau khi qua Hàn, đã li dị. Một số khác, nay đã có 
quốc tịch Hàn. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 71 
nhu cầu đối với những người quản lý và sử dụng 
nhân công Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong tương lai 
không xa, tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ 
đối với con em hàng chục nghìn gia đình Hàn - 
Việt, mà số trẻ em ra đời trong những gia đình này 
tính đến cuối năm 2012 đã lên tới con số 35.000. 
Quá trình đào tạo tiếng Việt và ngành Việt Nam 
học ở Hàn Quốc đã có một lịch sử gần 50 năm, 
nhưng có không nhiều bài viết về vấn đề này. Bài 
đầu tiên mà chúng tôi được biết là bài của GS TS. 
Kim Ki Tae “Về việc dạy và học Tiếng Việt tại Hàn 
Quốc” đăng trên Tạp chí “Ngôn ngữ”, số 2 /1996, 
của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc 
gia – Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội. Bài viết là một 
sự khảo sát khá tỉ mỉ về việc dạy và học tiếng Việt 
tại Hàn trong quá trình hơn 30 năm – từ khi lớp 
tiếng Việt đầu tiên ra đời (1965) cho đến thời điểm 
tác giả viết bài (1996). “Quá trình đó chịu sự chi 
phối khá mạnh của mối quan hệ giữa hai 
nước”(Kim Ki Tae) [2, tr. 60]. Dẫu chỉ dài 3 trang, 
bài viết của giáo sư Kim đã trình bày cặn kẽ về sự 
hình thành các lớp, các khoa tiếng Việt đầu tiên ở 
Hàn với thời gian, không gian, địa điểm, số lượng 
sinh viên, họ tên, học hàm, học vị của đội ngũ giáo 
sư, giảng viên tại Hàn cũng như các giáo sư, giảng 
viên được mời từ Việt Nam qua, và tình hình biên 
soạn giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc từ 1966 
đến 1996 m ... ỹ, Nhật). Và, “Theo Cục đầu tư 
nước ngoài, hầu hết các tập đoàn doanh nghiệp lớn 
của Hàn Quốc đã đầu tư và kinh doanh có hiệu quả 
tại Việt Nam, như Samsung, Kumho, GS, Posco, 
LG,CJ”(Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online , ngày 
6/6/2012). Thị trường Việt Nam đang được xem là 
điểm đến đầu tư hấp dẫn. Tập đoàn Samsung có 8 
nhà máy trên thế giới thì 2 trong số đó được xây 
dựng ở Việt Nam, Tập đoàn Daekwang có 3 nhà 
máy lớn Và, như trên đã nói, số người Hàn Quốc 
đang sống và làm việc tại Việt Nam hiện đã trên 
135 nghìn người. Số người Hàn qua lại Việt Nam 
hàng năm từ nửa triệu đã tăng lên 600 nghìn, rồi 
780.000. Năm 2014 vừa qua là khoảng 860.000. 
Không chỉ các công ty có địa bàn hoạt động ở Việt 
Nam cần mà các công ty tuyển dụng người lao động 
Việt Nam tại Hàn Quốc cũng rất cần người biết 
tiếng Việt, am hiểu về văn hóa Việt. Ngoài nhu cầu 
cho các ngành kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo 
dục, ngoại giao tiếng Việt còn là nhu cầu cho một 
số nhà hoạt động xã hội. Bởi lẽ Hàn Quốc đang có 
40 nghìn cô dâu người Việt nên có một số vấn đề xã 
hội nảy sinh, cần được xử lý, mà phần lớn là do bất 
đồng ngôn ngữ và khác biệt văn hóa. Ngoài ra, các 
nhà quản lý và hoạt động xã hội còn phải giải quyết 
một vấn đề nan giải là hiện có hơn 15 nghìn người 
lao động Việt Nam bỏ trốn khỏi các hợp đồng, đang 
sống bất hợp pháp trên đất nước Hàn và hiện có một 
số băng nhóm, tội phạm xã hội là người Việt. 
Tiếng Việt không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp thiết 
của việc đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa hiện tại 
mà còn là một bước đón đầu của chính phủ Hàn 
Quốc. Hàng chục nghìn cô dâu người Việt, người 
Philipin, người Trung Quốc với hàng chục ngàn 
gia đình đa văn hóa sẽ là một nguyên nhân xã hội 
có thể đưa đến hiện tượng song ngữ hoặc đa ngữ 
trong tương lai. Một ngày không xa, việc dạy tiếng 
Việt sẽ phải hướng tới đối tượng là con em các gia 
đình Hàn - Việt, mà con số các cháu bố Hàn mẹ 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 77 
Việt hiện đã là 35.000, và còn tiếp tục tăng lên mỗi 
ngày. Chính sách giáo dục ngoại ngữ của chính phủ 
sẽ là một “bà đỡ” đối với các gia đình này. Nó 
không chỉ giúp cho trong mỗi gia đình, mẹ con có 
thể hiểu nhau, mẹ có thể dạy con, giúp giảm thiểu 
những những vấn đề xã hội khi đứa trẻ trưởng 
thành, mà còn giúp cho những đứa con, khi chọn 
tiếng Việt làm ngoại ngữ, thì việc học tập cũng sẽ 
thêm phần thuận lợi. Chính những đứa trẻ này, rất 
có thể, trong tương lai sẽ là một trong những nhịp 
cầu nối quan hệ giữa hai nước thêm phần bền chặt. 
Điều này, hẳn các nhà lãnh đạo Hàn Quốc đã có 
kinh nghiệm từ các nhà lãnh đạo Mỹ với sự tư vấn 
của các nhà ngôn ngữ học xã hội từ những năm 60 
[6, tr. 16]. 
Nhu cầu cần người biết tiếng Việt lớn như thế, 
nhưng mỗi năm, 4 trường Đại học ở Hàn Quốc có 
số lượng sinh viên đầu vào chỉ là 140 em, và đầu ra 
có thể ít hơn một chút. Như vậy, tổng số sinh viên 
tốt nghiệp môn tiếng Việt hoặc ngành Việt Nam học 
ở các trường đại học nói trên trong 12 năm – từ 
2002 đến 2014 – chỉ khoảng 1.820 người. Nếu tính 
thêm cả các sinh viên học tiếng Việt rải rác trong 
các trường đại học khác, thì con số này cũng chỉ 
khoảng trên dưới 2000 người. Làm một phép so 
sánh nhỏ, cũng có thể thấy là cung không đủ cầu, 
mặc dù tại Việt Nam, hàng năm đã có hàng nghìn 
người Hàn Quốc, trong đó có hàng trăm sinh viên, 
học viên Hàn, đang học tiếng Việt và Việt Nam 
học. 
Tình hình chung của các trường đại học là 
những năm gần đây, tỉ lệ sinh viên ra trường tìm 
được việc làm ở Khoa Tiếng Việt và ngành Việt 
Nam học chiếm vị trí rất cao so với tỉ lệ chung của 
toàn trường. Ví dụ: năm 2011, tỉ lệ sinh viên trường 
ĐHNN Hàn Quốc tìm được việc làm sau khi tốt 
nghiệp là 62% (trong đó đã bao gồm cả Khoa Tiếng 
Việt), trong khi đó, sinh viên Khoa Tiếng Việt được 
nhận vào làm việc chiếm 78,3%, vượt tỉ lệ chung là 
16,3%. Tương tự như vậy, sinh viên ĐHNN Pusan 
có 46,4% tìm được việc làm thì sinh viên Khoa 
Tiếng Việt có việc làm chiếm 68,1%, vượt 22,3%. 
Sinh viên ĐH Chungwoon 59,7 % tìm được việc 
làm thì sinh viên Khoa Việt Nam học chiếm 69,6%, 
vượt tỉ lệ chung là 9,9%7. 
Bảng 3. Tỉ lệ SV tìm được việc làm của các 
khoa tiếng Việt 
so với tỉ lệ chung của toàn trường năm 2011 
Trường 
ĐHNN 
Hàn Quốc 
Trường 
ĐHNN 
Pusan 
Trường 
ĐH 
Chungwoon 
Khoa 78,3% 68,7% 69,6% 
Trường 62,0 % 46,4% 59,7% 
Vượt tỉ 
lệ chung 
16,3% 22,3% 9,9% 
(tham khảo Daehakalimi, tác giả thực hiện) 
Với tình hình chung là cung không đủ cầu như 
đã nói trên nên một số sinh viên tuy mới đang học 
năm thứ 3, thứ 4 nhưng đã được các công ty nhận 
vào làm việc. Các sinh viên khá, giỏi gần như chỉ 
cần sắp ra trường hoặc vừa ra trường, chưa kịp có 
tấm bằng đại học trong tay là đã có các công ty 
chào mời vào làm việc ngay. Đơn cử là liên tục 
trong các năm 2012, 2013, các sinh viên giỏi của 
ĐH Chungwoon đang học năm thứ 4 đã được một 
số công ty lớn của Hàn Quốc mời tới phỏng vấn và 
lập tức nhận vào làm việc với mức lương khởi điểm 
25.000 USD/ năm nếu làm tại Hàn. Còn nếu sang 
Việt Nam thì sẽ được hưởng thêm 60%, tức là 
40.000 USD/năm (trên 3.330 đô-la/tháng). Trong 
tình hình kinh tế thế giới đang khủng hoảng, công 
ăn việc làm đang khó khăn như hiện nay, và 
Chungwoon chưa phải là một trường đại học danh 
tiếng, mà sinh viên chưa ra trường đã được tuyển 
dụng với mức lương khởi điểm như vậy thì đó là 
một tín hiệu đáng mừng cho đầu ra của ngành Việt 
Nam học. Năm 2012, lớp năm thứ 4 của ĐH 
Chungwoon, 1 tháng trước khi kết thúc năm học đã 
có 13/21 em có việc làm, 3 em chờ kết quả phỏng 
7 Daehakalimi (Trung tâm thông tin đại học thuộc Hội Giáo dục 
và Đào tạo Đại học Hàn Quốc, 
(Bảng 3) 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 78 
vấn. Trên lớp chỉ còn 5 sinh viên tiếp tục đi học. 
Sau khi tốt nghiệp không lâu, tất cả đều có việc làm. 
Năm 2013, số sinh viên được nhận vào làm việc 
trước khi nhận bằng tốt nghiệp tuy có thấp hơn, 
nhưng không phải là do các công ty không tiếp 
nhận, mà chủ yếu là do các em muốn học hoàn 
chỉnh chương trình trước khi bước ra xã hội. 
Kết quả sinh viên ra trường tìm được việc làm 
đã có ảnh hưởng rõ rệt đến công tác tuyển sinh. Tỉ 
lệ đầu vào của các khoa tiếng Việt đều đang tiếp tục 
tăng lên. Nhờ đó mà chất lượng ngày một được cải 
thiện. 
Năm 2012-2013, một cuộc thăm dò nhỏ đối với 
sinh viên ĐHNN Hàn Quốc và ĐH Chungwoon đã 
được tiến hành, phần lớn các em cho biết các em 
chọn Khoa Tiếng Việt hay ngành Việt Nam học là 
do ngành này dễ kiếm việc làm. Một số em thấy 
ngành này có khả năng có triển vọng lớn. Lý do kế 
tiếp là do các em thích Việt Nam hoặc thích tiếng 
Việt, hay do gia đình muốn các em học khoa này. 
Khoảng 11 -12% là do thi vào khoa khác không đủ 
điểm nên xin chuyển khoa. Một số sinh viên 
Chungwoon chọn cùng lúc 2-3 lý do7. Trong số 
36,6% chọn lý do vì ý muốn của gia đình thì 9,7% 
có thêm lý do ra trường dễ tìm việc làm: 
Bảng 4. Lý do học Khoa Tiếng Việt/ Việt Nam 
học của các sinh viên 
Lý do học Khoa 
Tiếng Việt/ Việt 
Nam học 
ĐHNN 
Hàn Quốc 
ĐH 
Chungwoon 
1 
Ra trường dễ tìm 
việc làm 
38,6% 40,2% 
2 
Thích Việt Nam 
hoặc thích tiếng Việt 
30% 36,6% 
3 Theo ý muốn của gia 
đình 
1% 36,6% 
4 
Thi vào khoa khác 
không đủ điểm 11,4% 12,2% 
Các lý do khác là vì bạn bè rủ, vì học khoa này 
dễ, vì các em cần có 1 tấm bằng đại học, vì có bố/ 
7 Một số sinh viên ĐH Chungwoon chọn 2, 3 lý do nên tỉ lệ phần 
trăm trong vượt hơn 100%. 
mẹ hoặc bạn thân sống ở Việt Nam, vì em thích học 
ngoại ngữ, vì muốn giúp đỡ những phụ nữ Việt 
Nam sống tại Hàn, vì khoa này có những tiêu chuẩn 
phù hợp với khả năng của em, v.v.. Các số liệu cho 
thấy tỉ lệ của mỗi lý do, sinh viên ĐHNN Hàn Quốc 
và ĐH Chungwoon phần lớn tương đương nhau. 
Chỉ nguyên nhân chọn trường vì gia đình là chênh 
lệch nhau rất lớn. Có lẽ các sinh viên giỏi thường có 
tính độc lập cao, ít phụ thuộc ý kiến của cha mẹ. 
Tại ĐH Chungwoon, 86% sinh viên trả lời khi 
ra trường muốn làm việc tại Hàn Quốc, trong đó, 
49% muốn được làm công việc có liên quan tới 
chuyên môn Việt Nam học. Số còn lại thì cho rằng 
công việc có liên quan hay không liên quan đến 
Việt Nam cũng không quan trọng, miễn là có việc 
làm. 14% muốn làm việc tại Việt Nam. Tại ĐHNN 
Hàn Quốc, 84% muốn làm việc tại Hàn, trong đó 
57% cho rằng làm ở công ty có liên quan đến Việt 
Nam hay không cũng không quan trọng. 16% muốn 
làm việc tại Việt Nam. 
Phần lớn sinh viên cho biết mặc dù nguyện vọng 
của các em là làm việc ở Hàn Quốc, nhưng trong 
thời buổi kinh tế khó khăn, sự cạnh tranh khá gay 
gắt như hiện nay, thì nếu có việc làm và được cử 
sang Việt Nam, các em vẫn rất sẵn sàng. Vì quan hệ 
Hàn Quốc - Việt Nam đang ngày càng tốt đẹp, Việt 
Nam là một nước đang phát triển, với dân số 90 
triệu người8, nên đây sẽ là một thị trường đầy tiềm 
năng. Hơn nữa, nếu các em sang Việt Nam thì luôn 
được các công ty cho hưởng chế độ lương ưu đãi. 
Với uy tín của nhà trường, các sinh viên ĐH 
Ngoại ngữ Hàn Quốc khi tốt nghiệp, thường làm 
việc ở cơ quan chính phủ, làm trong ngành ngoại 
giao, báo chí, truyền hình, giảng dạy ở các trường 
đại học, trung học, làm việc ở các ngân hàng hay 
các tập đoàn lớn như Samsung, LG, Postco, Hyun 
Dae, Lotte, Imark, CJ, v.v.. Các sinh viên ĐH 
Ngoại ngữ Pusan, khoảng 70% sau khi tốt nghiệp 
làm việc ở các tập đoàn, các công ty đang đầu tư 
vào Việt Nam, các nhà máy công nghiệp nhẹ, chủ 
8 Tổng cục Thống kê Việt Nam ( 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 79 
yếu là cho các ngành may mặc, giày da Một số 
làm cho công an đối ngoại, phòng xuất nhập cảnh, 
làm ở cơ quan ngoại giao, đại sứ quán, lãnh sự quán 
hay làm cho tập đoàn Samsung, Posco, Daekwang, 
Hansol Một số nữa thì làm cho các công ty vừa 
và nhỏ. Các sinh viên ĐH Chungwoon thì thường 
làm cho các công ty vừa và nhỏ đang đầu tư vào 
Việt Nam, một số làm cho Posco và Dorco Có 
thể nói, cánh cửa đầu ra của các Khoa Tiếng Việt và 
Việt Nam học ở Hàn Quốc hiện nay đang rộng mở. 
3. Kết luận 
Việt Nam hiện đang chủ trương phát triển và hội 
nhập bền vững với các nước trong khu vực và với 
thế giới. Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Hàn hiện 
đang phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực với tư 
cách là đối tác hợp tác chiến lược. Tiếng Việt, trong 
bối cảnh giao tiếp liên văn hóa, là nhịp cầu không 
thể thiếu góp phần thúc đẩy mối quan hệ này ngày 
thêm khăng khít. Cùng với quan hệ kinh tế, văn 
hóa, chính trị, ngoại giao đang ngày càng được đẩy 
mạnh, tiếng Việt đang ngày càng được coi trọng 
trên đất nước Hàn. Trong tình hình khủng hoảng 
kinh tế thế giới, việc đào tạo tiếng Việt tại một số 
quốc gia như Pháp, Úc, Trung Quốc đang rơi vào 
cảnh sa sút, khó khăn9, thì việc đào tạo tiếng Việt và 
Việt Nam học tại Hàn Quốc giờ đây lại đang được 
9 Theo báo cáo của PGS.TS Hàm Man Tuyết, ĐH Bắc Kinh, 
Trung Quốc “Định hướng phát triển đào tạo Việt Nam học ở Đại 
học Bắc Kinh”, và TS. Thái Duy Bảo (ĐH Quốc gia Úc), “Việt 
Nam học và việc giảng dạy tiếng Việt ở Úc, thực trạng và triển 
vọng”, cùng các phát biểu của họ và ý kiến phát biểu của TS. 
Nguyễn Thị Hiệp, giáo sư dạy tiếng Việt tại ĐH Paris 7 (Pháp) 
tại tiểu ban 12, Hội thảo Quốc tế “Việt Nam học lần thứ IV”, Hà 
Nội (26-28/11/2012). Các bài báo cáo trên hiện chưa được in 
toàn văn. 
Chính phủ và Bộ Giáo dục Hàn Quốc quan tâm thúc 
đẩy mạnh và là một bức tranh mang màu sắc lạc 
quan. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ 
năm 2014, tiếng Việt là một trong những ngoại ngữ 
thứ hai thi vào đại học, bên cạnh tiếng Đức, Pháp, 
Nhật, Nga, Tây Ban Nha, Trung Quốc, và Ả Rập. 
Chủ trương này đã trao cho tiếng Việt những cơ hội 
và triển vọng mới. 
Sự phát triển quan hệ giữa hai nước là động lực 
thúc đẩy ngành Việt Nam học phát triển ngày càng 
mạnh ở Hàn, và hứa hẹn một tương lai tươi sáng 
cho bộ môn tiếng Việt và ngành Việt Nam học. Vị 
trí tiếng Việt đã được nâng cao. 
Trên đây là một vài nét phác họa của chúng tôi. 
Bài viết của chúng tôi mới chỉ dừng ở cấp độ miêu 
tả, cung cấp thông tin. Do điều kiện về thời gian, 
chúng tôi chưa có cơ hội tiếp xúc với các nhà tuyển 
dụng để có thêm chi tiết về yêu cầu của họ đối với 
ngành Tiếng Việt và Việt Nam học, cũng như chưa 
khảo sát kỹ tình hình xuất bản giáo trình tiếng Việt 
tại Hàn. Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ là một tài 
liệu tham khảo cho các nhà quản lý giáo dục hay 
hoạch định chính sách của Việt Nam và Hàn Quốc 
trong những chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, 
giáo dục, tăng cường hợp tác giữa hai quốc gia. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 80 
The reality of Vietnamese language teaching 
and Vietnamese Studies education in Korea 
 Le Thi Hong Minh 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Over 20 years of Korea-Vietnam 
relationship, Korea has become the biggest 
investor in Vietnam, and Vietnam the forth on 
the list of Korea’s most important partners. 
There are over 135,000 Koreans living in 
Vietnam and out of 123,000 Vietnamese living 
and working in Korea, there are 40,000 
Vietnamese wives to Korean husbands. 
Currently, in Korea there are 4 universities that 
have faculties or departments of the 
Vietnamese language or of Vietnamese 
Studies, with a large number of alumni who 
have successfully found jobs. Demand is 
higher than supply capacity. Vietnamese 
proficiency is not only essential to Koreans 
living and working in Vietnam and Korea-based 
companies with Vietnamese employees but 
also will be valuable to children of thousands of 
Korean-Vietnamese families in the coming 
years. The Ministry of Education of Korea has 
just announced a policy stating that the 
Vietnamese language will be one of the eight 
second languages in the national university 
entrance examination, which will bring to 
Vietnamese language teaching new 
opportunities and prospects. 
Keywords: teach, the Vietnamese language, in Korea, need, prospects 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Daehakalimi (Trung tâm thông tin đại học 
thuộc Hội Giáo dục và đào tạo đại học Hàn 
Quốc, 
?process=load). 
[2]. Homepage của Trường Đại học Chungwoon 
( 
[3]. Homepage của Trường Đại học Ngoại ngữ 
Pusan ( 
[4]. Homepage của Trường Đại học Ngoại ngữ 
Hàn Quốc ( 
[5]. Kim Ki Tae(1996), Về việc dạy và học tiếng 
Việt tại Hàn Quốc, Tạp chí “Ngôn ngữ”, số 2 
/1996, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân 
văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 
tr.60-62. 
[6]. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã 
hội – Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản 
Khoa học Xã hội. 
[7]. Nguyễn Văn Phúc, Song Jeong Nam (2006), 
Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc, Kỷ 
yếu hội thảo Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb. 
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 362 - 377. 
[8]. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online 
(
B-KTSG/), số ra ngày 6/6/2012. 
[9]. Tổng cục Thống kê Việt Nam 
( 

File đính kèm:

  • pdftinh_hinh_dao_tao_tieng_viet_va_viet_nam_hoc_tai_han_quoc.pdf