Thực nghiệm trong Toán học và quan điểm “thực nghiệm” trong giảng dạy Toán
Nội dung đề cập trong bài này bắt nguồn từ những quan niệm khác nhau trong cộng đồng các nhà khoa học và các nhà giáo dục về thực nghiệm trong toán học và về giảng dạy các khoa học được gọi là “thực nghiệm”.
Toán học được quan niệm là một khoa học thực nghiệm dựa trên bốn khía cạnh: phương pháp toán học; ứng dụng của toán học; phương pháp dạy học (PPDH) toán học; đặc trưng phát triển nội tại của toán học.
Trong phạm vi bài báo này chúng tôi không có ý định trình bày những quan điểm nói trên, mà chỉ đề cập đến xu hướng thực nghiệm trong lịch sử và trong hoạt động dạy học toán hiện nay. Đồng thời trả lời câu hỏi: có hay không quan điểm “thực nghiệm” trong chương trình và sách giáo khoa Toán bậc phổ thông trung học ở Việt Nam hiện nay ?
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực nghiệm trong Toán học và quan điểm “thực nghiệm” trong giảng dạy Toán
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP. HCM Số 18 năm 2009 78 THỰC NGHIỆM TRONG TOÁN HỌC VÀ QUAN ĐIỂM “THỰC NGHIỆM” TRONG GIẢNG DẠY TOÁN Trần Anh Dũng* Nội dung đề cập trong bài này bắt nguồn từ những quan niệm khác nhau trong cộng đồng các nhà khoa học và các nhà giáo dục về thực nghiệm trong toán học và về giảng dạy các khoa học được gọi là “thực nghiệm”. Toán học được quan niệm là một khoa học thực nghiệm dựa trên bốn khía cạnh: phương pháp toán học; ứng dụng của toán học; phương pháp dạy học (PPDH) toán học; đặc trưng phát triển nội tại của toán học. Trong phạm vi bài báo này chúng tôi không có ý định trình bày những quan điểm nói trên, mà chỉ đề cập đến xu hướng thực nghiệm trong lịch sử và trong hoạt động dạy học toán hiện nay. Đồng thời trả lời câu hỏi: có hay không quan điểm “thực nghiệm” trong chương trình và sách giáo khoa Toán bậc phổ thông trung học ở Việt Nam hiện nay ? 1. Thực nghiệm trong toán học Theo truyền thống, toán học luôn được quan niệm là một khoa học suy diễn, và vì vậy trong toán học không có chỗ đứng của thực nghiệm, thí nghiệm như trong những ngành khoa học khác (vật lí, hóa học). Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của toán học, các nhà toán học đã dùng “thực nghiệm” để kiểm nghiệm, tính toán những số liệu mà họ dự đoán trong điều kiện chỉ có công cụ tính tay thô sơ. Điển hình nhất là những thực nghiệm trong lịch sử khi các nhà toán học tính gần đúng số p. Newton thú nhận rằng ông đã sử dụng rất nhiều hình vẽ để tính gần đúng số p đến 15 chữ số thập phân khi ông sử dụng kết quả 1/ 4 2 0 x x dxp = -ò để đưa ra giá trị gần đúng của p là : 3 3 1 1 124 ... 4 3 8 5 32 7 128 æ öp = + - - -ç ÷´ ´ ´è ø * ThS, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Đồng Nai Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP. HCM Trần Anh Dũng 79 Nhiều “thực nghiệm” khác đã được sử dụng để tính toán giá trị gần đúng của p trước và sau Newton. Những tính toán này đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Gauss cũng được xem là một nhà toán học thực nghiệm. Có lần Gauss đã thú nhận về một kết quả ông phát hiện được: “Tôi đã tìm được kết quả nhưng tôi không biết làm thế nào để có được nó”. Chẳng hạn, năm 1790 khi khảo sát bản gốc tích phân đã cho bởi James Stirling ông đã phát hiện ra bài toán ngược của tích phân p - ò 1 4 0 2 dt 1 t . Dựa vào các tính toán tay, Gauss phỏng đoán rằng giá trị của tích phân đó bằng với giới hạn của các dãy (an), (bn) cho bởi : a0 = 1; b0 = 2 ; an+1 = +n na b 2 và bn+1 = n na b . Kết quả này được ghi chú trong một cuốn nhật kí của ông. Mãi đến thế kỉ XIX, kết quả đó mới được chứng minh khi lí thuyết tích phân các hàm eliptic ra đời. Thực ra, nghiên cứu kỹ thuật mà Archimedes sử dụng trong phương pháp “vét kiệt” khi tính diện tích miền giới hạn bởi parabol và đường thẳng vuông góc với trục của nó, chúng ta có thể cho rằng tư tưởng “thực nghiệm” trong toán học đã xuất hiện từ thời cổ đại. Để dễ thấy hơn kỹ thuật mà Archimedes đã sử dụng, chúng ta giải thích lại cách làm của Archimedes theo phương pháp tọa độ hiện nay. Nếu (P) là parabol có phương trình y = 1 – x2, Archimedes tính diện tích giới hạn bởi (P) và trục Ox bằng cách “lấp kín” hình này bằng những tam giác. Archimedes bắt đầu từ tam giác cân mà các đỉnh là ( )0;1± và ( )1;0 , tam giác đó có diện tích là 1. Ông ta thêm vào hai tam giác mà đỉnh là ÷ø öçè æ± 4 3; 2 1 , phần diện tích tăng thêm là 4 1 . Tiếp tục ông thêm vào 4 tam giác với các đỉnh mới là ( )1/ 4;15/16± và ( )3/ 4;7 /16± thì diện tích tăng thêm là 1/16 cứ thế với mỗi tam giác có sẵn ông lại thêm hai tam giác mới. Archimedes quan sát thấy diện tích càng ngày càng gần với 4/3 vì: Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP. HCM Số 18 năm 2009 80 1 = 4 1 3 3 - 1+ 1 4 = 4 1 3 4.3 - 1 1 4 11 4 16 3 16.3 + + = - 1 1 1 4 11 4 16 64 3 64.3 + + + = - Bằng các lập luận có lí, Archimedes đi đến kết luận diện tích cần tính là 4/3. Kết quả mà Archimedes có được là một điển hình về sự kết hợp khéo léo giữa thực nghiệm và suy luận trong nghiên cứu toán học. Kỉ nguyên của máy tính điện tử đã làm một cuộc cách mạng trong hoạt động toán học thực nghiệm. Máy tính đầu tiên ENIAC được sử dụng lần đầu vào năm XIX49 đã tính 2037 chữ số thập phân của p trong 70 giờ. Thời gian này càng được rút ngắn với những máy tính thế hệ sau. Mặc dù hầu hết những lí thuyết, nguyên lí, định lí quan trọng của toán học đều có mặt trước kỉ nguyên của công nghệ thông tin (CNTT) nhưng sự phát triển của CNTT đến lượt nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu toán học và giảng dạy toán học có một công cụ mới, gắn toán học và giảng dạy toán học với hoạt động thực nghiệm. Xu hướng này vẫn chưa có mặt ở chương trình giảng dạy toán bậc ĐH ở nước ta mặc dù đã phát triển ở nhiều nước tiên tiến hơn một
File đính kèm:
- thuc_nghiem_trong_toan_hoc_va_quan_diem_thuc_nghiem_trong_gi.pdf