Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp

Việc xây dựng và thi hành các quy định

về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

trung ương trong bốn bản Hiến pháp cần bảo

đảm các cơ quan trong bộ máy nhà nước ở

trung ương khi hoạt động thể hiện được bản

chất của Nhà nước ta là Nhà nước XHCN mang

tính pháp quyền. Do đó, các quy định của Hiến

pháp và việc áp dụng các chức năng, nhiệm

vụ của các cơ quan nhà nước trung ương phải

bảo đảm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

Nhà nước là chủ quyền cao nhất thuộc về nhân

dân. Hiến pháp là cơ sở pháp luật quan trọng

nhất, cơ bản nhất thiết lập chủ quyền của nhân

dân và đảm bảo chủ quyền nhân dân được thực

hiện thông qua việc tổ chức ra các cơ quan nhà

nước ở trung ương.

Tiêu chí đảm bảo chủ quyền nhân dân trong

tổ chức và thực hiện các quy định của bốn bản

Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở bản chất

của Nhà nước XHCN. Nhà nước ta là Nhà

nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Do đó, các quy định về tổ chức bộ máy nhà

nước trung ương không được đứng trên pháp

luật và càng không phải là bộ máy được thiết

lập nên để cai trị nhân dân. Các quy định của

Hiến pháp về bộ máy nhà nước trung ương, đặc

biệt là Quốc hội trước hết phải thể hiện ý chí,

nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân

dân lao động. Từng quy định của Hiến pháp

phải đảm bảo chủ quyền nhân dân được tôn

trọng và gìn giữ. Đồng thời, Hiến pháp cũng

cần đảm bảo rằng các quy định khi triển khai

trên thực tiễn phải hợp lòng dân, có tính thuyết

phục, khả thi và bảo đảm được tính thực quyền

của các cơ quan nhà nước ở trung ương.

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 1

Trang 1

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 2

Trang 2

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 3

Trang 3

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 4

Trang 4

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 5

Trang 5

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 6

Trang 6

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 10400
Bạn đang xem tài liệu "Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp

Tiêu chí tổng kết việc thi hành quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trung ương qua bốn bản hiến pháp
6 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Tiêu chí về mặt nội dung
1.1. Bảo đảm chủ quyền nhân dân
 Việc xây dựng và thi hành các quy định 
về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước 
trung ương trong bốn bản Hiến pháp cần bảo 
đảm các cơ quan trong bộ máy nhà nước ở 
trung ương khi hoạt động thể hiện được bản 
chất của Nhà nước ta là Nhà nước XHCN mang 
tính pháp quyền. Do đó, các quy định của Hiến 
pháp và việc áp dụng các chức năng, nhiệm 
vụ của các cơ quan nhà nước trung ương phải 
bảo đảm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của 
Nhà nước là chủ quyền cao nhất thuộc về nhân 
dân. Hiến pháp là cơ sở pháp luật quan trọng 
nhất, cơ bản nhất thiết lập chủ quyền của nhân 
dân và đảm bảo chủ quyền nhân dân được thực 
hiện thông qua việc tổ chức ra các cơ quan nhà 
nước ở trung ương.
Tiêu chí đảm bảo chủ quyền nhân dân trong 
tổ chức và thực hiện các quy định của bốn bản 
Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở bản chất 
của Nhà nước XHCN. Nhà nước ta là Nhà 
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 
Do đó, các quy định về tổ chức bộ máy nhà 
nước trung ương không được đứng trên pháp 
luật và càng không phải là bộ máy được thiết 
lập nên để cai trị nhân dân. Các quy định của 
Hiến pháp về bộ máy nhà nước trung ương, đặc 
biệt là Quốc hội trước hết phải thể hiện ý chí, 
nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân 
dân lao động. Từng quy định của Hiến pháp 
phải đảm bảo chủ quyền nhân dân được tôn 
trọng và gìn giữ. Đồng thời, Hiến pháp cũng 
cần đảm bảo rằng các quy định khi triển khai 
trên thực tiễn phải hợp lòng dân, có tính thuyết 
phục, khả thi và bảo đảm được tính thực quyền 
của các cơ quan nhà nước ở trung ương. 
(*) TS. Giảng viên Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Một trong những nội dung cơ bản của bốn bản Hiến pháp nước ta là nhóm các chế định về tổ chức và hoạt 
động của bộ máy nhà nước ở trung ương. Các nhóm chế định này được thiết kế trong Hiến pháp nhằm mục 
đích đảm bảo cho bộ máy nhà nước được tổ chức và vận hành theo đúng bản chất của Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa (XHCN) và đáp ứng yêu cầu của nhân dân về một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì dân. Khi 
nghiên cứu, tổng kết đánh giá việc thi hành các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương trong bốn 
bản Hiến pháp, cần hết sức chú trọng tới tiêu chí đánh giá. Bởi lẽ, chỉ khi nào có được bộ tiêu chí đánh giá toàn 
diện, đúng đắn và khoa học thì việc tổng kết và đánh giá hoạt động thực thi Hiến pháp mới đạt được chất 
lượng, các giải pháp đưa ra nhằm sửa đổi và bổ sung Hiến pháp trong giai đoạn tới về vấn đề này mới đảm 
bảo tính khả thi. 
TRƯơNG THị HỒNG HÀ*
TIÊU CHÍ TỔNG KẾT VIỆC THI HÀNH QUY ĐịNH
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC 
TRUNG ƯơNG QUA BỐN BẢN HIẾN PHÁP
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 77
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Chủ quyền nhân dân không chỉ là tiêu chí 
mà còn là mục đích phải đạt được của Hiến 
pháp Việt Nam khi xác định bản chất giai 
cấp và xã hội của Nhà nước. Ngay trong bản 
Hiến pháp XHCN đầu tiên- Hiến pháp Cộng 
hòa Liên bang Nga năm 1918, đã khẳng định 
vấn đề mà Hiến pháp cần phải hướng đến 
chủ quyền nhân dân và bản chất giai cấp của 
Hiến pháp. Điều 9, Hiến pháp Cộng hòa liên 
bang Xô Viết đã trang trọng tuyên bố: “Xác 
lập chuyên chính của giai cấp vô sản thành thị 
và nông thôn và của bần cố nông thủ tiêu 
nạn người bóc lột người và sáng tạo chủ nghĩa 
xã hội”. Kế thừa và phát huy trên thực tiễn 
bản chất của Nhà nước kiểu mới, Hiến pháp 
Việt Nam đầu tiên năm 1946 đã xác định chủ 
quyền nhân dân một cách rõ nét: “Nước Việt 
Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả 
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân 
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái 
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1, 
Hiến pháp năm 1946). Quy định này của Hiến 
pháp đã làm cơ sở cho mục tiêu đưa Hiến pháp 
vào cuộc sống để các cơ quan nhà nước ở trung 
ương tổ chức và thực hiện.
Tiêu chí đảm bảo chủ quyền nhân dân là cơ 
sở để đánh giá mức độ và mối quan hệ giữa 
Nhà nước và nhân dân. Đồng thời, nó là cơ sở 
để chống lại mọi âm mưu và hành động chống 
lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn 
lãnh thổ Việt Nam.
1.2. Bảo đảm tính dân chủ xã hội chủ nghĩa
Tiêu chí dân chủ được xem là một tiêu 
chí mang đậm tính chính trị, tính lịch sử, tính 
dân tộc, văn hóa, xã hội và màu sắc pháp lý 
hiện đại cho hoạt động đánh giá việc tổ chức 
và thực hiện quy định về tổ chức bộ máy nhà 
nước trong bốn bản Hiến pháp. Đặc biệt, để 
khẳng định được bản chất của Nhà nước thông 
qua tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở 
trung ương và địa phương bằng Hiến pháp, các 
Nhà nước hiện đại đều cố gắng thể hiện việc 
tổ chức thực hiện các quy định của Hiến pháp 
đảm bảo tiêu chí dân chủ. Chỉ khác rằng, Nhà 
nước tư sản củng cố và thực thi nền dân chủ tư 
sản còn Nhà nước XHCN thì thực thi cơ chế 
dân chủ XHCN.
Đánh giá việc thực hiện các quy định của 
Hiến pháp ... của nhân dân vào quản lý nhà nước không; 
có tạo điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu nại, 
tố cáo đối với hoạt động thực thi công vụ của 
các cán bộ, công chức một cách thuận tiện hay 
không.
Tính minh bạch
Minh bạch là yêu cầu quan trọng của hệ 
thống pháp luật và hoạt động thực thi pháp 
luật. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, “minh 
bạch” trở thành yêu cầu, nguyên tắc của Hiến 
pháp và pháp luật quốc gia trong mối quan hệ 
với pháp luật quốc tế mà quốc gia đó tham gia 
ký kết hoặc gia nhập. Tính minh bạch đòi hỏi 
các quy phạm pháp luật quy định chức năng, 
nhiệm vụ của cơ quan nhà nước ở trung ương 
phải đầy đủ, rõ ràng, cụ thể, ổn định, có thể dự 
đoán trước, tạo điều kiện thuận lợi cho người 
dân trong việc tiếp cận và thực hiện để bảo vệ 
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng 
thời, tính minh bạch đòi hỏi quá trình tổ chức 
và thực thi các quy định của Hiến pháp về tổ 
chức và hoạt động bộ máy nhà nước ở trung 
ương phải xác định tiêu chí về tính phù hợp 
với với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành 
viên, có sự tương thích nhất định với các cơ 
quan nhà nước của các nước trên thế giới. Tiêu 
chí này đòi hỏi việc tổ chức, thực thi các quy 
định của Hiến pháp phải có sự kế thừa, có chọn 
lọc kinh nghiệm của các nước trong việc điều 
chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội phát 
sinh trong hoạt động của các cơ quan nhà nước 
ở trung ương. Đặc biệt, mối quan hệ giữa các 
cơ quan nhà nước ở trung ương phải nằm trong 
mối quan hệ công pháp quốc tế, đó là thực thi 
pháp luật trong nước và quốc tế đảm bảo chủ 
quyền của Việt Nam và các quan hệ quốc tế 
theo nguyên tắc hợp tác, bình đẳng và cùng 
có lợi.
1.6. Bảo đảm khả năng kiểm soát quyền 
lực
Việc tổ chức thực thi các quy định về tổ 
chức bộ máy nhà nước ở trung ương qua các 
bản Hiến pháp cần được đánh giá dựa trên 
tiêu chí quan trọng trong tổ chức và thực hiện 
quyền lực nhà nước, đó là khi các cơ quan nhà 
nước tiến hành các chức năng, nhiệm vụ của 
mình cần đảm bảo rằng quyền lực nhà nước 
đang được kiểm soát một cách chặt chẽ từ phía 
nhân dân. Bởi lẽ, theo lý luận và trên thực tế, 
khi Hiến pháp phân quyền cho các cơ quan nhà 
nước ở trung ương và cơ quan nhà nước ở địa 
phương theo nguyên tắc quyền lực nhà nước 
là thống nhất đòi hỏi quá trình tổ chức thực 
hiện, quyền lực nhà nước cũng phải đảm bảo 
được tổ chức thi hành một cách thống nhất. 
Trong đó, các cơ quan phối hợp thực hiện 
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều hoạt 
động dưới sự kiểm soát quyền lực nhà nước và 
quyền lực nhân dân. Tiêu chí đảm bảo có sự 
kiểm soát quyền lực mang tính nhà nước đòi 
hỏi phải căn cứ vào việc đánh giá hoạt động 
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc 
hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. 
Tuy nhiên, đối với các cơ quan trung ương thì 
việc giám sát của Quốc hội là một thiết chế 
giám sát quyền lực đang có ưu thế hiện nay. 
Sự kiểm soát quyền lực từ phía Quốc hội được 
10 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hiểu chính là sự giám sát gián tiếp của nhân 
dân. Chính hoạt động giám sát của Quốc hội 
với việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối 
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước sẽ là câu 
trả lời cho việc các cơ quan nhà nước ở trung 
ương được tổ chức và thực hiện các quy định 
của Hiến pháp như thế nào. Đặc biệt, qua các 
bản Hiến pháp trong lịch sử Nhà nước Việt 
Nam thì vị trí của Quốc hội và hoạt động giám 
sát của Quốc hội ngày càng được đề cao, phù 
hợp hơn với thực tế và luôn tạo ra cơ chế kiểm 
soát quyền lực nhà nước hữu hiệu đối với việc 
thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước 
ở trung ương. Ngoài ra, hoạt động kiểm sát 
của Viện kiểm sát đối với hoạt động tư pháp, 
hoạt động thanh tra Chính phủ đối với các cơ 
quan của Chính phủ và đặc biệt, hoạt động của 
Kiểm toán Nhà nước đã và đang thiết lập một 
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do các 
cơ quan nhà nước ở trung ương thực hiện. Việc 
đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan 
có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm sát nêu 
trên phản ánh mức độ và hiệu quả thực thi các 
quy định của Hiến pháp về các cơ quan nhà 
nước ở trung ương. Nếu hoạt động giám sát 
tối cao của Quốc hội, thanh tra của Chính phủ, 
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 
và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước 
đạt được tính minh bạch, khách quan và được 
tiến hành thường xuyên, liên tục thì hiệu quả 
của hoạt động thực thi các quy định của Hiến 
pháp do các cơ quan nhà nước ở trung ương 
tiến hành cũng sẽ đảm bảo đúng mục đích tôn 
trọng Hiến pháp và thể hiện được bản chất của 
Nhà nước, của chế độ XHCN trong thực tế. 
Ngược lại, nếu các hoạt động kiểm soát quyền 
lực nhà nước không được chú trọng, cơ chế 
phân công quyền lực nhà nước sẽ trở thành lý 
thuyết và xa rời với thực tế; đồng thời không 
tạo được giới hạn thẩm quyền của từng thiết 
chế bộ máy nhà nước. Điều này cũng có nghĩa, 
chỉ phân quyền mà không giám sát việc các cơ 
quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước 
thì quyền lực nhà nước sẽ bị biến thành lợi 
ích của riêng một nhóm người sở hữu nó về 
thực chất và vô hình trung, quyền lực của nhân 
dân giao cho Nhà nước sẽ bị thao túng và biến 
thành một khối của cải mang tính hình thức.
2. Tiêu chí về mặt hình thức
2.1. Tính toàn diện
Đánh giá việc thi hành các quy định của 
Hiến pháp về tổ chức và thực hiện của các cơ 
quan nhà nước ở trung ương cần phải đảm bảo 
tính toàn diện. Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ 
bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống 
pháp luật mà hệ thống đó lấy Hiến pháp làm cơ 
sở pháp lý cơ bản. Tính toàn diện ở đây được 
xem là tiêu chí hàng đầu để đánh giá mức độ 
thực thi các quy định của pháp luật về tổ chức 
bộ máy nhà nước ở trung ương. Đối với Hiến 
pháp và hệ thống pháp luật, tính toàn diện là 
tiêu chuẩn để “định lượng” mức độ điều chỉnh 
của pháp luật, còn đối với hoạt động thực thi 
pháp luật, tính toàn diện thể hiện sự tổ chức 
thực hiện pháp luật theo diện rộng hay hẹp, 
mức độ triển khai các chức năng, nhiệm vụ 
mà Hiến pháp đã quy định hay chỉ tiến hành 
một số chức năng, thẩm quyền nhất định. Tính 
toàn diện cho phép đánh giá việc thực thi 
Hiến pháp của cơ quan nhà nước ở trung ương 
đã đạt hay chưa. Bởi lẽ, trong thực tiễn, có 
những cơ quan được Hiến pháp quy định cho 
rất nhiều quyền song lại không thực hiện các 
quyền đó hoặc nhiều cơ quan khi tổ chức thực 
hiện thấy khó khăn về phía mình nên “đổ lỗi” 
cho “cơ chế”, cho việc thiếu quy định, trình 
tự để thực hiện thẩm quyền đó (như quyền bỏ 
phiếu tín nhiệm Chính phủ, các thành viên của 
Chính phủ hay quyền quyết định trưng cầu ý 
dân của Quốc hội hay như việc Chính phủ ban 
hành quá nhiều nghị định mang tính chất giải 
thích luật). Tính toàn diện cũng là tiêu chuẩn 
để đánh giá việc thực thi quy định của Hiến 
pháp về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà 
nước ở trung ương trong việc triển khai các 
hình thức pháp lý hay phi pháp lý để tổ chức 
thực hiện Hiến pháp. 
2.2. Tính đồng bộ
Tính đồng bộ của Hiến pháp và việc tổ 
chức thực hiện Hiến pháp là một tiêu chí đòi 
hỏi trong quá trình đánh giá cần căn cứ vào sự 
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 117
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
thực thi của các cơ quan có thống nhất không, 
có bị mâu thuẫn, chồng chéo về chức năng, 
nhiệm vụ hay không. Đây cũng chính là cách 
thức tiếp cận để trả lời câu hỏi, trong thực 
tiễn, các quy định của Hiến pháp có tạo ra sự 
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong quá 
trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước hay 
không. Điều này đòi hỏi việc đánh giá thực thi 
Hiến pháp phải tiếp cận đến từng cơ quan, đầu 
mối cơ quan và các bộ phận của nó trong các 
hoạt động nhằm thực hiện chức năng, nhiệm 
vụ cụ thể. Đặc biệt, cần đánh giá cách thức 
giải quyết xung đột về thẩm quyền giữa các cơ 
quan trong thực tiễn đã phù hợp với tinh thần 
của Hiến pháp chưa, Hiến pháp nào đã tạo ra 
cơ chế giải quyết xung đột về thẩm quyền một 
cách hợp lý nhất. Chỉ có thể đánh giá trên cơ sở 
tiêu chí về tính đồng bộ mới cho chúng ta thấy 
rõ được mức độ hoàn thiện của tổ chức bộ máy 
của từng cơ quan nhà nước ở trung ương nói 
riêng và các cơ quan trong cả hệ thống cơ quan 
nhà nước. Đặc biệt, tiêu chí đồng bộ chính là 
cơ sở để tiến hành rà soát và sắp xếp lại các 
cơ quan trong bộ máy nhà nước đảm bảo cho 
sự cân đối, hài hòa về tổ chức, đồng thời hiệu 
quả trong việc triển khai các chức năng. Trong 
thực tiễn, việc sắp xếp lại các cơ quan trong bộ 
máy nhà nước đang chia thành ba nhánh: hệ 
thống cơ quan lập pháp (Quốc hội), hệ thống 
cơ quan hành pháp (Chính phủ) và hệ thống cơ 
quan tư pháp (Tòa án và Viện kiểm sát). Trong 
ba nhánh cơ quan này, tính đồng bộ được thể 
hiện trong mỗi thời kỳ là không giống nhau, 
đặc biệt có những cơ quan về hình thức là đang 
tinh giản nhưng thực chất lại chỉ giảm số lượng 
đầu mối mà phình to các cơ cấu bên trong. Lý 
do cho hiện tượng này là chức năng, nhiệm 
vụ của các cơ quan ngày càng tăng lên. Tuy 
nhiên, cần thấy rằng, chức năng, nhiệm vụ lại 
do Hiến pháp quy định mà Hiến pháp lại mang 
tính ổn định. Do đó, nhiều khi, các cơ quan 
nhà nước ở trung ương tiến hành các cách thức 
thực thi Hiến pháp lại không phụ thuộc vào 
quy định của Hiến pháp mà lại phụ thuộc vào 
tình hình thực tiễn và chịu sự tác động ở nhiều 
yếu tố chủ quan khác nhau. Điều này cho thấy, 
xét về mặt hình thức, cần phải đánh giá lại tính 
đồng bộ trong thực thi Hiến pháp để đảm bảo 
rằng các cơ quan nhà nước ở trung ương khi 
thực hiện các quy định của Hiến pháp luôn 
luôn chú trọng tới tính đồng bộ khi thiết kế cơ 
cấu tổ chức của cơ quan mình trong mối quan 
hệ với các cơ quan khác. 
3. Tiêu chí về kỹ thuật tổ chức
3.1. Thực thi các quy định của Hiến pháp cần 
đảm bảo tính khoa học
Đây là một tiêu chí hết sức quan trọng làm 
cơ sở cho việc đánh giá hoạt động thực thi các 
quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ 
quan nhà nước. Nếu việc triển khai các quy 
định của Hiến pháp không được tiến hành khoa 
học thì mọi hoạt động thực thi Hiến pháp chỉ 
mang tính hình thức, thậm chí gây lãng phí về 
vật chất, nguồn lực, thời gian hay nghiêm trọng 
hơn là những tổn thất về chính trị. Tuy nhiên, 
tính khoa học lại đòi hỏi về thời điểm triển 
khai các quy định của Hiến pháp trong thực 
tiễn, mức độ cụ thể hóa các quy định của Hiến 
pháp trong các văn bản quy phạm pháp luật và 
sự lựa chọn thực hiện sự ủy quyền của Hiến 
pháp cho các cơ quan nhà nước khác. Điều này 
dẫn đến một thực tế là khi triển khai đánh giá 
hoạt động thực hiện Hiến pháp và pháp luật 
trong bất cứ lĩnh vực nào chúng ta rất ngại đề 
cập một cách trực diện về tiêu chí khoa học để 
đánh giá, mà hầu như chỉ tiếp cận đến một vài 
12 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
khía cạnh của tính khoa học. Tính khoa học là 
một nội hàm của tiêu chí về kỹ thuật tổ chức 
cho phép chúng ta xác định và đánh giá một 
cách khách quan và đúng đắn mức độ thực thi 
các quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt 
động của các cơ quan nhà nước ở trung ương 
trong các thời kỳ và qua từng bản Hiến pháp 
khác nhau. Chính vì lẽ đó, tiêu chí khoa học 
đòi hỏi có sự tham gia đánh giá hoạt động thực 
thi pháp luật của nhiều nhà khoa học trong các 
lĩnh vực khác nhau như: luật học, chính trị 
học, hành chính học, quản lý học, văn hóa học, 
triết học; đồng thời phải thu hút sự quan tâm 
đánh giá của các nhà quản lý công tác tại các 
cơ quan nhà nước ở trung ương là đối tượng 
đang được đánh giá. Bên cạnh đó, các nhà hoạt 
động thực tiễn, các doanh nghiệp và nhân dân 
cũng là các chủ thể quan trọng được hỏi ý kiến 
đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước 
khi các cơ quan này hoạt động. 
3.2. Mức độ nhận thức đúng đắn về các quy 
định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt động 
của các cơ quan nhà nước ở trung ương
Các quy định của Hiến pháp được coi là 
hoàn thiện không chỉ thể hiện ở chỗ được ban 
hành dưới hình thức một văn bản quy phạm 
pháp luật, mà quan trọng hơn là Hiến pháp 
phải đi vào cuộc sống. Điều này đòi hỏi một 
tiêu chí cần đạt được là phải làm cho nhân 
dân nắm đầy đủ và hiểu được nội dung của 
Hiến pháp. Muốn vậy, công tác tuyên truyền, 
giáo dục pháp luật, giải thích pháp luật phải là 
những công việc được tiến hành thường xuyên, 
các biện pháp và hình thức giáo dục và nâng 
cao ý thức pháp luật... cho nhân dân được triển 
khai có hiệu quả chính là tiêu chí đánh giá mức 
độ thực thi Hiến pháp trong thực tiễn. Bởi lẽ, 
các quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt 
động của các cơ quan nhà nước ở trung ương 
phải được chính cán bộ, công chức trong hệ 
thống các cơ quan đó hiểu rõ và hiểu một cách 
thống nhất thì mới có cơ sở vận hành các quy 
định của Hiến pháp trên thực tiễn hoạt động 
theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được 
giao phó. Tính vi hiến vì thế mới được khắc 
phục ngay từ trong nhận thức. Hơn nữa, người 
dân nhận thức đúng đắn để bảo vệ quyền và lợi 
ích của mình có hiệu quả.
Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng, Hiến pháp 
được coi là hoàn thiện còn thể hiện thông qua 
hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật của 
đội ngũ cán bộ, công chức. Do vậy, phải nâng 
cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ 
cán bộ, công chức mà trước hết là cán bộ, công 
chức làm công tác tại các cơ quan trung ương. 
Họ phải là những người nắm vững các quy 
định của Hiến pháp, pháp luật hành chính cùng 
các luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan 
nhà nước ở trung ương cùng các văn bản quy 
phạm pháp luật có liên quan. Đòi hỏi này cho 
thấy, tiêu chí nhận thức là một tiêu chí mang 
tính chất kỹ thuật song đòi hỏi phải được xem 
xét và đưa vào hệ tiêu chí. Không thể có một 
Hiến pháp hoàn hảo và hoạt động thực thi Hiến 
pháp có hiệu quả khi nhận thức về Hiến pháp 
của đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan 
nhà nước và nhân dân lại thấp kém hoặc hoạt 
động tuyên truyền, giáo dục pháp luật không 
được chú trọng.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, việc xây 
dựng tiêu chí để đánh giá hoạt động thực thi 
Hiến pháp được xem là một trong những việc 
làm cần thiết. Trên cơ sở tổ chức và hoạt động 
của từng cơ quan nhà nước ở trung ương như 
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện 
kiểm sát nhân dân, các tiêu chí nêu trên sẽ là cơ 
sở chủ yếu để đánh giá một cách khách quan, 
toàn diện và khoa học việc thực thi các quy 
định của Hiến pháp qua các giai đoạn. 
Trên đây là cách tiếp cận để đánh giá theo 
các tiêu chí chiều dọc. Ngoài ra, còn có thể 
xây dựng và có nhiều tiêu chí đánh giá khác 
nữa theo chiều ngang, đánh giá chéo v.v.., phụ 
thuộc vào từng quy mô và tính chất của từng 
hoạt động để đưa các tiêu chí khác nhau vào 
đánh giá. Vấn đề cuối cùng vẫn phải trả lời 
câu hỏi khi xác định tiêu chí để đánh giá, đó 
là: “Các cơ quan nhà nước ở trung ương trong 
thời gian vừa qua đã được tổ chức và hoạt 
động đúng với tinh thần của Hiến pháp ở mức 
độ nào và làm cách nào để biết được mức độ 
hiện có?”.

File đính kèm:

  • pdftieu_chi_tong_ket_viec_thi_hanh_quy_dinh_ve_to_chuc_va_hoat.pdf