Thương mại quốc tế toàn cầu 2005-2016 và triển vọng 2017
Tóm tắt
Bài viết nghiên cứu xem xét và đánh giá những sự thay đổi trong thương mại quốc tế
toàn cầu trong giai đoạn 2005-2015 và đặc biệt là sự giảm sút của năm 2016. Để đánh giá
một cách sát thực tình trạng giảm sút này cũng như dự báo xu hướng tương lai của thương
mại toàn cầu, bài viết đã phân tích và đánh giá về hoạt động thương mại quốc tế của một số
quốc gia và khu vực chủ đạo như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, khu vực ASEAN và EU. Bên
cạnh đó, bài viết đưa ra một số nhận định về khả năng tăng trưởng và những sự thay đổi
trong thương mại quốc tế năm 2017.
Từ khóa: thương mại quốc tế, toàn cầu, tổng quan, triển vọng
Abstract
The study investigates changes in global international trade in the period of 2005-2015 and
especically, considers the decline of the global international trade in 2016. To evaluate
accurately reasons causing the decline as well as to predict the future trend of global trade,
the paper analyzes the international trade performances of some key countries and regions
such as the US, Japan, China, ASEAN and EU. In addition, the paper gives some judgments
about perspective of the international trade in 2017.
Keywords: international trade, global, overview, perspective
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thương mại quốc tế toàn cầu 2005-2016 và triển vọng 2017
1 Mã số: 424 Ngày nhận: 8/9/2017 Ngày gửi phản biện lần 1: 13/9 /2017 Ngày gửi phản biện lần 2: Ngày hoàn thành biên tập: 13/11/2017 Ngày duyệt đăng: 15/11/2017 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TOÀN CẦU 2005-2016 VÀ TRIỂN VỌNG 2017 Nguyễn Thị Thùy Vinh1 Tóm tắt Bài viết nghiên cứu xem xét và đánh giá những sự thay đổi trong thương mại quốc tế toàn cầu trong giai đoạn 2005-2015 và đặc biệt là sự giảm sút của năm 2016. Để đánh giá một cách sát thực tình trạng giảm sút này cũng như dự báo xu hướng tương lai của thương mại toàn cầu, bài viết đã phân tích và đánh giá về hoạt động thương mại quốc tế của một số quốc gia và khu vực chủ đạo như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, khu vực ASEAN và EU. Bên cạnh đó, bài viết đưa ra một số nhận định về khả năng tăng trưởng và những sự thay đổi trong thương mại quốc tế năm 2017. Từ khóa: thương mại quốc tế, toàn cầu, tổng quan, triển vọng Abstract The study investigates changes in global international trade in the period of 2005-2015 and especically, considers the decline of the global international trade in 2016. To evaluate accurately reasons causing the decline as well as to predict the future trend of global trade, the paper analyzes the international trade performances of some key countries and regions such as the US, Japan, China, ASEAN and EU. In addition, the paper gives some judgments about perspective of the international trade in 2017. Keywords: international trade, global, overview, perspective 1 Trường Đại học Ngoại thương, Email: vinhntt@ftu.edu.vn 2 1. Tổng quan về Kinh tế thế giới 2016 Nền kinh tế thế giới trải qua năm 2016 với nhiều khó khăn và rủi ro, bất ổn như sự kiện nước Anh bỏ phiếu rời khỏi EU (Brexit), kết quả bầu cử Tổng thống Mỹ và xu hướng chống toàn cầu hóa đã khiến đà tăng trưởng thấp hơn so với kỳ vọng mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực từ chính sách tài khóa và tiền tệ để kích thích kinh tế ở nhiều quốc gia. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2016 khoảng 3% thấp hơn so với năm 2015, tiếp tục theo hướng suy giảm kể từ năm 2010, sau sự hồi phục ngoạn mục từ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, khác với năm 2015 là năm mà tốc độ tăng trưởng quý sau thấp hơn quý trước, năm 2016 tăng trưởng ở những quý sau có xu hướng tăng lên, kỳ vọng một sự hồi phục trong năm 2017. Sự suy giảm xuất phát từ sự giảm sút tăng trưởng kinh tế ở hầu khắp các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản. So với mức 2,6% năm 2015, tốc độ tăng trưởng của Mỹ giảm chỉ còn 1.6% vào năm 2016 do giảm sút mạnh trong nửa năm đầu 2016. Tuy nhiên, vào những tháng của nửa năm sau 2016, đặc biệt là quý 3, tăng trưởng kinh tế của Mỹ đã có sự hồi phục mạnh với tốc độ 3.5% trong quý 3 đã hỗ trợ tốt cho tăng trưởng năm 2016. Mặc dù vậy, cuộc bầu cử tổng thống Mỹ với nhiều kịch tính, làm gia tăng những hoài nghi trên thị trường đã phần nào tác động tới tốc độ tăng trưởng trong quý 4 giảm còn 1.9% thấp hơn con số dự kiến là 2.1%. Tiếp đến là nền kinh tế Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng ở mức 6.7% trong cả năm 2016 với cả 3 quý đầu là 6.7% và tăng nhẹ lên 6.8% ở quý 4. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 26 năm qua cũng đã góp thêm vào sự suy giảm của tốc độ tăng trưởng toàn cầu. Mặc dù tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc thấp hơn năm 2015 nhưng đã có những dấu hiệu khả quan vào những tháng cuối năm 2016. Bước sang năm 2016, mặc dù đã rất nỗ lực trong thực thi các chính sách kích thích kinh tế, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới, Nhật Bản, vẫn đối mặt với sự sụt giảm sản lượng so năm 2015. Tốc độ tăng trưởng năm 2016 là 1% thấp hơn so với kỳ vọng và giảm so với mức 1.2% năm 2015. Mặc dù tốc độ tăng trưởng suy giảm vào những tháng cuối cùng của năm 2016, Nhật Bản đã duy trì được tốc độ tăng trưởng dương trong 4 quý liên tiếp, ổn định hơn so với những năm trước đó. Tuy nhiên mức độ tăng trưởng này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi sự mở rộng sản lượng vẫn phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu, tiêu dùng cá nhân (chiếm gần 60% GDP) chỉ tăng 0,1% trong quý 3 và giảm nhẹ trong quý 4, một dấu hiệu cho thấy gói kích thích kinh tế Abenomics vẫn chưa lan tỏa sang khu vực hộ gia đình. Tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển và mới nổi cũng không có sự cải thiện. Tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ giảm xuống 7,1% trong năm 2016 so với mức 7,6% của năm 2015, các nước ở khu vực Mỹ Latin như Ác-hen-ti-na, Braxin, hay Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang trong giai đoạn suy thoái. Chỉ có một số ít quốc gia và khu vực có sự cải thiện trong tăng trương năm 2016 như khu vực đồng tiền chung Châu Âu là 1,7% và các nước trong khu vực ASEAN là 4,8%, mức cao nhất kể từ 2013. 3 Tỷ lệ lạm phát trên thế giới có chiều hướng giảm nhẹ ở mức 2,6% mặc dù đã có sự gia tăng tỷ lệ lạm phát ở các nước có nền kinh tế phát triển cùng với sự thoát đáy của giá cả hàng hóa, giá dầu có sự hồi phục sai sự thỏa thuận cắt giảm sản lượng của các nước OPEC. Tỷ lệ lạm phát ở Mỹ có xu hướng gia tăng với mức 2,1% năm 2016 so ... 5 – 2015. Hai mặt hàng có xu hướng giảm đó là dầu mỏ và sắt thép hợp kim. Điều này cũng dễ hiểu khi Mỹ bắt đầu quay trở lại thị trường xuất khẩu dầu mỏ thời gian gần đây còn Trung Quốc nổi lên như một trong những trung tâm sản xuất sắt thép rẻ trên thế giới. Tuy nhiên việc ba mặt hàng chính giảm tỷ trọng trong khi đó các mặt hàng xuất khẩu chính khác tăng tỷ trọng dù không nhiều cũng cho thấy nỗ lực của Châu Âu trong việc đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Trong năm 2016, máy móc thiết bị cơ khí là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất của chấu Âu đến các thị trường Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc cho thấy rằng mặc dù có xu hướng giảm về tỷ trọng nhưng đây vẫn là nguồn thu quan trọng từ xuất khẩu của EU. Ngoài ra, với giá trị xuất khẩu bình quân 3,440 tỷ USD/quý, Châu Âu là một nguồn cung quan trọng về Dược phẩm đối với thị trường Nhật Bản. - Cơ cấu nhập khẩu Tương tự như xuất khẩu, các quốc gia trong EU cũng chủ yếu nhập khẩu hàng hóa của nhau. Các thị trường nhập khẩu được coi là lớn trên thế giới bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN chiếm trung bình từ 17% đến 20% nhập khẩu của Châu Âu trong giai đoạn 2005 – 2015. Tỷ trọng này cao nhất vào năm 2015 khoảng 20% và thấp nhất vào năm 2008 khoảng 17%. So sánh con số tương tự của xuất khẩu có thể nhận thấy, Châu Âu đang thâm hụt với các đối tác thương mại lớn trên thế giới. Điều này cũng lý giải phần nào tình trạng thâm hụt kéo dài của Châu Âu đầu giai đoạn, tuy nhiên gần đây cán cân thương mại của Châu Âu đã thặng dư cho thấy sự cố gắng của các quốc gia Châu Âu trong việc tìm kiếm thêm các thị trường xuất khẩu tiềm năng. Cũng tương tự như xuất khẩu, Trung Quốc là thị trường có sự thay đổi mạnh mẽ nhất trong các thị trường lớn mà Châu Âu nhập khẩu hàng hóa, tỷ trọng tăng từ 5,4% năm 2005 lên 8,4% năm 2015 (tăng 3%). Mỹ và ASEAN cũng gia tăng tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu vào Châu Âu trong cùng giai đoạn tuy nhiên ở mức khiêm tốn hơn khoảng 0,5%. Ngược lại, Nhật Bản và Hàn Quốc lại chứng kiến tỷ trọng xuất khẩu của mình vào Châu Âu sụt giảm tuy nhiên mức giảm này không nhiều. Theo số liệu năm 2016, ngược với xuât khẩu, Châu Âu nhập khẩu hàng hóa ngoại khối nhiều nhất từ Trung Quốc với kim ngạch ngày càng gia tăng, trong khi Mỹ là thị trường nhập khẩu xếp thứ hai. Cán cân thương mại của Châu Âu với Trung Quốc thâm hụt bình quân 10,890 tỷ USD/tháng và thặng dư với Mỹ bình quân 12,830 tỷ USD/tháng. Kim ngạch nhập khẩu của Châu Âu từ Nhật Bản và Hàn Quốc tương đối ổn định, giữ được cán cân thương mại tương đối cân bằng. Hình 8. Nhập khẩu của EU từ các quốc gia năm 2016 Đơn vị: tỷ USD 23 Nguồn: Trademap Không có gì ngạc nhiên khi dầu mỏ xuất hiện cùng với máy móc thiết bị cơ khí, máy móc thiết bị điện và phương tiện vận tải là các mặt hàng nhập khẩu chính của EU bởi vì nguồn tài nguyên này ở Châu Âu là tương đối hạn chế. Tổng tỷ trọng nhập khẩu của bốn mặt hàng trên lên tới gần một nửa giá trị nhập khẩu của EU. Tuy nhiên cũng giống như xuất khẩu, tỷ trọng nhập khẩu của bốn mặt hàng chính này đang có xu hướng giảm từ 45,6% năm 2005 xuống còn 42,67% năm 2015. Trong các mặt hàng nhập khẩu chính còn lại như dược phẩm, các sản phẩm nhựa, hóa chất, phương tiện tàu bay đều chứng kiến sự gia tăng về tỷ trọng, duy chỉ có sắt thép hợp kim là giảm tỷ trọng từ 2,94% năm 2005 xuống còn 2,38% năm 2015. Về cơ bản, mức độ thương mại nội ngành của Châu Âu cũng rất lớn, trong khi Châu Âu thường sản xuất những sản phẩm ở phân khúc giá cao thì ở chiều ngược lại lại nhập khẩu những sản phẩm tương tự ở phân khúc giá rẻ hơn. Trong năm 2016, mặt hàng nhập khẩu chính của Châu Âu từ Trung Quốc và Nhật Bản là Máy móc và thiết bị điện, trong khi từ Mỹ là Phương tiện tàu bay và các bộ phận, từ Hàn Quốc là xe cộ và phương tiện đi lại. Điều này cho thấy cơ cấu xuất nhập khẩu của Châu Âu với các đối tác thương mại này tương đối bổ sung cho nhau và Châu Âu đang có xu hướng đa dạng hóa các mặt hàng nhập khẩu theo các thị trường trên thế giới. 4. Triển vọng và rủi ro cho thương mại quốc tế năm 2017 Năm 2016 qua đi với sự tăng trưởng chậm chạp của thương mại quốc tế trên toàn cầu cùng nhiều sự kiện bất lợi cho phát triển thương mại quốc tế đã làm gia tăng tính bất định, khó dự đoán đối với thương mại toàn cầu trong năm 2017. Thương mại toàn cầu được dự báo tiếp tục có nhiều khó khăn có thể sẽ tiếp tục giảm tốc vào năm 2017. Mặc dù thu nhập toàn cầu được dự báo có sự cải thiện vào năm 2017 (IMF, 2017) nhờ vào sự cải thiện tăng trưởng của cả nhóm các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi nhưng sẽ không dễ dàng chuyển thành mức gia tăng trong nhu cầu nhập khẩu bởi một số lý do như sau: Thứ nhất, quá trình tích hợp sản xuất vào các chuỗi giá trị toàn cầu, là nhân tố quan trọng thúc đẩy thương mại đầu vào và hàng hoá trung gian bằng cách phân công lao động giữa các quốc gia dường như đã đến hạn. Để xem xét sự phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu 0 10 20 30 40 Trung Quốc Mỹ Nhật Bản Hàn Quốc 24 trong một khoảng thời gian, một thước đo phản ánh tầm quan trọng của chuỗi giá trị toàn cầu đã được sử dụng là phần của giá trị gia tăng ở nước ngoài được thể hiện trong tổng xuất khẩu hoặc tỷ lệ nhập khẩu trong sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hình 9 cho thấy sự tăng trưởng chậm chạp, thậm chí có những lúc suy giảm trong mức độ chuyên môn hóa theo chiều dọc kể từ năm 2011. Mặc sự tham gia của chuỗi giá trị toàn cầu trên thế giới đã tăng lên trong suốt những năm 2000s nhưng tốc độ chậm hơn so với những năm 1990s (Cristina, 2017). Đã có nhiều nghiên cứu cho rằng mức độ mở rộng trong chuỗi giá trị toàn cầu đang chậm lại giải thích một phần cho sự suy giảm trong thương mại toàn cầu. Các nghiên cứu này cũng cho thấy sự chậm lại này không chỉ do tăng trưởng kinh tế bị đình trệ mà mối quan hệ dài hạn giữa sản lượng và thương mại đã thay đổi, hệ số co dãn của thương mại thế giới với GDP lớn hơn 2 trong những năm 1990s nhưng chỉ xấp xỉ bằng 1 và đang có hướng giảm xuống trong những năm 2000s (Haugh và cộng sự, 2016; Al-Haschimi và cộng sự 2016; Timmer và cộng sự, 2016). Hình 9. Đo lường mức độ chuyên môn hóa theo chiều dọc 1995-2014 Nguồn: Cristina, 2017 Thứ hai, giá cả hàng hóa đã giảm trong ba năm qua (trước cuộc khủng hoảng tài chính giá cả gia tăng). Điều này làm giảm giá trị của thương mại và nhu cầu nhập khẩu của các nhà xuất khẩu hàng hoá chính, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù một số nhà xuất khẩu đang phản ứng với việc giảm giá bằng cách cắt giảm sản xuất. Tuy nhiên, theo Mendez-Parra (2017), ngay cả khi giá tăng trở lại thì dường như sự tăng giá sẽ không có lợi cho tất cả các nhà xuất khẩu hàng hóa theo như cách mà nó tác động giống như trước đây bởi mức độ phân công lao động dường như đã tới hạn và vì thế tác động khác nhau tới sự gia tăng trong năng suất lao động. Thứ ba, sự gia tăng mức độ bảo hộ ở cả các nước phát triển và đang phát triển cũng đang ảnh hưởng đến thương mại toàn cầu. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008, các quốc gia đã áp dụng các chính sách bảo hộ mới đặc biệt là các quốc gia trong G20. Mặc dù mức 25 thuế quan vẫn thấp, các quốc gia đang ngày càng sử dụng các loại rào cản khác để hạn chế thương mại, chẳng hạn như giấy phép không tự động. Các biện pháp khác hoạt động không chính thức bằng cách yêu cầu các công ty không nhập khẩu. Theo WTO, các biện pháp hạn chế thương mại trong 10 tháng đầu năm 2016 là tương đương như những năm trước đó, có nghĩa là vấn đề bảo hộ không chỉ thuần túy xem xét số lượng công cụ hạn chế thương mại được sử dụng mà có thể nhìn nhận thông qua những cách tiếp cận khác, chẳng hạn số lượng các biện pháp hạn chế thương mại được đề xuất (như là kho dự trữ các biện pháp hạn chế thương mại) đang gia tăng đều đặn. Hình 10. Các biện pháp hạn chế thương mại Nguồn: World Trade Oganization 2016 Sau rất nhiều thập kỷ các nền kinh tế thế giới nỗ lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới với nhiều hiệp đinh thương mại tự do được ký kết, năm 2016 đã đánh dấu những bước lùi của xu hướng này bởi sự ra đi của nước Anh khỏi Liên minh Châu Âu hay sự rút chân của Mỹ ra khỏi Hiệp định xuyên đối tác Thái Bình Dương (TPP). Mặc dù những tuyên bố chống lại toàn cầu hóa của tổng thống Mỹ và Brexit có thể thúc đẩy sự gia tăng hạn chế thương mại, điều này có lẽ sẽ không nhanh tới mức làm cho các chính phủ đưa ra các rào cản bổ sung, ít nhất là vào năm 2017. Các cam kết của WTO và các mối quan tâm khác trong nước sẽ là yếu tố ngăn chặn. Tuy nhiên, lập trường chống toàn cầu hóa sẽ cản trở các nỗ lực nhằm giảm rào cản thương mại trên toàn cầu. Các nước giàu hơn sẽ ít có xu hướng cam kết hơn nữa và tham gia đàm phán tự do thương mại. Trong khi đó, nhiều nước đang phát triển dự kiến sẽ gia tăng sự phụ thuộc vào các biện pháp bảo hộ để hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa của họ. Đối với các hiệp định thương mại tự do, hợp tác theo vùng sẽ có xu hướng chững lại và thay vào đó là sự phát triển của các hiệp định song phương. Năm 2016 là một năm quan trọng đối với các hiệp định thương mại tự do, với sự ký kết cho các hiệp định đã được đàm 26 phán trong nhiều năm. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thỏa thuận của 12 thành viên, chính thức ký kết giữa các bên vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 sẽ có hiệu lực sau khi được tất cả các nước ký kết phê chuẩn vào tháng 2 năm 2018. Tuy nhiên, cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đã làm thay đổi triển vọng của Hiệp định này khi trong ngày làm việc chính thức đầu tiên, Tổng thống mới đắc cử của Mỹ, Donald Trump, đã ký sắc lệnh chính thức rút Mỹ ra khỏi Hiệp định TPP làm gia tăng rủi ro về khả năng hiện thực hóa của Hiệp định TPP. Và ông cũng cũng đe dọa sẽ xé nát hay đàm phán lại NAFTA, đặt ra những câu hỏi lớn cho tương lai của cả Hiệp định vào năm 2017. Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP) đã trải qua đàm phán gần một thập kỷ. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2016, sau vòng đàm phán thứ mười lăm, việc ký kết TTIP có nguy cơ thất bại vì tiến độ diễn ra rất chậm và vấp phải nhiều sự tranh cãi và phản đối từ các công dân Mỹ và Châu Âu. Thứ nhất là về rào cản thương mại. Các chuyên gia nhận định rằng việc dỡ bỏ các rào cản thương mại sẽ gặp nhiều khó khăn vì sẽ gặp phải các “lực cản rất lớn”. Những nhà đàm phán sẽ phải đưa ra các quy định nhằm phối hợp nhiều thủ tục pháp lý cũng như tiêu chuẩn của cả 2 phía, chẳng hạn như kiểm nghiệm thuốc, thực phẩm. Nếu người dân Châu Âu không thích các sản phẩm biến đổi gien, họ sẽ đưa mục tiêu đó lên hàng đầu trong các cuộc đàm phán (trong khi người dân Mỹ vẫn sản xuất và sử dụng loại sản phẩm này). Thứ hai. việc giải quyết tranh chấp tại một số lĩnh vực kinh doanh liên quan đến chính phủ hàm chứa nhiều rủi ro. Nhiều chuyên gia lo ngại lĩnh vực kiểm soát đầu tư công hay quyền kiểm soát giá thuốc tại Âu Mỹ không minh bạch. Ngược lại, một hệ thống gọi là các nhà đầu tư nêu giải quyết tranh chấp hay ISDS cũng nhận nhiều chỉ trích, đây là tòa án quốc tế bí mật đó cho phép các công ty kiện tiểu bang cho bất cứ điều gì mà họ có thể yêu cầu bồi thường ảnh hưởng đến đầu tư của họ. Đây là một sức mạnh mới mà sẽ được bàn giao cho nhà đầu tư nước ngoài, ở đây là các tập đoàn Mỹ, kiện chính phủ các nước Châu Âu, từ đó các quy định của Chính phủ có nguy cơ bị chi phối. Dưới góc độ chính trị, làn sóng bầu cử ở các quốc gia cũng tác động khiến việc thông qua TTIP trở nên khó khăn hơn. TTIP đã không thể ký kết trước khi kết thúc nhiệm kỳ của tổng thống Mỹ Barack Obama. Sau ngày 09 tháng 11 năm 2016, khi ứng cử viên đảng Cộng hòa bảo thủ Donald Trump đắc cử tổng thống, tương lai của TTIP càng trở nên mơ hồ. Ông Trump là người kịch liệt phản đối các thỏa thuận thương mại đa phương, đặc biệt là với các hiệp định thương mại tự do TPP và NAFTA. Thêm vào đó, EU đang trải qua một số biến động lớn từ Brexit, thoả thuận này cũng đang bị đặt ra vấn đề. Một vấn đề chính trị nữa là cuộc bầu cử tổng thống tại Pháp diễn ra vào tháng tư, tháng năm và tại Đức vào giữa tháng tám và tháng mười năm 2017 cũng đang đặt TTIP trước nhiều rủi ra vì có những ứng viên sáng giá ủng hộ quan điểm chống toàn cầu hóa. Cuối cùng, xu hướng phát triển của thương mại điện tử sẽ có những sự bùng nổ cùng từ sự hỗ trợ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Theo các nhà phân tích, doanh số bán hàng trực tuyến sẽ tăng từ $ 335 tỷ trong năm 2015 lên hơn 523 tỷ đô la vào năm 2020, tăng 27 gần 10% mỗi năm, mặc dù mức tăng trưởng hiện nay hàng năm thực sự là gần 14%. Thế giới của các nhà bán lẻ truyền thống đã bị lung lay bởi sự thành công tăng vọt của mua sắm trực tuyến. Các nhà lãnh đạo thương mại điện tử đang có những bước tiến trong việc tối ưu hoá các chiến lược của mình và sẽ tiếp tục thực hiện vào năm 2017. Nhiều người dự đoán sẽ sớm kết thúc giai đoạn mua sắm điên cuồng trong các ngày lễ mua sắm truyền thống như Black Friday và Cyber Monday mà thay vào đó là tập trung vào sự đáp ứng tức thời nhờ vào là sự bùng nổ của các phân tích dữ liệu tiên đoán, Uber hóa hoạt động vận chuyển và sự gia tăng sử dụng trí thông minh nhân tạo trong khu vực này vào năm 2017. Tương lai của nền kinh tế kỹ thuật số đã tạo nên những sự thay đổi lớn trong cách thức kinh doanh của các công ty và vì thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Xu hướng thương mại quốc tế sẽ tập trung vào các kiến thức có khả năng xuyên biên giới vì thế cần phải có các quy tắc toàn cầu tốt hơn cho thương mại điện tử và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tài liệu tham khảo 1. Al-Haschimi, A., M. Gächter, D. Lodge, W. Steingress (2016), The Great Normalization of Global Trade, VoxEU.org, October 14. 2. Cristina Constantinescu, Aaditya Mattoo, and Michele Ruta (2017), Trade Developments in 2016: Policy Uncertainty Weighs on World Trade, World Bank Group, February 2017. 3. Haugh, D., A. Kopoin, E. Rusticelli, D. Turner, and R. Dutu (2016), ‘Cardiac Arrest or Dizzy Spell: Why is World Trade So Weak and What Can Policy Do About It?’ OECD Economic Policy Paper no. 18. Organization of Economic Cooperation and Development. September. 4. Lamar Steve (2017), Changing Perspective on Trade, Tradevistas, Feb 16 2017. 5. Timmer, M., B. Los, R. Stehrer, and G. de Vries (2016), Research Memorandum Number 162: An Anatomy of the Global Trade Slowdown based on the WIOD 2016 Release, Groningen, the Netherlands: Groningen Growth and Development Centre. 6. World Bank Group (2017), Global Economic Prospects: Weak Investment in Uncertain Times. Washington, D.C.: World Bank, January 2017. 7. World Trade Organization (2016), Overview of Developments in the International Trading Environment, Annual Report by the Director-General (Mid-October 2015 to mid-October 2016), WT/TPR/OV/19,World Trade Organization, Geneva 8. Yardeni và cộng sự (2017), Global Economic Briefing: Global Inflation, Yardeni Research, Inc, February, 2017.
File đính kèm:
- thuong_mai_quoc_te_toan_cau_2005_2016_va_trien_vong_2017.pdf