Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ

Tóm tắt

Nếu như quy tắc xuất xứ (QTXX) đối với hàng hóa đã được xây dựng rất hoàn chỉnh và được

nghiên cứu rộng rãi thì QTXX đối với dịch vụ còn rất ít được đề cập đến. Bài viết này sẽ cung cấp

cho người đọc những hiểu biết cơ bản nhất về QTXX đối với dịch vụ thông qua việc làm rõ sự cần

thiết phải có quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ, ảnh hưởng của các tính chất của dịch vụ lên

QTXX, và một số quy định hiện hành liên quan tới xuất xứ dịch vụ. Từ việc xem xét quy định của

GATS và một số PTA, bài viết chỉ ra rằng các quy định này đang đi theo cách tiếp cận chung dựa

trên phương thức cung ứng dịch vụ, song chưa tập trung vào bản thân dịch vụ và cũng chưa đủ tính

khả thi để áp dụng. Do đó, QTXX đối với dịch vụ cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện để trở

thành công cụ phù hợp với thương mại dịch vụ hiện đại.

Từ khóa: xuất xứ, quy tắc xuất xứ, dịch vụ, FTA, GATS, WTO.

Mã số: 204.121015. Ngày nhận bài: 12/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 24/12/2015. Ngày duyệt đăng: 24/01/2016.

Abstract

While rules of originfor goods have been quite fully constructed and widely researched, those

for services are still rarely mentioned. This article aims to provide readers with basic knowledge

of origin rules for services through explaining the needs to develop such rules in service trade, the

influence of services’ features on their origin rules and current regulations on the origin of services.

After considering relevant provisions of the GATS and some PTAs, the article points out that these

regulations share the approach that is based on the modes of service supply; but they are not

focusing on services themselves and not feasible enough to be applied. Therefore, rules of origin

for services need further research to be accomplished and become asuitable instrument for modern

trade in services.

Key words: origin, ROO, service, FTA, GATS, WTO.

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 1

Trang 1

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 2

Trang 2

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 3

Trang 3

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 4

Trang 4

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 5

Trang 5

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 6

Trang 6

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 7

Trang 7

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 8940
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
34 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
1. Đặt vấn đề
Quy tắc xuất xứ (QTXX) là những tiêu chí 
được sử dụng để xác định nước xuất xứ của 
một sản phẩm. QTXX có vai trò quan trọng 
bởi vì các sản phẩm sẽ hưởng những chế độ 
đãi ngộ khác nhau tùy thuộc xuất xứ, hay cũng 
chính là quốc tịch của chúng. 
Trong thương mại hàng hóa, QTXX được 
thiết lập nhằm xác định cơ chế đối xử với hàng 
hóa nhập khẩu. Vai trò cụ thể nhất của QTXX 
là giúp người xuất, nhập khẩu biết mức thuế 
nào sẽ áp dụng đối với một hàng hóa cụ thể. 
Song việc vận dụng QTXX không chỉ giới hạn 
trong lĩnh vực hải quan mà còn hỗ trợ việc 
thực thi các công cụ, biện pháp chính sách 
thương mại khác vì xuất xứ hàng hóa là cơ 
sở để áp thuế chống bán phá giá, thuế chống 
Tóm tắt
Nếu như quy tắc xuất xứ (QTXX) đối với hàng hóa đã được xây dựng rất hoàn chỉnh và được 
nghiên cứu rộng rãi thì QTXX đối với dịch vụ còn rất ít được đề cập đến. Bài viết này sẽ cung cấp 
cho người đọc những hiểu biết cơ bản nhất về QTXX đối với dịch vụ thông qua việc làm rõ sự cần 
thiết phải có quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ, ảnh hưởng của các tính chất của dịch vụ lên 
QTXX, và một số quy định hiện hành liên quan tới xuất xứ dịch vụ. Từ việc xem xét quy định của 
GATS và một số PTA, bài viết chỉ ra rằng các quy định này đang đi theo cách tiếp cận chung dựa 
trên phương thức cung ứng dịch vụ, song chưa tập trung vào bản thân dịch vụ và cũng chưa đủ tính 
khả thi để áp dụng. Do đó, QTXX đối với dịch vụ cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện để trở 
thành công cụ phù hợp với thương mại dịch vụ hiện đại. 
Từ khóa: xuất xứ, quy tắc xuất xứ, dịch vụ, FTA, GATS, WTO.
Mã số: 204.121015. Ngày nhận bài: 12/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 24/12/2015. Ngày duyệt đăng: 24/01/2016.
Abstract
While rules of originfor goods have been quite fully constructed and widely researched, those 
for services are still rarely mentioned. This article aims to provide readers with basic knowledge 
of origin rules for services through explaining the needs to develop such rules in service trade, the 
influence of services’ features on their origin rules and current regulations on the origin of services. 
After considering relevant provisions of the GATS and some PTAs, the article points out that these 
regulations share the approach that is based on the modes of service supply; but they are not 
focusing on services themselves and not feasible enough to be applied. Therefore, rules of origin 
for services need further research to be accomplished and become asuitable instrument for modern 
trade in services.
Key words: origin, ROO, service, FTA, GATS, WTO.
Paper No. 204.121015. Date of receipt:12/10/2015. Date of revision: 24/12/2015. Date of approval: 24/01/2016.
TÌM HIỂU VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG 
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
Đinh Khương Duy*
* ThS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: khuongduy@ftu.edu.vn
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
35Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
trợ cấp; thực hiện các yêu cầu về dán nhãn 
Ngoài ra, QTXX trong các hiệp định thương 
mại tự do (FTA) còn góp phần thu hút đầu tư 
nước ngoài và hỗ trợ các nhà sản xuất nội địa. 
Về nguyên tắc, một hàng hóa sẽ có xuất 
xứ tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nơi diễn ra 
quá trình gia công, chế biến cơ bản cuối cùng. 
Để xác định quá trình sản xuất tại một quốc 
gia có đem lại xuất xứ cho hàng hóa không, 
các QTXX có thể sử dụng một trong các tiêu 
chí như giá trị gia tăng trong nội địa, sự thay 
đổi mã số thuế quan hoặc những công đoạn 
gia công, chế biến cụ thể mà hàng hóa phải 
trải qua1.
Trong thương mại dịch vụ, vấn đề xuất xứ 
và QTXX cũng có ý nghĩa tương tự. Dù các 
giao dịch dịch vụ không phải đối tượng bị 
đánh thuế quan, nhưng xuất xứ của dịch vụ 
là cơ sở để các chế độ đối xử tối huệ quốc, 
đối xử quốc gia và gia nhập thị trường mà các 
bên cam kết khi gia nhập WTO được áp dụng 
đúng đối tượng. Việc xác định xuất xứ của 
dịch vụ còn quan trọng hơn nữa trong các thỏa 
thuận thương mại ưu đãi có liên quan tới dịch 
vụ. Bởi lẽ một trong những mục tiêu chính của 
các thỏa thuận này là dành ưu đãi đặc biệt cho 
dịch vụ có xuất xứ từ các nước thành viên. 
Thế nhưng, cho tới nay vẫn chưa có một 
mô hình QTXX thống nhất được xây dựng 
cho lĩnh vực dịch vụ. Hơn nữa, vì dịch vụ có 
các tính chất khác biệt so với hàng hóa nên 
việc áp dụng QTXX hàng hóa cho dịch vụ là 
bất khả thi. Xuất phát từ thực tế đó, trong bài 
viết này, tác giả sẽ trình bày một số điểm cốt 
lõi về xuất xứ và QTXX trong thương mại 
dịch vụ nhằm cung cấp cho người đọc những 
hiểu biết cơ bản nhất về đối tượng nghiên cứu 
còn hết sức mới mẻ này.
2. Tính chất của dịch vụ và việc xây dựng 
QTXX dịch vụ
Như chúng ta đã biết, dịch vụ có một số 
tính chất khác biệt so với hàng hóa: tính vô 
hình, tính không tách rời giữa cung ứng và 
tiêu dùng dịch vụ, tính không đồng đều về 
chất lượng và tính không dự trữ được. Sự khác 
biệt này ả ... tiếp cận thứ nhất cũng có thể gây khó 
khăn nếu nơi hội họp của ban lãnh đạo và 
của các cổ đông không trùng nhau.
Tại Việt Nam, Khoản 1, Điều 676, BLDS 
2015 quy định rõ “quốc tịch của pháp nhân 
được xác định theo pháp luật của nước nơi 
pháp nhân thành lập”. Như vậy, hệ thuộc luật 
nơi thành lập sẽ được sử dụng để xác định quốc 
tịch của pháp nhân. Cụ thể hơn, theo Điều 4, 
Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp Việt 
Nam là “doanh nghiệp được thành lập hoặc 
đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam 
và có trụ sở chính tại Việt Nam” còn tổ chức 
nước ngoài là “tổ chức thành lập ở nước ngoài 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
38 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
theo pháp luật nước ngoài.” Có thể thấy, tiêu 
chí về trụ sở chính chỉ bắt buộc khi xác định 
doanh nghiệp có quốc tịch Việt Nam không; 
tiêu chí này không được đặt ra đối với tổ chức 
nước ngoài. Tuy nhiên, cần chú ý rằng theo 
quy định tại Khoản 3, Điều 676, BLDS 2015, 
khi pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện 
giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực pháp 
luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được 
xác định theo pháp luật Việt Nam. 
Như vậy, dù quốc tịch của thương nhân có 
thể trở thành một giải pháp thay thế để xác 
định xuất xứ của dịch vụ nhưng quy định của 
các quốc gia hết sức khác biệt, nhất là đối với 
trường hợp thương nhân là pháp nhân. Điều 
này đặt ra yêu cầu đàm phán các tiêu chí có 
tính thống nhất hơn trong khuôn khổ WTO 
cũng như các FTA. 
3. Cách tiếp cận về QTXX dịch vụ trong 
GATS và các FTA
3.1. Cách tiếp cận của GATS
WTO chưa tiến hành xây dựng QTXX 
dịch vụ vì quá trình tự do hóa thương mại 
dịch vụ trong hệ thống thương mại đa biên 
chưa đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, Điều II 
của Hiệp định GATS cho phép các Thành 
viên WTO đăng ký miễn trừ đối với nguyên 
tắc đối xử tối huệ quốc. Để thực hiện các 
miễn trừ này, cần xác định đúng xuất xứ của 
dịch vụ. Cũng cần nhấn mạnh rằng WTO là 
diễn đàn của các nhà nước chứ không phải 
các thương nhân. Vì thế xuất xứ của dịch vụ 
là cơ sở xác định nhà nước nào có quyền và 
nghĩa vụ tham gia vào quá trình giải quyết 
tranh chấp. Hơn nữa, Điều XXVII, GATS 
cho phép một Thành viên từ chối cho dịch vụ 
có xuất xứ từ một nước không thuộc WTO 
hưởng ưu đãi. Do đó, xác định xuất xứ dịch 
vụ vẫn có ý nghĩa quan trọng đối trong việc 
thực thi Hiệp định GATS.
Tuy không sử dụng cụm từ QTXX, nhưng 
các quy định cơ bản liên quan tới xuất xứ được 
thể hiện tại Điều XXVIII(f), GATS. Theo đó, 
khi dịch vụ được cung ứng theo phương thức 
1 và 2, “dịch vụ của một Thành viên khác là 
dịch vụ được cung ứng từ hoặc trong lãnh 
thổ của Thành viên khác đó.” Điều này đồng 
nghĩa với việc quốc gia mà từ đó hoặc tại đó 
dịch vụ được cung cấp sẽ là nước xuất xứ của 
dịch vụ. Quy định này áp dụng ngay cả khi 
quốc gia đó là điểm cuối cùng, ít quan trọng 
nhất trong quá trình cung ứng dịch vụ liên 
quan tới nhiều quốc gia, hoặc chỉ là nơi dịch 
vụ được “bán lẻ” cho khách hàng. Khi dịch 
vụ được cung ứng theo phương thức 3 và 4, 
Điều XXVIII(f) quy định rằng “dịch vụ của 
một Thành viên là dịch vụ được cung ứng bởi 
một nhà cung ứng của Thành viên đó”. Điều 
này có nghĩa là, trong hai phương thức này, 
xuất xứ của dịch vụ sẽ đồng nhất với quốc tịch 
của nhà cung ứng dịch vụ.
Trong trường hợp nhà cung ứng là thể nhân, 
Điều XXVIII(k) của GATS chọn cách tiếp cận 
khá mở, bao gồm cả công dân và người cư 
trú lâu dài tại một quốc gia Thành viên. Đối 
với trường hợp nhà cung ứng là pháp nhân, 
Điều XXVIII(m) quy định pháp nhân của một 
Thành viên phải được thành lập hoặc tổ chức 
theo pháp luật của Thành viên đó và có tiến 
hành các hoạt động kinh doanh thực chất trong 
lãnh thổ của Thành viên đó hay bất kỳ Thành 
viên nào khác. Điều này có nghĩa là quốc gia 
nơi pháp nhân được thành lập vẫn là nước xuất 
xứ của dịch vụ ngay cả khi pháp nhân đó hoạt 
động chủ yếu tại nước thành viên khác. Ngoài 
ra, Điều XXVIII(m) còn quy định nếu pháp 
nhân được thành lập ở một nước thành viên để 
cung ứng dịch vụ (hiện diện thương mại) thì 
nó sẽ mang quốc tịch của thể nhân hoặc pháp 
nhân sở hữu hoặc quản lý nó. Quyền sở hữu 
được xác định dựa trên tiêu chí nắm trên 50% 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
39Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
số tài sản; còn quyền quản lý được xác định 
dựa trên tỷ lệ đa số trong ban giám đốc hoặc 
quyền ra quyết định có tính pháp lý.
3.2. Cách tiếp cận của các FTA
Điều V của GATS quy định về việc các 
Thành viên WTO có quyền đàm phán các thoả 
thuận ưu đãi về thương mại dịch vụ6. Cũng 
giống như trong lĩnh vực thương mại hàng 
hóa, những cam kết sâu hơn về thương mại 
dịch vụ, thường không thể đạt được trong hệ 
thống thương mại đa biên, có thể đạt được 
thông qua việc đàm phán giữa một nhóm các 
quốc gia.
Điều V.6 nêu rõ, nhà cung ứng dịch vụ là 
pháp nhân của bất cứ Thành viên (WTO) nào 
khác, nếu được thành lập theo pháp luật của 
một nước ký kết FTA, cũng sẽ được hưởng 
chế độ đãi ngộ của FTA đó với điều kiện pháp 
nhân này có tiến hành các hoạt động kinh 
doanh thực chất trong lãnh thổ của các bên ký 
kết FTA đó. Khi kết hợp với Điều XXVIII(m), 
có thể thấy quy định này sẽ mở rộng đối tượng 
hưởng ưu đãi của các cam kết về dịch vụ trong 
một FTA. Ngoài các pháp nhân hiển nhiên 
mang quốc tịch của các nước ký kết FTA, các 
pháp nhân (thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý) 
của một Thành viên WTO khác (không phải 
là nước ký kết FTA) cũng có thể được hưởng 
lợi. Điều kiện cần đáp ứng là pháp nhân đó 
phải được thành lập theo quy định pháp luật 
của một trong các nước tham gia ký kết FTA 
(chẳng hạn, dưới dạng công ty con) và có hoạt 
động kinh doanh thực chất trong các vùng 
lãnh thổ thuộc FTA đó. 
Do WTO không có quy định gì thêm, 
QTXX dịch vụ trong các FTA thuộc quyền 
quyết định của các quốc gia ký kết FTA. Tuy 
nhiên, đa số các FTA đều không quy định về 
xuất xứ của dịch vụ hoặc nếu có cũng chỉ 
dừng lại ở ngôn ngữ của Hiệp định GATS 
đối với phương thức 1, 2. Theo đó, dịch vụ 
của một thành viên là dịch vụ được cung cấp 
từ hoặc tại lãnh thổ của thành viên đó. Điều 
này đồng nghĩa với việc khi được cung cấp 
qua biên giới hoặc tiêu dùng ngoài lãnh thổ, 
xuất xứ của dịch vụ gắn với nơi cung cấp và 
không phụ thuộc vào quốc tịch của nhà cung 
cấp. Một số hiệp định không đề cập tới vấn đề 
này mà chỉ có các quy định cụ thể liên quan 
tới quốc tịch của nhà cung ứng. Trong số đó, 
điển hình là Hiệp định thương mại tự do Bắc 
Mỹ (NAFTA) hay Hiệp định thương mại tự do 
Hoa Kỳ - Singapore7. 
Khi quốc tịch của nhà cung cấp dịch vụ được 
xem xét, cách tiếp cận của các FTA về cơ bản 
cũng tương tự GATS. Đối với thể nhân, hầu hết 
các hiệp định đều dẫn trở lại luật quốc tịch của 
các quốc gia thành viên FTA và thường kèm 
theo quy định về cư trú. Các FTA cũng không 
đề cập tới vấn đề đa quốc tịch. Đối với pháp 
nhân, các FTA thường chọn cách kết hợp các 
tiêu chí về nơi thành lập, nơi ra quyết định quản 
lý, điều hành, nơi hoạt động chính 
6 Điều V, GATS sử dụng cụm từ “thỏa thuận tự do hóa thương mại dịch vụ” nhưng trong thực tiễn có rất ít thỏa 
thuận riêng về thương mại dịch vụ, chủ yếu nội dung tự do hóa thương mại dịch vụ được bao hàm trong các thỏa 
thuận thương mại ưu đãi. Tại Việt Nam, các thỏa thuận thương mại ưu đãi thường được gọi chung là FTA, nên 
tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ này dù nó không thật sự chính xác. Bởi lẽ, FTA là thuật ngữ để chỉ các thỏa thuận 
ưu đãi về thương mại hàng hóa theo Điều XXIV, GATT. Trên thế giới, để gọi các thỏa thuận thương mại ưu đãi 
(có phạm vi rộng hơn thương mại hàng hóa), kể cả các liên minh thuế quan, các học giả có xu hướng dùng thuật 
ngữ Preferential Trade Agreement (PTA). Thực tế, nhiều thỏa thuận ưu đãi, chẳng hạn Hiệp định đối tác xuyên 
Thái Bình Dương (TPP), không có cụm từ “hiệp định thương mại tự do” trong tên gọi; vì thế gọi TPP là PTA sẽ 
chính xác hơn FTA.
7 Hai hiệp định này có mô hình khác với GATS, trong đó phần thương mại dịch vụ chỉ liên quan tới các phương 
thức 1, 2, 4; còn quy định về phương thức 3 thuộc về phần đầu tư.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
40 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
Trong NAFTA, để được hưởng ưu đãi, 
pháp nhân cung cấp dịch vụ hay chi nhánh 
của nó phải được thành lập theo pháp luật 
của một nước thành viên. Không có yêu cầu 
bắt buộc quyền sở hữu hay quản lý phải nằm 
trong NAFTA, tuy nhiên nếu quyền sở hữu 
hay quản lý bởi các thể nhân hoặc pháp nhân 
có quốc tịch bên ngoài khối NAFTA thì ưu 
đãi sẽ bị từ chối nếu pháp nhân không có hoạt 
động thực chất tại quốc gia NAFTA nơi nó 
đăng ký thành lập. Tương tự, Hiệp định đối 
tác kinh tế Singapore - Nhật Bản sẽ chấp nhận 
một pháp nhân được thành lập tại một trong 
hai nước thành viên, dù chủ sở hữu hay quản 
lý có quốc tịch thuộc quốc gia khác, nhưng có 
hoạt động thực chất tại đây. Sự khác biệt của 
hai cách quy định này nằm ở chỗ quy định về 
hoạt động thực chất là điều kiện cho hưởng ưu 
đãi hay điều kiện loại trừ ưu đãi. Nhiều FTA 
khác cũng chọn cách quy định này vì nó phù 
hợp với Điều V.6 của Hiệp định GATS.
Cá biệt, Hiệp định thương mại tự do 
Singapore - Australia chỉ yêu cầu pháp nhân 
được thành lập và hoạt động theo quy định 
pháp luật của một trong hai nước thành viên 
mà không có ràng buộc nào khác. Quy định 
này thông thoáng hơn quy định của GATS.
Nhìn chung cách tiếp cận của các FTA khá 
thống nhất với GATS. Quốc tịch của nhà cung 
cấp dịch vụ là thể nhân sẽ do luật quốc tịch 
của các quốc gia điều chỉnh. Quốc tịch của các 
nhà cung cấp dịch vụ là pháp nhân thường dựa 
trên nhiều yếu tố kết hợp với nhau. Tùy từng 
cách kết hợp sẽ đem lại mức độ khắt khe hay 
thông thoáng khác nhau. Các quy định hiện 
hành trong GATS cũng như các FTA chủ yếu 
chỉ dừng lại ở việc dùng điều kiện về nhà cung 
ứng để quyết định quyền được hưởng ưu đãi 
của dịch vụ. Quy định về xuất xứ cho bản thân 
dịch vụ chỉ được đề cập riêng cho phương 
thức cung ứng dịch vụ 1 và 2, song cũng tồn 
tại rất nhiều bất cập.
4. Kết luận
Có thể thấy, trong WTO cũng như các FTA, 
thực chất vẫn chưa có các QTXX cho dịch vụ. 
Các quy định hiện hành vẫn chủ yếu dựa trên 
cách tiếp cận của hiệp định GATS (đã ra đời 
cách đây 20 năm). Theo đó, xuất xứ của dịch 
vụ sẽ dựa trên địa điểm cung ứng với phương 
thức 1, 2 và dựa trên quốc tịch của nhà cung 
ứng với phương thức 3, 4.
Cách quy định rằng khi dịch vụ được cung 
ứng qua biên giới hoặc tiêu dùng ngoài lãnh 
thổ, xuất xứ của nó là quốc gia mà tại đó hoặc 
từ đó nó được cung cấp tuy đơn giản nhưng 
lại không phù hợp với thực tiễn phát triển của 
thương mại dịch vụ hiện đại. Cùng với sự phát 
triển của thương mại điện tử và các giao dịch 
qua mạng Internet, khái niệm tại hay từ một 
khu vực lãnh thổ không còn dễ dàng xác định 
nữa. Một công ty bảo hiểm Đức có trung tâm 
liên lạc đặt ở Thụy Sĩ bán một đơn bảo hiểm 
qua mạng cho một khách hàng ở Canada thông 
qua chi nhánh đặt ở Mỹ. Đó là một thí dụ điển 
hình về sự bất cập của quy định hiện hành khi 
cần xác định xuất xứ của dịch vụ được cung 
cấp qua biên giới. Để đối phó với sự bất cập 
này, có thể các chính phủ sẽ tạo ra rào cản đối 
với các giao dịch qua biên giới nhằm chuyển 
chúng sang phương thức 3 hoặc 4. 
Khi dịch vụ được cung ứng thông qua hiện 
diện thương mại hoặc hiện diện thể nhân, 
quốc tịch của nhà cung cấp dịch vụ sẽ được 
xem xét. Trong các tiêu chí xem xét quốc tịch 
của nhà cung cấp dịch vụ là pháp nhân, tiêu 
chí về nơi thành lập là đơn giản nhất và ít ràng 
buộc nhất. Tiêu chí về nơi hoạt động chính 
cũng không khó xác định. Tuy nhiên, nếu nơi 
hoạt động chính được hiểu là nơi ra quyết định 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
41Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
quản lý, điều hành trung ương thì nhiều pháp 
nhân (là công ty con hoặc chi nhánh) sẽ không 
được hưởng ưu đãi do phải mang quốc tịch của 
pháp nhân mẹ. Nếu nơi hoạt động chính được 
hiểu là nơi có hoạt động kinh doanh chính thì 
vấn đề trên sẽ được khắc phục, đồng thời cũng 
loại trừ được khả năng các pháp nhân chỉ đăng 
ký địa điểm để liên lạc hoặc tính thuế. Tuy 
nhiên, “nơi có hoạt động kinh doanh chính” 
sẽ không phản ánh đúng một số dịch vụ đặc 
thù (như phân tích, xử lý dữ liệu) vì có thể 
hoạt động phân tích, xử lý diễn ra tại Mỹ còn 
nơi dịch vụ được cung ứng cho khách hàng 
(theo phương thức hiện diện thương mại) là 
Việt Nam. Rõ ràng, trong trường hợp này, nơi 
diễn ra hoạt động kinh doanh lại không quan 
trọng bằng nơi dịch vụ được “sinh ra”.
Tiêu chí đòi hỏi quyền sở hữu hoặc quản lý 
phải thuộc một trong các nước thành viên FTA 
là tiêu chí khắt khe nhất vì nó gần như loại 
bỏ các pháp nhân bên ngoài ra khỏi đối tượng 
được hưởng ưu đãi. Chưa kể các thuật ngữ 
như quyền sở hữu, quyền quản lý lại đòi hỏi 
việc xem xét các quy định chi tiết trước khi 
có thể đi đến kết luận. Tuy vậy, trong GATS 
cũng như trong các FTA, tiêu chí này hầu như 
không được sử dụng.
Việc sắp xếp theo mức độ khắt khe sẽ trở 
nên phức tạp hơn khi các tiêu chí được kết hợp 
với nhau để tạo ra các điều kiện chấp nhận 
hoặc từ chối cho hưởng ưu đãi. Nhìn chung 
các tiêu chí khắt khe sẽ được áp dụng nếu các 
bên ký kết FTA muốn các dịch vụ hoặc nhà 
cung cấp dịch vụ có mối liên hệ chặt chẽ với 
các thành viên được hưởng lợi. Ngược lại, khi 
các bên muốn mở rộng đối tượng áp dụng của 
hiệp định, hạn chế hiệu ứng chuyển hướng 
thương mại và thu hút đầu tư, cách tiếp cận ít 
khắt khe hơn sẽ được áp dụng. Cũng nên lưu 
ý rằng trong một nền kinh tế mở, việc thu hút 
được dịch vụ từ các nhà cung ứng tốt thường 
sẽ hỗ trợ cho nền kinh tế. Vì vậy các tiêu chí 
có xu hướng thu hẹp phạm vi ưu đãi không 
phải là một lựa chọn có lợi ích dài hạn, giống 
như mọi biện pháp bảo hộ nói chung.
Tóm lại, QTXX đối với dịch vụ hiện hành 
mới chỉ là những khái niệm hết sức sơ khai, 
chưa đủ để đáp ứng mục tiêu về chính sách 
của các quốc gia cũng như phản ánh được 
dòng chảy của thương mại dịch vụ hiện đại. 
Mối quan hệ giữa xuất xứ dịch vụ và xuất xứ 
hàng hóa, việc xây dựng QTXX dịch vụ dựa 
trên bản thân dịch vụ là các vấn đề đòi hỏi 
sự hoàn thiện hơn nữa trong tương lai. Đây là 
nhiệm vụ đặt ra với các chính phủ và các học 
giả nhằm củng cố và thúc đẩy sự phát triển 
thương mại dịch vụ.q 
Tài liệu tham khảo
1. WTO, 1994, Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS).
2. Beviglia-Zampetti, A. & Sauvé, P., 2006, Rules of Origin for Services: Economic and Legal Consider-
ations, in O. Cadot et al. (eds), The Origin of Goods: Rules of Origin in Regional Trade Agreements.
3. Hoekmann, B., 1993, Rules of Origin for Goods and Services: Conceptual Issues and Economic Consid-
erations, Journal of World Trade 27 (4).
4. Wang, H., 2010, Origin Rules for Services and the Defects: Substantial Input Test as One Way Out?, Jour-
nal of World Trade 44 (5).
5. 
6. https://www.nafta-sec-alena.org/Home/Legal-Texts/North-American-Free-Trade-Agreement

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_ve_quy_tac_xuat_xu_trong_thuong_mai_dich_vu.pdf