Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc
Sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Hàn, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có khoảng trên 135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn, có gần 40.000 cô dâu Việt. Hiện, Hàn Quốc có 4 trường đại học có khoa hoặc bộ môn tiếng Việt hoặc Việt Nam học.
Tỉ lệ sinh viên ngành Tiếng Việt và Việt Nam học ra trường tìm được việc làm rất cao. Cung không đủ cầu. Tiếng Việt không chỉ là nhu cầu đối với những người Hàn Quốc làm ăn sinh sống ở VN, nhu cầu đối với những người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam tại Hàn Quốc, mà trong tương lai không xa, tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với con em hàng chục nghìn gia đình Hàn-Việt. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm 2014, tiếng Việt là một trong 8 ngoại ngữ thứ hai thi vào đại học. Chủ trương này đã đem đến cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng mới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình đào tạo Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 70 Tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc Lê Thị Hồng Minh Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM Lee Kang Woo Trường Đại học Chungwoon, Hàn Quốc TÓM TẮT: Sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Hàn, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có khoảng trên 135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn, có gần 40.000 cô dâu Việt. Hiện, Hàn Quốc có 4 trường đại học có khoa hoặc bộ môn tiếng Việt hoặc Việt Nam học. Tỉ lệ sinh viên ngành Tiếng Việt và Việt Nam học ra trường tìm được việc làm rất cao. Cung không đủ cầu. Tiếng Việt không chỉ là nhu cầu đối với những người Hàn Quốc làm ăn sinh sống ở VN, nhu cầu đối với những người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam tại Hàn Quốc, mà trong tương lai không xa, tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với con em hàng chục nghìn gia đình Hàn-Việt. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm 2014, tiếng Việt là một trong 8 ngoại ngữ thứ hai thi vào đại học. Chủ trương này đã đem đến cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng mới. Từ khóa: đào tạo, tiếng Việt, tại Hàn Quốc, nhu cầu, triển vọng 1. Mở đầu Sau hơn 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Hàn1, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có trên 135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn Quốc, có gần 40.000 cô dâu Việt2. Số cô dâu những năm gần 1 Chúng tôi tính từ khi Đại Hàn dân quốc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thiết lập quan hệ đầy đủ ở cấp đại sứ tháng 12 năm 1992. Còn nếu tính cả quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc với riêng Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) trước đó, từ tháng 10/1955 đến 1975, thì thời gian này đã là hơn 40 năm. 2 Trên trang web của Bộ Ngoại giao Việt Nam tại Hàn Quốc, tính đến cuối năm 2013, số người Hàn đang sống tại Việt Nam là 135.000 người. Một thông tin khác cho biết, tính đến đầu năm 2015, con số này đã tăng lên gần 140.000. Theo thống kê của Bộ tư pháp Hàn Quốc tại thời điểm ngày 26/3/2015, số người Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn Quốc là 122,744 người và số cô dâu Việt là 39,647 người (số liệu do Tổng Lãnh sự quán Hàn đây trung bình mỗi năm tăng 7.000 người. Từ 2012, Bộ Lao động Hàn Quốc chủ trương tuyển dụng thêm mỗi năm 15.000 lao động mới từ Việt Nam sang. Như vậy, theo tình hình chung, về cơ bản, số công dân của Việt Nam ở Hàn Quốc mỗi ngày mỗi tăng và số công dân Hàn Quốc ở Việt Nam cũng là một con số rất lớn. Nhịp cầu nối các mối quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao và cả tình cảm, đó chính là ngôn ngữ. Tiếng Việt không chỉ là nhu cầu đối với những người Hàn làm ăn, sinh sống ở Việt Nam mà còn là Quốc tại Tp. Hồ Chí Minh cung cấp). Tuy nhiên, theo thông báo chính thức của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc ngày 08/12/2012, khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sang thăm Hàn Quốc, thì số cô dâu người Việt vào thời điểm đó đã là gần 50.000 người. Có sự khác nhau giữa 2 con số, theo chúng tôi, là do tiêu chí thống kê, bởi có một sự thực là, có một số cô dâu sau khi qua Hàn, đã li dị. Một số khác, nay đã có quốc tịch Hàn. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 71 nhu cầu đối với những người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong tương lai không xa, tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với con em hàng chục nghìn gia đình Hàn - Việt, mà số trẻ em ra đời trong những gia đình này tính đến cuối năm 2012 đã lên tới con số 35.000. Quá trình đào tạo tiếng Việt và ngành Việt Nam học ở Hàn Quốc đã có một lịch sử gần 50 năm, nhưng có không nhiều bài viết về vấn đề này. Bài đầu tiên mà chúng tôi được biết là bài của GS TS. Kim Ki Tae “Về việc dạy và học Tiếng Việt tại Hàn Quốc” đăng trên Tạp chí “Ngôn ngữ”, số 2 /1996, của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội. Bài viết là một sự khảo sát khá tỉ mỉ về việc dạy và học tiếng Việt tại Hàn trong quá trình hơn 30 năm – từ khi lớp tiếng Việt đầu tiên ra đời (1965) cho đến thời điểm tác giả viết bài (1996). “Quá trình đó chịu sự chi phối khá mạnh của mối quan hệ giữa hai nước”(Kim Ki Tae) [2, tr. 60]. Dẫu chỉ dài 3 trang, bài viết của giáo sư Kim đã trình bày cặn kẽ về sự hình thành các lớp, các khoa tiếng Việt đầu tiên ở Hàn với thời gian, không gian, địa điểm, số lượng sinh viên, họ tên, học hàm, học vị của đội ngũ giáo sư, giảng viên tại Hàn cũng như các giáo sư, giảng viên được mời từ Việt Nam qua, và tình hình biên soạn giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc từ 1966 đến 1996 m ... ỹ, Nhật). Và, “Theo Cục đầu tư nước ngoài, hầu hết các tập đoàn doanh nghiệp lớn của Hàn Quốc đã đầu tư và kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam, như Samsung, Kumho, GS, Posco, LG,CJ”(Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online , ngày 6/6/2012). Thị trường Việt Nam đang được xem là điểm đến đầu tư hấp dẫn. Tập đoàn Samsung có 8 nhà máy trên thế giới thì 2 trong số đó được xây dựng ở Việt Nam, Tập đoàn Daekwang có 3 nhà máy lớn Và, như trên đã nói, số người Hàn Quốc đang sống và làm việc tại Việt Nam hiện đã trên 135 nghìn người. Số người Hàn qua lại Việt Nam hàng năm từ nửa triệu đã tăng lên 600 nghìn, rồi 780.000. Năm 2014 vừa qua là khoảng 860.000. Không chỉ các công ty có địa bàn hoạt động ở Việt Nam cần mà các công ty tuyển dụng người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc cũng rất cần người biết tiếng Việt, am hiểu về văn hóa Việt. Ngoài nhu cầu cho các ngành kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo dục, ngoại giao tiếng Việt còn là nhu cầu cho một số nhà hoạt động xã hội. Bởi lẽ Hàn Quốc đang có 40 nghìn cô dâu người Việt nên có một số vấn đề xã hội nảy sinh, cần được xử lý, mà phần lớn là do bất đồng ngôn ngữ và khác biệt văn hóa. Ngoài ra, các nhà quản lý và hoạt động xã hội còn phải giải quyết một vấn đề nan giải là hiện có hơn 15 nghìn người lao động Việt Nam bỏ trốn khỏi các hợp đồng, đang sống bất hợp pháp trên đất nước Hàn và hiện có một số băng nhóm, tội phạm xã hội là người Việt. Tiếng Việt không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp thiết của việc đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa hiện tại mà còn là một bước đón đầu của chính phủ Hàn Quốc. Hàng chục nghìn cô dâu người Việt, người Philipin, người Trung Quốc với hàng chục ngàn gia đình đa văn hóa sẽ là một nguyên nhân xã hội có thể đưa đến hiện tượng song ngữ hoặc đa ngữ trong tương lai. Một ngày không xa, việc dạy tiếng Việt sẽ phải hướng tới đối tượng là con em các gia đình Hàn - Việt, mà con số các cháu bố Hàn mẹ TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 77 Việt hiện đã là 35.000, và còn tiếp tục tăng lên mỗi ngày. Chính sách giáo dục ngoại ngữ của chính phủ sẽ là một “bà đỡ” đối với các gia đình này. Nó không chỉ giúp cho trong mỗi gia đình, mẹ con có thể hiểu nhau, mẹ có thể dạy con, giúp giảm thiểu những những vấn đề xã hội khi đứa trẻ trưởng thành, mà còn giúp cho những đứa con, khi chọn tiếng Việt làm ngoại ngữ, thì việc học tập cũng sẽ thêm phần thuận lợi. Chính những đứa trẻ này, rất có thể, trong tương lai sẽ là một trong những nhịp cầu nối quan hệ giữa hai nước thêm phần bền chặt. Điều này, hẳn các nhà lãnh đạo Hàn Quốc đã có kinh nghiệm từ các nhà lãnh đạo Mỹ với sự tư vấn của các nhà ngôn ngữ học xã hội từ những năm 60 [6, tr. 16]. Nhu cầu cần người biết tiếng Việt lớn như thế, nhưng mỗi năm, 4 trường Đại học ở Hàn Quốc có số lượng sinh viên đầu vào chỉ là 140 em, và đầu ra có thể ít hơn một chút. Như vậy, tổng số sinh viên tốt nghiệp môn tiếng Việt hoặc ngành Việt Nam học ở các trường đại học nói trên trong 12 năm – từ 2002 đến 2014 – chỉ khoảng 1.820 người. Nếu tính thêm cả các sinh viên học tiếng Việt rải rác trong các trường đại học khác, thì con số này cũng chỉ khoảng trên dưới 2000 người. Làm một phép so sánh nhỏ, cũng có thể thấy là cung không đủ cầu, mặc dù tại Việt Nam, hàng năm đã có hàng nghìn người Hàn Quốc, trong đó có hàng trăm sinh viên, học viên Hàn, đang học tiếng Việt và Việt Nam học. Tình hình chung của các trường đại học là những năm gần đây, tỉ lệ sinh viên ra trường tìm được việc làm ở Khoa Tiếng Việt và ngành Việt Nam học chiếm vị trí rất cao so với tỉ lệ chung của toàn trường. Ví dụ: năm 2011, tỉ lệ sinh viên trường ĐHNN Hàn Quốc tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp là 62% (trong đó đã bao gồm cả Khoa Tiếng Việt), trong khi đó, sinh viên Khoa Tiếng Việt được nhận vào làm việc chiếm 78,3%, vượt tỉ lệ chung là 16,3%. Tương tự như vậy, sinh viên ĐHNN Pusan có 46,4% tìm được việc làm thì sinh viên Khoa Tiếng Việt có việc làm chiếm 68,1%, vượt 22,3%. Sinh viên ĐH Chungwoon 59,7 % tìm được việc làm thì sinh viên Khoa Việt Nam học chiếm 69,6%, vượt tỉ lệ chung là 9,9%7. Bảng 3. Tỉ lệ SV tìm được việc làm của các khoa tiếng Việt so với tỉ lệ chung của toàn trường năm 2011 Trường ĐHNN Hàn Quốc Trường ĐHNN Pusan Trường ĐH Chungwoon Khoa 78,3% 68,7% 69,6% Trường 62,0 % 46,4% 59,7% Vượt tỉ lệ chung 16,3% 22,3% 9,9% (tham khảo Daehakalimi, tác giả thực hiện) Với tình hình chung là cung không đủ cầu như đã nói trên nên một số sinh viên tuy mới đang học năm thứ 3, thứ 4 nhưng đã được các công ty nhận vào làm việc. Các sinh viên khá, giỏi gần như chỉ cần sắp ra trường hoặc vừa ra trường, chưa kịp có tấm bằng đại học trong tay là đã có các công ty chào mời vào làm việc ngay. Đơn cử là liên tục trong các năm 2012, 2013, các sinh viên giỏi của ĐH Chungwoon đang học năm thứ 4 đã được một số công ty lớn của Hàn Quốc mời tới phỏng vấn và lập tức nhận vào làm việc với mức lương khởi điểm 25.000 USD/ năm nếu làm tại Hàn. Còn nếu sang Việt Nam thì sẽ được hưởng thêm 60%, tức là 40.000 USD/năm (trên 3.330 đô-la/tháng). Trong tình hình kinh tế thế giới đang khủng hoảng, công ăn việc làm đang khó khăn như hiện nay, và Chungwoon chưa phải là một trường đại học danh tiếng, mà sinh viên chưa ra trường đã được tuyển dụng với mức lương khởi điểm như vậy thì đó là một tín hiệu đáng mừng cho đầu ra của ngành Việt Nam học. Năm 2012, lớp năm thứ 4 của ĐH Chungwoon, 1 tháng trước khi kết thúc năm học đã có 13/21 em có việc làm, 3 em chờ kết quả phỏng 7 Daehakalimi (Trung tâm thông tin đại học thuộc Hội Giáo dục và Đào tạo Đại học Hàn Quốc, (Bảng 3) SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 78 vấn. Trên lớp chỉ còn 5 sinh viên tiếp tục đi học. Sau khi tốt nghiệp không lâu, tất cả đều có việc làm. Năm 2013, số sinh viên được nhận vào làm việc trước khi nhận bằng tốt nghiệp tuy có thấp hơn, nhưng không phải là do các công ty không tiếp nhận, mà chủ yếu là do các em muốn học hoàn chỉnh chương trình trước khi bước ra xã hội. Kết quả sinh viên ra trường tìm được việc làm đã có ảnh hưởng rõ rệt đến công tác tuyển sinh. Tỉ lệ đầu vào của các khoa tiếng Việt đều đang tiếp tục tăng lên. Nhờ đó mà chất lượng ngày một được cải thiện. Năm 2012-2013, một cuộc thăm dò nhỏ đối với sinh viên ĐHNN Hàn Quốc và ĐH Chungwoon đã được tiến hành, phần lớn các em cho biết các em chọn Khoa Tiếng Việt hay ngành Việt Nam học là do ngành này dễ kiếm việc làm. Một số em thấy ngành này có khả năng có triển vọng lớn. Lý do kế tiếp là do các em thích Việt Nam hoặc thích tiếng Việt, hay do gia đình muốn các em học khoa này. Khoảng 11 -12% là do thi vào khoa khác không đủ điểm nên xin chuyển khoa. Một số sinh viên Chungwoon chọn cùng lúc 2-3 lý do7. Trong số 36,6% chọn lý do vì ý muốn của gia đình thì 9,7% có thêm lý do ra trường dễ tìm việc làm: Bảng 4. Lý do học Khoa Tiếng Việt/ Việt Nam học của các sinh viên Lý do học Khoa Tiếng Việt/ Việt Nam học ĐHNN Hàn Quốc ĐH Chungwoon 1 Ra trường dễ tìm việc làm 38,6% 40,2% 2 Thích Việt Nam hoặc thích tiếng Việt 30% 36,6% 3 Theo ý muốn của gia đình 1% 36,6% 4 Thi vào khoa khác không đủ điểm 11,4% 12,2% Các lý do khác là vì bạn bè rủ, vì học khoa này dễ, vì các em cần có 1 tấm bằng đại học, vì có bố/ 7 Một số sinh viên ĐH Chungwoon chọn 2, 3 lý do nên tỉ lệ phần trăm trong vượt hơn 100%. mẹ hoặc bạn thân sống ở Việt Nam, vì em thích học ngoại ngữ, vì muốn giúp đỡ những phụ nữ Việt Nam sống tại Hàn, vì khoa này có những tiêu chuẩn phù hợp với khả năng của em, v.v.. Các số liệu cho thấy tỉ lệ của mỗi lý do, sinh viên ĐHNN Hàn Quốc và ĐH Chungwoon phần lớn tương đương nhau. Chỉ nguyên nhân chọn trường vì gia đình là chênh lệch nhau rất lớn. Có lẽ các sinh viên giỏi thường có tính độc lập cao, ít phụ thuộc ý kiến của cha mẹ. Tại ĐH Chungwoon, 86% sinh viên trả lời khi ra trường muốn làm việc tại Hàn Quốc, trong đó, 49% muốn được làm công việc có liên quan tới chuyên môn Việt Nam học. Số còn lại thì cho rằng công việc có liên quan hay không liên quan đến Việt Nam cũng không quan trọng, miễn là có việc làm. 14% muốn làm việc tại Việt Nam. Tại ĐHNN Hàn Quốc, 84% muốn làm việc tại Hàn, trong đó 57% cho rằng làm ở công ty có liên quan đến Việt Nam hay không cũng không quan trọng. 16% muốn làm việc tại Việt Nam. Phần lớn sinh viên cho biết mặc dù nguyện vọng của các em là làm việc ở Hàn Quốc, nhưng trong thời buổi kinh tế khó khăn, sự cạnh tranh khá gay gắt như hiện nay, thì nếu có việc làm và được cử sang Việt Nam, các em vẫn rất sẵn sàng. Vì quan hệ Hàn Quốc - Việt Nam đang ngày càng tốt đẹp, Việt Nam là một nước đang phát triển, với dân số 90 triệu người8, nên đây sẽ là một thị trường đầy tiềm năng. Hơn nữa, nếu các em sang Việt Nam thì luôn được các công ty cho hưởng chế độ lương ưu đãi. Với uy tín của nhà trường, các sinh viên ĐH Ngoại ngữ Hàn Quốc khi tốt nghiệp, thường làm việc ở cơ quan chính phủ, làm trong ngành ngoại giao, báo chí, truyền hình, giảng dạy ở các trường đại học, trung học, làm việc ở các ngân hàng hay các tập đoàn lớn như Samsung, LG, Postco, Hyun Dae, Lotte, Imark, CJ, v.v.. Các sinh viên ĐH Ngoại ngữ Pusan, khoảng 70% sau khi tốt nghiệp làm việc ở các tập đoàn, các công ty đang đầu tư vào Việt Nam, các nhà máy công nghiệp nhẹ, chủ 8 Tổng cục Thống kê Việt Nam ( TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 79 yếu là cho các ngành may mặc, giày da Một số làm cho công an đối ngoại, phòng xuất nhập cảnh, làm ở cơ quan ngoại giao, đại sứ quán, lãnh sự quán hay làm cho tập đoàn Samsung, Posco, Daekwang, Hansol Một số nữa thì làm cho các công ty vừa và nhỏ. Các sinh viên ĐH Chungwoon thì thường làm cho các công ty vừa và nhỏ đang đầu tư vào Việt Nam, một số làm cho Posco và Dorco Có thể nói, cánh cửa đầu ra của các Khoa Tiếng Việt và Việt Nam học ở Hàn Quốc hiện nay đang rộng mở. 3. Kết luận Việt Nam hiện đang chủ trương phát triển và hội nhập bền vững với các nước trong khu vực và với thế giới. Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Hàn hiện đang phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực với tư cách là đối tác hợp tác chiến lược. Tiếng Việt, trong bối cảnh giao tiếp liên văn hóa, là nhịp cầu không thể thiếu góp phần thúc đẩy mối quan hệ này ngày thêm khăng khít. Cùng với quan hệ kinh tế, văn hóa, chính trị, ngoại giao đang ngày càng được đẩy mạnh, tiếng Việt đang ngày càng được coi trọng trên đất nước Hàn. Trong tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới, việc đào tạo tiếng Việt tại một số quốc gia như Pháp, Úc, Trung Quốc đang rơi vào cảnh sa sút, khó khăn9, thì việc đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc giờ đây lại đang được 9 Theo báo cáo của PGS.TS Hàm Man Tuyết, ĐH Bắc Kinh, Trung Quốc “Định hướng phát triển đào tạo Việt Nam học ở Đại học Bắc Kinh”, và TS. Thái Duy Bảo (ĐH Quốc gia Úc), “Việt Nam học và việc giảng dạy tiếng Việt ở Úc, thực trạng và triển vọng”, cùng các phát biểu của họ và ý kiến phát biểu của TS. Nguyễn Thị Hiệp, giáo sư dạy tiếng Việt tại ĐH Paris 7 (Pháp) tại tiểu ban 12, Hội thảo Quốc tế “Việt Nam học lần thứ IV”, Hà Nội (26-28/11/2012). Các bài báo cáo trên hiện chưa được in toàn văn. Chính phủ và Bộ Giáo dục Hàn Quốc quan tâm thúc đẩy mạnh và là một bức tranh mang màu sắc lạc quan. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm 2014, tiếng Việt là một trong những ngoại ngữ thứ hai thi vào đại học, bên cạnh tiếng Đức, Pháp, Nhật, Nga, Tây Ban Nha, Trung Quốc, và Ả Rập. Chủ trương này đã trao cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng mới. Sự phát triển quan hệ giữa hai nước là động lực thúc đẩy ngành Việt Nam học phát triển ngày càng mạnh ở Hàn, và hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho bộ môn tiếng Việt và ngành Việt Nam học. Vị trí tiếng Việt đã được nâng cao. Trên đây là một vài nét phác họa của chúng tôi. Bài viết của chúng tôi mới chỉ dừng ở cấp độ miêu tả, cung cấp thông tin. Do điều kiện về thời gian, chúng tôi chưa có cơ hội tiếp xúc với các nhà tuyển dụng để có thêm chi tiết về yêu cầu của họ đối với ngành Tiếng Việt và Việt Nam học, cũng như chưa khảo sát kỹ tình hình xuất bản giáo trình tiếng Việt tại Hàn. Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ là một tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý giáo dục hay hoạch định chính sách của Việt Nam và Hàn Quốc trong những chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, tăng cường hợp tác giữa hai quốc gia. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 80 The reality of Vietnamese language teaching and Vietnamese Studies education in Korea Le Thi Hong Minh University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: Over 20 years of Korea-Vietnam relationship, Korea has become the biggest investor in Vietnam, and Vietnam the forth on the list of Korea’s most important partners. There are over 135,000 Koreans living in Vietnam and out of 123,000 Vietnamese living and working in Korea, there are 40,000 Vietnamese wives to Korean husbands. Currently, in Korea there are 4 universities that have faculties or departments of the Vietnamese language or of Vietnamese Studies, with a large number of alumni who have successfully found jobs. Demand is higher than supply capacity. Vietnamese proficiency is not only essential to Koreans living and working in Vietnam and Korea-based companies with Vietnamese employees but also will be valuable to children of thousands of Korean-Vietnamese families in the coming years. The Ministry of Education of Korea has just announced a policy stating that the Vietnamese language will be one of the eight second languages in the national university entrance examination, which will bring to Vietnamese language teaching new opportunities and prospects. Keywords: teach, the Vietnamese language, in Korea, need, prospects TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Daehakalimi (Trung tâm thông tin đại học thuộc Hội Giáo dục và đào tạo đại học Hàn Quốc, ?process=load). [2]. Homepage của Trường Đại học Chungwoon ( [3]. Homepage của Trường Đại học Ngoại ngữ Pusan ( [4]. Homepage của Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc ( [5]. Kim Ki Tae(1996), Về việc dạy và học tiếng Việt tại Hàn Quốc, Tạp chí “Ngôn ngữ”, số 2 /1996, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, tr.60-62. [6]. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. [7]. Nguyễn Văn Phúc, Song Jeong Nam (2006), Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc, Kỷ yếu hội thảo Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 362 - 377. [8]. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ( B-KTSG/), số ra ngày 6/6/2012. [9]. Tổng cục Thống kê Việt Nam (
File đính kèm:
- tinh_hinh_dao_tao_tieng_viet_va_viet_nam_hoc_tai_han_quoc.pdf