Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc từ 2013 tới 6 tháng đầu 2017
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payment –BOP) là bản ghi chép tất cả những
giao dịch bằng tiền của quốc gia này với các quốc gia còn lại trên thế giới trong một thời gian
nhất định (thường là 1 năm)[1,2]. BOP cung cấp thông tin để đánh giá thực trạng và khả năng
thu chi tài chính của cả quốc gia trong một thời kỳ nhất định với phần còn lại của thế giới về
thương mại, đầu tư, dịch vụ và các giao dịch khác. Cán cân thanh toán quốc tế là căn cứ để
hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô về xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, đầu tư, lãi suất và
là cơ sở để tiến hành các dự báo xu hướng vận động của nền kinh tế vào từng quốc gia và thế
giới. BOP có thể rơi vào 1 trong 3 trạng thái: cân bằng, thặng dư và thâm hụt. BOP có vai trò
rất quan trọng tới ổn định nền kinh tế vĩ mô. BOP bao gồm cán cân vãng lai, cán cân vốn,
thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước và mục sai số.
Tài khoản vãng lai (current account) ghi chép dòng hàng hóa và dịch vụ chạy ra và
vào của một quốc gia [1,3]. Các khoản thu nhập từ đầu tư, cả lĩnh vực công và lĩnh vực tư nhân
đều được ghi chép vào tài khoản vãng lai. Tài khoản vãng lai gồm 3 tiểu mục là tài khoản
giao dịch thương mại, tài khoản thu nhập và tài khoản giao dịch chuyển tiền.
Tài khoản giao dịch thương mại ghi chép tất cả các giao dịch thương mại trao đổi, mua
bán hàng hóa, dịch vụ giữa nước này với nước khác. Tài khoản giao dịch thương mại được thể
hiện bằng chênh lệch của xuất khẩu và nhập khẩu, chênh lệch này gọi là cán cân thương mại
hàng hóa. Nếu xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu thì gọi là thâm hụt cán cân thương mại. Ngược
lại, nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu thì gọi là thặng dư cán cân thương mại. Với đa số quốc
gia, cán cân thương mại hàng hóa là thành phần chủ yếu của tài khoản vãng lai, Việt Nam
cũng không là ngoại lệ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc từ 2013 tới 6 tháng đầu 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 516 THỰC TRẠNG CÁN CÂN THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ 2013 TỚI 6 THÁNG ĐẦU 2017 Ths Tạ Thị Thanh Hà Khoa Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đại học Hải Phòng Tóm tắt: Kể từ sau khi chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thay đổi đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Nổi bật trong đó là việc lần đầu tiên Việt Nam đạt mức xuất siêu (năm 2014) lên tới 2.368.057 tỷ đồng. Tuy nhiên, các thị trường xuất nhập khẩu chủ đạo của Việt Nam vẫn là thị trường châu Á. Đặc biệt trong đó, thị trường xuất nhập khẩu không thể không kể đến là thị trường Trung Quốc (bao gồm CHND Trung Hoa và đặc khu hành chính Hong Kong). Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 2013 – 6 tháng đầu 2017. Đồng thời bài viết cũng xác định những xu hướng trong quan hệ thương mại với Trung Quốc để có các chính sách quản lý phù hợp và kịp thời. Từ khóa: xuất nhập khẩu, kinh tế, thương mại, Việt Nam, Trung Quốc 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payment –BOP) là bản ghi chép tất cả những giao dịch bằng tiền của quốc gia này với các quốc gia còn lại trên thế giới trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm)[1,2]. BOP cung cấp thông tin để đánh giá thực trạng và khả năng thu chi tài chính của cả quốc gia trong một thời kỳ nhất định với phần còn lại của thế giới về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các giao dịch khác. Cán cân thanh toán quốc tế là căn cứ để hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô về xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, đầu tư, lãi suất và là cơ sở để tiến hành các dự báo xu hướng vận động của nền kinh tế vào từng quốc gia và thế giới. BOP có thể rơi vào 1 trong 3 trạng thái: cân bằng, thặng dư và thâm hụt. BOP có vai trò rất quan trọng tới ổn định nền kinh tế vĩ mô. BOP bao gồm cán cân vãng lai, cán cân vốn, thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước và mục sai số. Tài khoản vãng lai (current account) ghi chép dòng hàng hóa và dịch vụ chạy ra và vào của một quốc gia [1,3]. Các khoản thu nhập từ đầu tư, cả lĩnh vực công và lĩnh vực tư nhân đều được ghi chép vào tài khoản vãng lai. Tài khoản vãng lai gồm 3 tiểu mục là tài khoản giao dịch thương mại, tài khoản thu nhập và tài khoản giao dịch chuyển tiền. Tài khoản giao dịch thương mại ghi chép tất cả các giao dịch thương mại trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa nước này với nước khác. Tài khoản giao dịch thương mại được thể hiện bằng chênh lệch của xuất khẩu và nhập khẩu, chênh lệch này gọi là cán cân thương mại hàng hóa. Nếu xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu thì gọi là thâm hụt cán cân thương mại. Ngược lại, nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu thì gọi là thặng dư cán cân thương mại. Với đa số quốc gia, cán cân thương mại hàng hóa là thành phần chủ yếu của tài khoản vãng lai, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Giới thiệu chung về quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”. Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ lâu là một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu văn hoá và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền thống bền vững. Từ khi bình thường hóa quan hệ từ năm 1991 đến nay, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa đã phát triển nhanh chóng. Năm 2008, trong chuyến thăm Trung Quốc của nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, hai bên Việt Nam – Trung Quốc đã cùng nhất trí thiết lập và phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Hai nước đã xác lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, triển khai hàng chục cơ chế hợp tác đa dạng ở mọi cấp, mọi ngành. Từ đó tới nay, Trung Quốc (bao gồm đặc khu hành chính Hong Kong) luôn là đối tác hàng hóa quan trọng, xếp hàng đầu trong tổng số các thị trường châu Á của Việt Nam. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 517 Tính chung tất cả các thị trường trên thế giới theo quốc gia và vùng lãnh thổ, trong 6 tháng đầu năm 2017, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ và EU). Đồng thời đây cũng là thị trường là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam và là thị trường nhập khẩu hàng đầu của các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam trong rất nhiều năm qua. Bảng 2.1. Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam-Trung Quốc Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 6T 2017 XK NK XK NK XK NK XK NK XK NK Tỷ trọng so với tổng kim ngạch của VN (%) 13 29 13 30 15 31 12.4 28.6 17 28 Thứ hạng trong tổng số các thị trường 5 1 3 1 4 1 2 1 3 1 Nguồn: Tính toán từ số liệu Tổng cục Hải quan Các số liệu thống kê trong bảng 1 ghi nhận thực trạng mặc dù tỷ trọng kim ngạch của hàng hóa xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn tăng qua các năm (trừ năm 2016, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 0,6% so với 2015). Nhưng tốc độ tăng của tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng khoảng ½ tốc độ tăng của tỷ trọng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu với bình quân khoảng 29%/năm. 2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam – Trung Quốc từ năm 2016 tới 6 tháng đầu 2017 Bảng 2.2. Trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam – Trung Quốc (bao gồm Hong Kong) Đơn vị tính: triệu USD Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Trị giá Tăng % Trị giá Tăng % 2013 17.291 39,57 37.935 31,79 2014 20.193 16,78 44.684 17,79 2015 23.821 17,97 51.649 15,59 2016 28.048 17,74 51.515 (0,26) 6m 2017 19.645 - 32.581 - Nguồn: Tổng cục Hải quan Theo số liệu thống kê từ bảng trên, có thể thấy kim ngạch thương mại hai chiều giữa 2 nước Việt Nam – Trung Quốc luôn không ngừng được tăng lên qua các năm. Trị giá kim ngạch xuất khẩu trung bình tăng khoảng 23,3%/năm, trong khi tốc độ tăng trung bình của kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 16,23%/năm. Ngoại trừ năm 2016, kim ngạch xuất khẩu tăng 17,74% so với 215, nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm 0,26% so với năm trước đó. Tuy nhiên, không khó để nhận ra trong suốt các năm qua cán cân thương mại hàng hóa luôn bị thâm hụt nghiêng về phía Việt Nam với mức thâm hụt rất cao. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng đều trong giai đoạn nghiên cứu, nhưng mức tăng của kim ngạch xuất khẩu là rât nhỏ so với kim ngạch nhập khẩu. Năm 2016, nhập khẩu giảm bớt 134,445 triệu USD, xuất khẩu tăng thêm 4.226,579 triệu USD, nhờ đó mà cán cân thương mại được cải thiện 4.361 triệu USD với năm 2015. Số liệu thống kê sơ bộ của tổng cục Hải quan cho thấy, tính đến hết tháng 6/2017, tổng kim ngạch buôn bán 2 chiều giữa Việt Nam – Trung Quốc đạt 52.286 triệu USD, tăng TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 518 14,57% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc là 19.645 triệu USD, tăng 16,34% so với cùng kỳ và tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu có nguồn gốc từ thị trường này là 32.581 triệu USD, tăng 13,6% so với cùng thời gian 1 năm trước đó. DVT: triệu USD Biểu đồ 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa v cán cân thƣơng mại qua các năm 2.3. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam – Trung Quốc theo nhóm hàng: Theo số liệu thống kê chính thức trong Niên giám thống kê (bản vắn tắt) của Tổng Cục Hải Quan, năm 2016, trong số 10 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, có tới 6 nhóm mặt hàng xuất chủ yếu sang thị trường Trung Quốc. Các mặt hàng đó là dệt may, giày dép, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, gỗ, máy móc thiết bị phụ tùng Nhìn chung, với các mặt hàng này Trung Quốc là 1 trong 5 thị trường nhập khẩu hàng đầu của nước ta. Cá biệt có 2 nhóm mặt hàng là máy móc sản phẩm điện tử và linh kiện, Trung Quốc (đã bao gồm Hong Kong) là thị trường nhập khẩu số 1 (tỉ trọng trong tổng ngành hàng là 29.7%), gỗ và sản phẩm là thị trường lớn thứ 2 (tỉ trọng 14.6% trong tổng ngành hàng). Các mặt hàng này đều chứng kiến tốc độ tăng rất lớn so với năm 2015, có tốc độ tăng cao nhất là nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng (55,8%), và thủy sản 51,4%. Trung Quốc hiện là thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 2 của Việt Nam nhưng gần đây tốc độ tăng đã có dấu hiệu chậm lại (năm 2016 tăng khoảng 4.6% so với 2015). Trong 6 tháng đầu năm nay, bên cạnh các nhóm mặt hàng xuất khẩu truyền thống sang Trung Quốc như thủy sản, dệt may, giày dép,nhóm hàng nông sản ghi nhận Trung Quốc lần đầu tiên là thị trường nhập khẩu chính hàng rau quả với kim ngạch đạt 1,8 tỷ USD, tăng mạnh 60% so với cùng kỳ năm 2016 và chiếm đến 76% kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của cả nước. - 40 000 - 30 000 - 20 000 - 10 000 10 000 20 000 30 000 40 000 50 000 60 000 2013 2014 2015 2016 kim ngạch xuất khẩu kim ngạch nhập khẩu cán cân thương mại TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 519 DVT: triệu USD Biểu đồ 2.2. Kim ngạch xuất khẩu 6 nhóm hàng chính của Việt Nam sang Trung quốc năm 2015 - 2016 Việt Nam nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng từ thị trường nước ngoài. Tuy nhiên trong tổng số 10 nhóm mặt hàng nhập khẩu chính của nước ta, có đến 9 nhóm mặt hàng nhập khẩu nguồn gốc từ Trung Quốc. Các mặt hàng đó là: điện thoại và linh kiện điện thoại, sắt thép, vải may, nguyên phụ liệu dệt may và gia dày, kim loại thường và các sản phẩm từ chất dẻo. DVT: triệu USD Biểu đồ 2.3. Kim ngạch nhập khẩu 9 nhóm hàng chính từ thị trƣờng Trung Quốc của Việt Nam năm 2015-2016 Nếu như các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc là các sản phẩm hàm lượng công nghệ thấp như dệt may, giày da, gỗ, thủy sản thì các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu lại là thành phẩm (chất dẻo, sắt thép các loại, kim loại thường) hoặc các sản phẩm công nghệ 670 4357 754 714 351 975 824 5625 905 1112 683 1019 dệt may máy tính, sp điện tử giày dép máy móc thiết bị thủy sản gỗ và sp gỗ 2015 2016 máy móc thiết bị máy tính, sp điện tử điện thoại và linh kiện sắt thép các loại vải các loại chất dẻo xăng dầu nguyên phụ liệu dệt may kim loại thường 2015 2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 520 cao (máy móc thiết bị, điện thoại và linh kiện điện thoại, máy tính và sản phẩm điện tử). Trong năm 2016, nhóm mặt hàng xăng dầu các loại và điện thoại mặc dù tỷ trọng nhập khẩu trong ngành hàng vẫn cao (59,8% và 8,9%) nhưng tốc độ tăng bị giảm so với 2015 (giảm 50,6% và 3,6%). Trong 6 tháng đầu năm nay, các mặt hàng nhập khẩu truyền thống như máy móc thiết bị, máy tính, sản phẩm điện tử đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái, cụ thể: mặt hàng máy móc thiết bị tăng 24,5% (tương ứng 7,24 tỷ đồng), máy tính sản phẩm điện tử tăng 20,7% (tương ứng 4,38 tỷ đồng) , điện thoại và linh kiện tăng 20,3% (tương ứng 4,62 tỷ đồng), riêng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng sắt thép lại giảm 28,5% so với cùng kỳ (tương ứng 5,18 tỷ đồng) và mặt hàng xăng dầu thay vì nhập từ Trung Quốc, xăng dầu các loại được nhập khẩu về Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Singapore, Hàn Quốc, Malaysia. 3. KẾT LUẬN Kể từ khi bình thường hóa quan hệ thương mại tới nay, lợi ích thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc là điều dễ dàng nhận thấy: Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong khối ASEAN, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chính của các doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù vậy, trong rất nhiều năm qua, nhóm mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu giữa 2 nước vẫn không thay đổi đáng kể: Việt Nam vẫn dựa vào xuất khẩu khoáng sản, nguyên liệu thô và nông sản sang nước bạn, và nhập khẩu lại từ Trung Quốc các mặt hàng công nghiệp và hàng tiêu dùng. Hiện nay, cuộc cách mạng sản xuất 4.0 được dự đoán sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và người dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất. Bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Kỷ nguyên mới của đầu tư, năng suất và mức sống gia tăng tất cả là nhờ vào sự sáng tạo của con người và sẽ tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới, và quan hệ kinh tế thương mại của Việt-Trung cũng không nằm ngoài tác động đó. Thực tế mặc dù thương mại song phương liên tục tăng trưởng, nhưng vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước đã ngày càng bộc lộ. Việt Nam cố gắng tăng xuất khẩu sang Trung Quốc để cân bằng cán cân thương mại nhưng kết quả vẫn luôn là việc thâm hụt cán cân thương mại. Nguyên nhân khiến thương mại Trung - Việt mất cân bằng đến từ nhiều phương diện nhưng chủ yếu là do giai đoạn phát triển và nhu cầu bên trong của Việt Nam quyết định. Nhìn từ phân tích nhóm mặt hàng nhập khẩu chủ yếu, nguyên nhân khiến mức nhập siêu của Việt Nam lớn và tăng nhanh là để đáp ứng nhu cầu xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng trong nước, điều chỉnh và nâng cấp kết cấu kinh tế, tăng xuất khẩu của Việt Nam. Có thể thấy, tăng nhập khẩu từ Trung Quốc có đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, hơn nữa cũng chưa có bằng chứng cho thấy nhập siêu với Trung Quốc gây tổn hại thực sự cho kinh tế Việt Nam. Muốn giải quyết vấn đề thâm hụt cán cân thương mại hàng hóa, về ngắn hạn, một mặt Việt Nam có thể chuyển hướng nhập khẩu sản phẩm công nghệ từ Trung Quốc sang các thị trường khác như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Mặc dù chi phí nhập khẩu các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao từ các thị trường nguồn này sẽ tốn kém nhưng thời gian khấu hao sản phẩm sẽ cao hơn, nâng cao giá trị gia tăng của hàng hóa và cải thiện năng suất lao động. Về dài hạn, Việt Nam có thể thông qua hợp tác giữa hai nước, kết hợp với tận dụng điều kiện độc đáo của Việt Nam, hợp tác sản xuất những mặt hàng phù hợp với nhu cầu thị trường Trung Quốc, hoặc thu hút kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của các nước khác để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa nước mình. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 521 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. [1,2] [1,3] PGS.TS Nguyễn Văn Dần (2010), Kinh tế học vĩ mô, NXB Tài chính 2. Th.s Ngô Hải Thanh (2017), “Tác động tạo lập và chuyển hướng của thương mại Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO”, Hội thảo Khoa học Quốc tế “Phát triển kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế” 3. Tổng cục Hải quan Việt Nam, Niêm giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2015 (bản tóm tắt), truy cập ngày 20/9/2017 tại website: https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/Attachments/1026/Nien%20gia m%20thong%20ke%20HQ%20ve%20hang%20hoa%20XNK%202015_Ban%20tom%20tat.p df 4. Tổng cục Hải quan Việt Nam, Niêm giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2016 (bản tóm tắt), truy cập ngày 25/9/2017 tại website: https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/Attachments/1185/Niengiam%2 0tom%20tat%202016%20.pdf 5. Tổng cục Thống kê, Số liệu xuất nhập khẩu chính thức năm 2013, năm 2014, năm 2015, năm 2016, truy cập ngày 13/9/2017 tại website: THE REALITY OF BALANCE’S MERCHANDISE TRADE BETWEEN VIET NAM AND CHINA FROM 2013 TO THE FIRST HALF OF 2017 Abtracts: After 10 years of being an official member of World Trade Organization, Vietnamese trade has been changed significantly. In 2014, this is the first time our international merchandise trade was surplus with 2.368.057 billion VND. But it is the fact that most of Vietnam‟s trading top partners are from Asia. And the second biggest economy in the world, China (included Hong Kong) is one of the most important import-export markets of Vietnam. This paper will not only analyze merchandise trade between China and Vietnam from 2013 to 6 months of 2017 but also identifies some important trends in import-export relation with China to have appropriate and timely management policies. Keywords: import, export, economy, trade, Vietnam, China
File đính kèm:
- thuc_trang_can_can_thuong_mai_viet_nam_trung_quoc_tu_2013_to.pdf