Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam

Tóm tắt

Thuật ngữ “tròn vành rõ chữ” từ lâu đã trở thành tiêu chuẩn, yêu cầu, quan niệm, không những đối với

ca hát cổ truyền dân tộc mà cả nghệ thuật “hát Mới”- hát bằng tiếng Việt với kỹ thuật thanh nhạc

phương Tây (chủ yếu kỹ thuật hát Bel Canto). Việc kết hợp kỹ thuật hát Bel Canto vào tác phẩm thanh

nhạc Việt Nam, đặc biệt là Opera Việt Nam sao cho vừa có thể có được âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn

giữ được bản sắc dân tộc của tiếng Việt là một vấn đề không dễ dàng. Người làm công tác giảng dạy

thanh nhạc hay người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu đều phải nghiên cứu, nắm rõ các vấn đề xử lý âm

tiết, nguyên âm, phụ âm, thanh điệu tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới của dân tộc. Tất cả những vấn

đề này đều cần được ứng dụng tốt trong quá trình giảng dạy, dàn dựng và biểu diễn trong ca hát và vẫn

đang được các học giả, các nhà chuyên môn tiếp tục quan tâm, nghiên cứu.

Từ khóa: tròn vành rõ chữ, Opera Việt Nam, trích đoạn, tiếng Việt, kỹ thuật thanh nhạc phương Tây,

biểu diễn.

Abstract

The musical term “full and clear singing” has been long used to describe the standard and the concept

not only for folk music but also for “the new singing concept”, i.e. singing in Vietnamese by using

Western vocal music techniques (mainly known as Bel Canto). It is not easy to apply Bel Canto

techniques in Vietnamese music works, especially Vietnam’s Opera, while retaining its traditional core

values. Vocal teachers or performers have to study and master the Vietnamese syllables, vowels,

consonants, rhythm and intonation in “the new singing concept” techniques. Those issues need to

receive good application and adaptation in teaching, directing and performance from music researchers,

authors and gurus.

Keywords: full and clear singing, Vietnam’s Opera, performance, Vietnamese language, Western vocal

music techniques.

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 1

Trang 1

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 2

Trang 2

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 3

Trang 3

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 4

Trang 4

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 5

Trang 5

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 6

Trang 6

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 7

Trang 7

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 9460
Bạn đang xem tài liệu "Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam

Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 
 Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca 
 giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam 
 “Full and clear singing concept” for Soprano performances in Vietnam’s Opera 
 ThS. Nguyễn Khánh Trang, 
 Nhạc viện TP.HCM 
 Nguyen Khanh Trang, M.A., 
 Ho Chi Minh City Conservatoire 
Tóm tắt 
Thuật ngữ “tròn vành rõ chữ” từ lâu đã trở thành tiêu chuẩn, yêu cầu, quan niệm, không những đối với 
ca hát cổ truyền dân tộc mà cả nghệ thuật “hát Mới”- hát bằng tiếng Việt với kỹ thuật thanh nhạc 
phương Tây (chủ yếu kỹ thuật hát Bel Canto). Việc kết hợp kỹ thuật hát Bel Canto vào tác phẩm thanh 
nhạc Việt Nam, đặc biệt là Opera Việt Nam sao cho vừa có thể có được âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn 
giữ được bản sắc dân tộc của tiếng Việt là một vấn đề không dễ dàng. Người làm công tác giảng dạy 
thanh nhạc hay người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu đều phải nghiên cứu, nắm rõ các vấn đề xử lý âm 
tiết, nguyên âm, phụ âm, thanh điệu tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới của dân tộc. Tất cả những vấn 
đề này đều cần được ứng dụng tốt trong quá trình giảng dạy, dàn dựng và biểu diễn trong ca hát và vẫn 
đang được các học giả, các nhà chuyên môn tiếp tục quan tâm, nghiên cứu. 
Từ khóa: tròn vành rõ chữ, Opera Việt Nam, trích đoạn, tiếng Việt, kỹ thuật thanh nhạc phương Tây, 
biểu diễn. 
Abstract 
The musical term “full and clear singing” has been long used to describe the standard and the concept 
not only for folk music but also for “the new singing concept”, i.e. singing in Vietnamese by using 
Western vocal music techniques (mainly known as Bel Canto). It is not easy to apply Bel Canto 
techniques in Vietnamese music works, especially Vietnam’s Opera, while retaining its traditional core 
values. Vocal teachers or performers have to study and master the Vietnamese syllables, vowels, 
consonants, rhythm and intonation in “the new singing concept” techniques. Those issues need to 
receive good application and adaptation in teaching, directing and performance from music researchers, 
authors and gurus. 
Keywords: full and clear singing, Vietnam’s Opera, performance, Vietnamese language, Western vocal 
music techniques. 
 1. Đặt vấn đề nước ta từ giữa thế kỷ XX khi các trường 
 Nghệ thuật ca hát với “kỹ thuật hát âm nhạc chuyên nghiệp ra đời (trường Âm 
đẹp” của nền âm nhạc kinh viện Châu Âu nhạc Việt Nam, trường Quốc gia Âm nhạc 
(Bel Canto - hay còn gọi là “nghệ thuật hát Sài gòn năm 1956). Nền Tân nhạc Việt 
Mới”) đã du nhập và trở thành thịnh hành ở Nam đã hết sức chủ động đưa “Nghệ thuật 
 123 
THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 
hát Mới” xâm nhập vào nghệ thuật ca hát bài báo khoa học khẳng định về sự tất yếu, 
Việt Nam khi Đảng và Nhà nước gửi nhiều tầm quan trọng của sự “tròn vành, rõ chữ" 
nhạc sĩ, ca sĩ du học ở các nước Xã Hội trong ca hát bằng tiếng Việt của rất nhiều 
Chủ Nghĩa, khi các chuyên gia thanh nhạc tác giả, tiến sĩ, giáo sư... thuộc các lĩnh vực 
Nga (Liên Xô cũ), Triều Tiên... sang Việt ngôn ngữ học, âm nhạc học: “Sự tròn vành 
Nam tập huấn, dàn dựng các vở Opera như: rõ chữ của tiếng hát dân tộc” của tác giả 
“Evgeni Onegin” của Tchaikovsky, “Núi Vĩnh Long đã nhấn mạnh sự rõ lời là thuộc 
rừng lên tiếng” của Triều Tiên... cho các tính tất yếu của nghệ thuật ca hát, cần phải 
nghệ sĩ, diễn viên Việt Nam hát bằng tiếng nắm vững cấu âm tiếng Việt để bảo đảm sự 
Việt. Cũng từ những khởi đầu này, những rõ lời của giọng hát [11, tr.26 ]; Công trình 
năm tiếp theo là sự ra đời, dàn dựng và ngữ âm học Việt Nam về “Những vấn đề 
biểu diễn một số vở Opera Việt Nam mà liên quan đến thanh nhạc” của tác giả Văn 
vở đầu tiên đã gây được tiếng vang lớn đó Cẩn; “Sách học thanh nhạc” của tác giải 
là vở “Cô Sao” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Có Mai Khanh; "Phương pháp sư phạm thanh 
thể kể đến những gương mặt nghệ sĩ, giảng nhạc” của tác giả Nguyễn Trung Kiên; 
viên thuộc thế hệ đầu tiên như: Quốc “Thanh điệu tiếng Việt và âm nhạc cổ 
Hương, Mai Khanh, Trần Thụ, Ngọc Dậu, truyền” của tác giả Hoàng Kiều; “Phương 
Trần Hiếu, Kim Ngọc, Trung Kiên, Quốc pháp dạy thanh nhạc” của tác giả Hồ Mộ 
trụ v.v... những người đã xây dựng, phát La; “Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong 
triển với nhiều sáng tạo trong nghệ thuật nghệ thuật ca hát” của tác giả Trần Ngọc 
hát Bel Canto không chỉ đóng góp xây Lan; “Phát âm tiếng Việt trong nghệ thuật 
dựng nên sân khấu Opera Việt Nam mà ca hát” của tác giả Võ Văn Lý; “Xử lý 
còn có những đóng góp xuất sắc cho nền ngôn ngữ vùng miền trong đào tạo thanh 
âm nhạc cách mạng trong các lĩnh vực đào nhạc...” của tác giả Trương Ngọc Thắng 
tạo và biểu diễn. v.v... 
 Bên cạnh đó, cũng không ít những “Tròn vành, rõ chữ” tiếng Việt trong 
giọng hát được đào tạo bài bản, chính quy thể hiện các tác phẩm thanh nhạc Việt mà 
ở trong nước cũng như ở nước ngoài nhưng vẫn sử dụng tốt “kỹ thuật hát đẹp” của nền 
khi thể hiện tác phẩm bằng tiếng  ... “Tròn với sở thích, giọng hát, khả năng của mình 
vành rõ chữ”... quả là một điều không dễ (thính phòng cổ điển, dân gian, nhạc 
dàng. Có hai vấn đề lớn nảy sinh là: (1) nhẹ,...) còn cần phải tìm hiểu đặc điểm, 
Thể hiện âm nhạc với kỹ thuật hát đẹp Bel cấu trúc, nắm vững những kiến thức cơ bản 
Canto và (2) thể hiện hình tượng âm nhạc chuyển động đóng âm, mở âm của ngôn 
thông qua ngôn ngữ tiếng Việt với nhiều ngữ tiếng Việt" [7, tr.110]. PGS. TS. Trần 
đặc điểm riêng. Nghệ thuật hát cổ điển Ngọc Lan cũng đã đưa ra những phần 
châu Âu và thế giới là lối hát Bel canto, với luyện tập, một số giải pháp, bài tập nâng 
kỹ thuật “hát mở” âm, tạo độ vang lớn, âm cao chất lượng hát tiếng Việt vừa có tính lý 
thanh nghe sáng đẹp, trong chuyên ngành thuyết vừa có tính thực hành và ứng dụng 
thanh nhạc hay gọi là "lối hát mở", phù hợp như: luyện tập nguyên âm, luyện tập phụ 
với ngôn ngữ đơn thanh đa âm tiết như âm đầu kết hợp với vần đóng, luyện tập 
tiếng Pháp, Anh, Nga, Đức, đặt biệt là một số làn điệu trong nghệ thuật ca hát 
tiếng Ý (ngôn ngữ của âm nhạc)... trong truyền thống ứng dụng vào nghệ thuật hát 
khi đó tiếng Việt lại là ngôn ngữ đơn âm, mới... [7, tr.75-109]. Đây là một tài liệu 
đa thanh, có dấu giọng, nhiều âm đóng hơn quý rất tốt cho những người làm công tác 
âm mở, phù hợp với “lối hát đóng” (hát sư phạm thanh nhạc, biểu diễn và nghiên 
khép) hơn. Việc kết hợp kỹ thuật hát Bel cứu chuyên ngành thanh nhạc. Đối với 
Canto vào các tác phẩm thanh nhạc Việt người nghệ sĩ biểu diễn, nhất là những 
Nam, đặc biệt là trong Opera Việt Nam sao nghệ sĩ của dòng nhạc thính phòng cổ điển, 
cho vừa có thể có được âm thanh đạt yêu hát bằng tiếng Việt với kỹ thuật Bel Canto 
cầu mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc của thì xử lý tác phẩm, xử lý phát âm tiếng 
tiếng Việt là một “vấn đề” cần nghiên cứu. Việt sao cho được “tròn vành rõ chữ”, 
Để người nghe cảm thấy không bị “cưỡng không bị “cưỡng âm”, chuyển tải được nội 
âm”, âm thanh không bị biến dạng, từ ngữ dung, cảm xúc của tác phẩm đến người 
không bị sai nghĩa, không làm giảm đi chất nghe là điều rất quan trọng. Những khó 
lượng nghệ thuật của tác phẩm thanh nhạc, khăn thường bắt đầu từ hai nguyên do: yếu 
bảo đảm chuẩn mực “tròn vành rõ chữ”... tố chủ quan và khách quan. 
đòi hỏi người hát ngoài việc được trang bị 2.1. Yếu tố chủ quan 
những kỹ thuật hát cần thiết, âm thanh ổn Do người hát quá chú trọng đến kỹ 
định, một cột hơi vững chắc..v.v, cần phải thuật thanh nhạc, vận dụng lối hát cộng 
nắm vững kiến thức cơ bản về cấu trúc âm minh. 
thanh tiếng Việt, những chuyển động về để khuếch đại âm thanh, mở rộng tầm 
 125 
THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 
cữ, âm thanh phát ra nghe “tròn vành” Ví dụ: Trong Aria của Sao tiết mục 2 
nhưng không rõ lời, rõ chữ. màn1, vở "Cô Sao" (tác giả Đỗ Nhuận) 
 Trong tác phẩm này, người hát phải truyền thống). Hoặc người hát có thể hát 
lưu ý ở câu hát nói: “Không, không....ta rất tốt khi hát, biểu diễn tác phẩm thanh 
không phải là ma..” Chúng tôi đã làm một nhạc nước ngoài nhưng hát không hay 
cuộc khảo sát nhỏ ngay tại lớp thanh nhạc hoặc không thích hát ca khúc tiếng Việt”. 
có khoảng hơn 10 sinh viên đại học và [7, tr.13]. Chúng tôi muốn nhấn mạnh 
trung cấp, khi cho các em nghe đoạn hát rằng: ở đây không có một cái khung chuẩn 
này do một vài nghệ sĩ thể hiện.. thì hầu nào, hay một phương pháp biểu hiện nào 
hết các em ghi nhận kết quả nghe được là: để đạt được kết quả tuyệt đối cả, mà nó 
“Không, không... đó không phải là hoàn toàn được rút ra qua kinh nghiệm, trải 
mơ....”, nguyên âm A bị nghiêng nhiều về nghiệm, kỹ năng, cảm nhận... của riêng 
O (và cả Ô, Ơ nữa). Như vậy, từ “TA” mỗi người nghệ sĩ trong quá trình ca hát, 
ĐÓ, và từ “MA” MƠ. Điều đó chứng tỏ biểu diễn trên sân khấu, và sự cân đối giữa 
các nghệ sĩ hát rất chú trọng đến vị trí âm kỹ thuật hát cổ điển, nghệ thuật diễn viên 
thanh, độ vang, độ mở của âm thanh nhưng (tính kịch trên sân khấu), nghệ thuật phát 
chưa chú ý nhiều đến nghệ thuật phát âm, âm (tiếng Việt)... của mỗi người đến người 
nhả chữ tiếng Việt sao cho “tròn vành rõ nghe mà thôi . 
chữ” để người nghe nhận biết được hiểu 2.2. Yếu tố khách quan 
được ngữ nghĩa của câu hát. PGS. TS. Trần + Do những đặc điểm riêng của tiếng 
Ngọc Lan nhận định: “Nghệ thuật Bel Việt (âm đóng, âm khép nhiều, có nhiều 
Canto - nghệ thuật hát Mới, nếu vận dụng âm mũi v.v...), cấu âm của tiếng Việt (âm 
một cách máy móc, thiếu sáng tạo vào hát đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối, dấu 
tiếng Việt sẽ có âm thanh mà không rõ lời, giọng v.v...) trong khi phải kết hợp với lối 
mở rộng âm vang và tầm cữ giọng nhưng hát “Mở” của kỹ thuật Bel Canto sẽ tạo nên 
quá trình đóng, mở, kết thúc từ không giữ những hạn chế. 
được yếu tố cơ bản của tiếng Việt, nghe Điển hình qua Aria chính của nhân vật 
không rõ lời, giống người nước ngoài hát Sao “Em nghĩ sao không ra..”, trích opera 
tiếng Việt (trai với tai nghe, thẩm mỹ “Cô Sao”, (tác giả Đỗ Nhuận). 
 126 
 NGUYỄN KHÁNH TRANG 
 Đây là Aria hay và khó nhất của vở được lời”. Chúng tôi rất tâm đắc vấn đề 
Opera này. Có những chỗ nhảy quãng này bởi như vậy mới có được một tác phẩm 
nghịch rất khó hát, âm đóng "biết" hát hoàn thiện từ người sáng tác, người biểu 
luyến nhanh ở nốt La (quãng tám thứ 2) diễn đến người nghe.Đây cũng chính là 
nhả chữ cẩn thận nếu không, từ “BIẾT” sẽ sáng tạo của các nhạc sĩ Việt Nam trong 
trở thành “BIẾN”. Nhiều chỗ hát với việc viết Opera theo xu hướng dân tộc hoá 
sắc thái to, nhỏ, nhiều nốt ngân dài, đòi hỏi [13, tr.127]. Và đây cũng chính là đặc điểm 
người nghệ sĩ phải có một cột hơi vững quan trọng của các giọng hát, nhất là giọng 
chắc, âm thanh phải ổn định, biết tiết chế nữ cao trong các vở Opera Việt Nam. 
cảm xúc, biết xử lý ngôn ngữ nhất là ở Người hát muốn hát chuẩn “tròn vành 
những chỗ có nốt cao, ngân dài và hát với rõ chữ” trước hết phải nói chuẩn vì nói 
âm đóng. Có như vậy mới chuyển tải được chuẩn sẽ giúp hát chuẩn và để hát chuẩn, 
tác phẩm đến người nghe như một lời tự hát “tròn vành rõ chữ” người hát cần luyện 
tình sâu sắc với nhiều khắc khoải trong nói tiếng Việt ngay trong tác phẩm mình 
lòng với giai điệu đẹp, nhẹ nhàng, đôi lúc muốn thể hiện trước, phát âm đúng qui luật 
trào dâng nghẹn ngào, thể hiện nhiều màu chuyển động, phối hợp các nguyên âm, phụ 
sắc cảm xúc của tình yêu. âm, âm đóng, âm mở, các dấu giọng... Sau 
 + Do người sáng tác tác phẩm cho đó, kết hợp lời hát vào giai điệu của tác 
thanh nhạc chưa quan tâm đến những đặc phẩm, người hát cần nghiên cứu cách luyện 
trưng cơ bản của tiến trình đóng âm, mở thanh kết hợp những mẫu âm với nguyên 
âm, cấu trúc âm, cũng như một số đặc điểm âm, phụ âm, dấu giọng của tiếng Việt [7, 
khác của tiếng Việt mà chỉ quan tâm đến tr.75-114], nếu có những chỗ vẫn chưa rõ 
nội dung, cảm xúc âm nhạc. Người hát khi lời được (do tác phẩm có giai điệu cưỡng 
thể hiện phải có những kinh nghiệm, trải âm, khó hát) trừ trường hợp nội dung, tính 
nghiệm của bản thân cũng như kinh cách nhân vật yêu cầu thể hiện (như đối với 
nghiệm của những người đi trước đúc kết nhân vật là người thuộc dân tộc thiểu số - 
được từ thực tiễn để xử lý, khắc phục cần thể hiện giọng nói - cách nói tiếng Việt 
những nhược điểm của ca từ, thể hiện được “lơ lớ”) thì người hát buộc phải xử lý 
âm nhạc với những ràng buộc của phát âm bằng cách thêm vào nốt hoa mỹ, nốt luyến 
tiếng Việt nhằm chuyển tải được cảm xúc, ngay phía trước nốt để làm rõ dấu giọng. 
nội dung tác phẩm đến người nghe một Có thể luyến lên hoặc luyến xuống để làm 
cách rõ ràng. Điều này đòi hỏi người hát rõ dấu giọng cũng như cân đối được độ 
cũng cần có thêm kiến thức về văn học và ngân, độ ngắt sao cho phù hợp tương đối 
người sáng tác cũng cần có kiến thức về ca nhất là với những từ kết bằng âm đóng mà 
hát. Theo tác giả Hoàng Kiều: “Ở Trung phải hát ở nốt cao, nốt ngân dài Có 
Quốc, người học sáng tác cho thanh nhạc những trường hợp người hát phải linh động 
phải học cả hát” [7, tr.67]. Trong tổng phổ (bất khả kháng) đổi bằng một từ khác 
vở "Cô Sao" của nhạc sĩ Đỗ Nhuận (bản tương đương, đồng nghĩa, với mục tiêu hát 
chép tay đến nay vẫn còn giữ lại được), ở được rõ lời mà vẫn giữ được ngữ nghĩa của 
trang cuối ông đã viết như sau: “Kỹ thuật lời hát (đòi hỏi người hát có cả kiến thức 
áp dụng nhiều ở phần dàn nhạc, còn thanh cơ bản về âm nhạc và văn học). 
nhạc cố ý làm cho quần chúng dễ nghe Một điển hình như trong Opera 
 127 
THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 
“Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của Nhạc sĩ đề phát âm, nhả chữ, làm rõ tính chất đặc 
Đỗ Nhuận, các trích đoạn thanh nhạc trưng của từng vùng miền được sử dụng 
mang đậm chất âm nhạc cổ truyền như dân trong tác phẩm. 
ca Nam bộ, dân ca Bắc bộ, Chèo, Ca trù, Ví dụ: Bài hát của nhân vật Trúc 
Hát đối đáp Người hát cần nghiên cứu (Nguyễn Thị Lộ), Opera “Nguyễn Trãi ở 
kỹ và ứng dụng kỹ thuật và kinh nghiệm Đông Quan”. Tiết mục số 3 màn 1, được 
xử lý ngôn ngữ của nghệ thuật ca hát viết ở giọng c-moll. Lấy bối cảnh là chợ 
truyền thống vào tác phẩm qua sách hoa ngày Tết giữa cô Trúc và những cô gái 
“Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong khác. Trước khi vào bài hát là hợp xướng 
nghệ thuật ca hát” của PGS. TS. Trần Nữ với âm hưởng vui tươi, rộn ràng trong 
Ngọc Lan, sẽ giúp ích rất nhiều trong vấn giai điệu bài “Tứ Quí” Chèo. 
 Hay trong Aria của Đào Xuân, Opera “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”. Tiết mục số 6 của 
màn 1, đoạn đầu của tác phẩm được viết ở giọng d- moll. 
 - Đây là một Aria rất đặc sắc, pha trộn mác buồn, nhiều chỗ nhịp chẻ (đảo phách), 
và sử dụng nhiều chất liệu trong Âm nhạc tốc độ chậm rãi, lời ca theo thể thơ dân 
Cổ Truyền (dân ca Nam Bộ, dân ca Bắc gian Việt Nam (song thất lục bát), đậm 
Bộ, Ca Trù, hát đối đáp...), giai điệu man chất Oán trong dân ca Nam Bộ. 
 128 
 NGUYỄN KHÁNH TRANG 
 Hay trong Aria “Chờ mong” vai nhảy quãng 8 với nốt cao sol1- sol2 ở ô 
H'Lim, trích Opera “Bên bờ K’rông Pa” nhịp số 3; chú ý phát âm chuẩn từ “rộn rã” 
của nhạc sĩ Nhật Lai. Đây là một Aria trữ (phân biệt rõ sự khác nhau giữa các phụ 
tình, kịch tính rất khó, âm vực rộng. Tác âm: r, gi, d). Có thể nói Aria này rất hay và 
phẩm có nhiều chỗ luyến láy, nhiều biến rất khó hát cho tròn chữ, rõ chữ. 
Âm, nhiều nốt cao ngân dài ở La2, Si2 và 
 3. Kết luận nhạc của nước nhà. Những nhạc sĩ Việt 
 Thuật ngữ "tròn vành rõ chữ" từ lâu đã Nam cũng đã thấm nhuần và phát huy được 
trở thành tiêu chuẩn, yêu cầu, quan niệm những giá trị ấy khi viết nên những vở 
không những đối với ca hát cổ truyền dân Opera Việt Nam. Học tập lối hát Bel Canto 
tộc và cả nghệ thuật ca hát bằng ngôn ngữ của châu Âu nhưng các nhạc sĩ Việt Nam 
tiếng Việt với kỹ thuật thanh nhạc phương vẫn chú trọng sự hài hòa giữa kỹ thuật 
Tây. Các dân tộc trên thế giới có thể học thanh nhạc và phát âm tiếng Việt để sáng 
tập kỹ thuật thanh nhạc, thể hiện âm nhạc tác nên những vở Opera Việt Nam phù hợp 
bằng các loại giọng hát... của nhau nhưng với tai nghe, phù hợp với khả năng hát 
vận dụng để thể hiện bằng các ngôn ngữ Opera bằng tiếng Việt của người Việt 
khác nhau thì không thể hoàn toàn “sơ Nam. Trong các vở Opera Việt Nam, 
cứng”, hoàn toàn giống nhau, bởi, tiếng nói những trích đoạn viết cho thanh nhạc, đặc 
các dân tộc đều có những điểm khác biệt. biệt là những trích đoạn dành cho giọng nữ 
Bảo đảm cho tiếng hát rõ lời cũng là một cao (Soprano) - giọng hát với vai diễn 
biểu hiện cụ thể về tính khoa học của mọi chính trong vở thường được viết với kỹ 
phương pháp ca hát mà mỗi dân tộc trên thuật không quá khó hay quá phức tạp, tốc 
thế giới luôn phải cố gắng, phấn đấu để tạo độ không quá nhanh và âm vực giọng hát 
ra cho mình một phương pháp ca hát riêng. không quá rộng bởi các nhạc sĩ đã chú ý 
Điều quan trọng hơn là chúng ta (cả người đến yếu tố hát rõ lời hơn là vận dụng nhiều 
biểu diễn và người sáng tác) có điều kiện những kỹ thuật quá phức tạp vào giọng hát. 
học hỏi, tiếp thu cái hay cái đẹp về văn Và, chúng tôi đồng quan điểm với những 
hóa, nghệ thuật, tinh hoa âm nhạc thế giới, nghiên cứu, những nhận định của các tác 
cả phương Đông lẫn phương Tây nhưng giả đã nêu trên và cũng đồng quan điểm 
vẫn giữ được bản sắc văn hóa, nghệ thuật, với ý kiến của PGS. TS. Trần Ngọc Lan: 
âm nhạc của dân tộc Việt Nam. Như vậy, “...Yếu tố về ngôn ngữ, xử lý ngôn ngữ 
mới không ngừng làm giàu cho nền âm tiếng Việt trong nghệ thuật hát Bel Canto 
 129 
THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 
cho đến nay vẫn tiếp tục có nhiều vấn đề tộc học - Phương pháp biện chứng trong 
cần quan tâm, tìm hiểu, phân tích và khắc nghiên cứu những truyền thống âm nhạc 
phục. Những vướng mắc cần được tiếp tục ngoài nền âm nhạc cổ điển châu Âu”, Tạp chí 
 Thông Báo Khoa Học, Viện Âm Nhạc, (số 7, 
nghiên cứu, sáng tạo và bổ sung không chỉ 
 tháng 7- 12/2002). 
giới hạn trong phạm vi ngôn ngữ mà cả 
 10. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2015), Giáo trình 
trong quan niệm và thẩm mỹ, tai nghe Phương pháp luận nghiên cứu khoa học dành 
truyền thống về nghệ thuật ca hát” cho Đại học, Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh. 
[7, tr.14]. 11. Vĩnh Long (1976), Sự tròn vành rõ chữ của 
TÀI LIỆU THAM KHẢO tiếng hát dân tộc, Nxb Văn Hóa. 
1. Văn Cẩn (1997), Công trình ngữ âm học Việt 12. Võ Văn Lý (2011), “Phát âm tiếng Việt trong 
 Nam - “Những vấn đề liên quan đến thanh nghệ thuật ca hát”, luận án Tiến Sĩ. 
 nhạc”. 13. Nguyễn Thị Tố Mai (2012), Opera trong sự 
2. Phạm Đình Hổ (2012), Vũ trung tuỳ bút, phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt 
 Nxb Trẻ. Nam, Luận án tiến sĩ - Học viện âm nhạc 
 Hà Nội. 
3. Nguyễn Trung Kiên (2001), “Phương pháp sư 
 phạm thanh nhạc”, Viện Âm Nhạc Hà Nội. 14. Trương Ngọc Thắng (2014), Xử lý ngôn ngữ vùng 
 miền trong đào tạo thanh nhạc khu vực miền 
4. Hoàng Kiều (2001), Thanh điệu tiếng Việt và 
 Trung - Tây Nguyên, Hội Nhạc Sĩ Việt Nam. 
 âm nhạc cổ truyền, Viện Âm Nhạc, Hà Nội. 
 15. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn 
5. Hồ Mộ La (2008), Lịch sử nghệ thuật thanh 
 Vũ (2002), Tự điển văn hoá dân gian, Nxb 
 nhạc phương Tây, Nxb Từ điển Bách Khoa. 
 Văn Hóa. 
6. Hồ Mộ La (2008), Phương pháp dạy thanh 
 * Một số DVD, kịch bản, tổng phổ, trích 
 nhạc, Nxb Từ điển Bách Khoa. 
 đoạn của các vở Opera như: 
7. Trần Ngọc Lan (2011), Phương pháp hát tốt 
 _ “Người giữ Cồn” của nhạc sĩ Ca Lê Thuần; 
 tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát, Nxb Giáo 
 “Cô Sao”, “Người tạc tượng”, “Nguyễn Trãi ở 
 Dục Việt Nam. 
 Đông Quan” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận;”Bên bờ 
8. Vũ Tự Lân (1997), Những ảnh hưởng của âm K rông Pa” của nhạc sĩ Nhật Lai, “Bông Sen” 
 nhạc Châu Âu trong ca khúc Việt Nam giai của nhạc sĩ Hoàng Việt; “Tình yêu của em” 
 đoạn 1930-1950, Nxb Thế Giới. của nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn; “Lá đỏ” của 
9. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2002), “Âm nhạc dân nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân. 
Ngày nhận bài: 17/02/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017 
 130 

File đính kèm:

  • pdfthe_hien_tron_vanh_ro_chu_cac_tiet_muc_don_ca_giong_nu_cao_t.pdf