Thái độ của người dân với hành vi vi phạm luật lệ giao thông: Nghiên cứu trên dữ liệu lớn (big data) facebook tại Việt Nam
Trung bình mỗi năm Việt Nam có khoảng 15.000 người chết vì tai nạn giao
thông (Tuổi trẻ, 2017). Tại các đô thị lớn như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh tình trạng ùn
tắc giao thông diễn ra hàng ngày. An toàn giao thông cũng như các vấn đề của nó được
rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, từ việc quản lý dịch vụ xe ôm (motorbike taxi),
(Tuan & Mateo-Babiano, 2013), xe taxi (La, Lee , & Duong, 2013), tới xe buýt
(Duong, Lee, & Meuleners , 2016) hay hoạt động của cảnh sát giao thông (Hoa, Duc,
Bao, & Huong, 2009). An toàn giao thông là vấn đề mang tính xã hội, được Chính phủ
Việt Nam thừa nhận thông qua việc thành lập Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia, với
Chủ tịch là Phó Thủ tướng. Bỏ qua vấn đề về gia tăng dân số, tốc độ đô thị hoá, cơ sở
hạ tầng hay tốc độ tăng số lượng phương tiện giao thông, có thể thấy Việt Nam chưa
có một chương trình hành động mang tính chất toàn diện trong đó nhấn mạnh các hoạt
động truyền thông nhằm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của người dân.
Do sự phát triển của Internet và mạng xã hội, cả ba điều kiện thành công của
phương tiện truyền thông đại chúng (monoplization, canalization, supplementation) đã
không còn tồn tại (Lazarsfeld & Merton, 1957). Do đó các mục tiêu xã hội của phương
tiện truyền thông đại chúng có nguy cơ không đạt được. Trong khi các chương trình
tuyên truyền về an toàn giao thông ở Việt Nam đang dựa vào một vài phương tiện
truyền thông đại chúng (truyền hình, phát thanh) vốn không có hiệu quả thì từ lâu,
Marketing xã hội (social marketing) đã được cho là một trong những công cụ có giá trị
trong việc thay đổi hành vi của công chúng (Kotler & Zaltman, 1971). Nhưng, trên
phạm vi quốc gia, Việt Nam chưa có một chương trình marketing xã hội thực sự,
“chạm” được vào những suy nghĩ, quan điểm, thái độ của người dân với vấn đề này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ của người dân với hành vi vi phạm luật lệ giao thông: Nghiên cứu trên dữ liệu lớn (big data) facebook tại Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 638 THÁI ĐỘ CỦA NGƢỜI DÂN VỚI HÀNH VI VI PHẠM LUẬT LỆ GIAO THÔNG: NGHIÊN CỨU TRÊN DỮ LIỆU LỚN (BIG DATA) FACEBOOK TẠI VIỆT NAM PGS.TS Vũ Trí Dũng ThS. Lê Phạm Khánh Hoà Khoa Marketing, Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân TÓM TẮT An toàn giao thông là vấn đề xã hội nhức nhối ở các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng. Mối quan hệ thái độ, hành vi là cơ sở tiếp cận cho các nghiên cứu phân tích hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông. Từ kết quả phân tích thái độ của công chúng, nhà quản trị có cơ hội tìm kiếm ý tưởng xây dựng các chiến lược marketing xã hội hiệu quả. Kết phân tích dữ liệu lớn trên mạng xã hội Facebook tại Việt Nam cho thấy: các lỗi mang tính sơ suất là những lỗi vi phạm phổ biến nhất, người vi phạm có xu hướng đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan của việc vi phạm. Tiếp cận marketing xã hội theo hướng tạo ra các chuẩn mực xã hội có cơ hội làm giảm các hành vi vi phạm khách quan. Từ khoá: an toàn giao thông, dữ liệu lớn, thái độ 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trung bình mỗi năm Việt Nam có khoảng 15.000 người chết vì tai nạn giao thông (Tuổi trẻ, 2017). Tại các đô thị lớn như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra hàng ngày. An toàn giao thông cũng như các vấn đề của nó được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, từ việc quản lý dịch vụ xe ôm (motorbike taxi), (Tuan & Mateo-Babiano, 2013), xe taxi (La, Lee , & Duong, 2013), tới xe buýt (Duong, Lee, & Meuleners , 2016) hay hoạt động của cảnh sát giao thông (Hoa, Duc, Bao, & Huong, 2009). An toàn giao thông là vấn đề mang tính xã hội, được Chính phủ Việt Nam thừa nhận thông qua việc thành lập Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia, với Chủ tịch là Phó Thủ tướng. Bỏ qua vấn đề về gia tăng dân số, tốc độ đô thị hoá, cơ sở hạ tầng hay tốc độ tăng số lượng phương tiện giao thông, có thể thấy Việt Nam chưa có một chương trình hành động mang tính chất toàn diện trong đó nhấn mạnh các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của người dân. Do sự phát triển của Internet và mạng xã hội, cả ba điều kiện thành công của phương tiện truyền thông đại chúng (monoplization, canalization, supplementation) đã không còn tồn tại (Lazarsfeld & Merton, 1957). Do đó các mục tiêu xã hội của phương tiện truyền thông đại chúng có nguy cơ không đạt được. Trong khi các chương trình tuyên truyền về an toàn giao thông ở Việt Nam đang dựa vào một vài phương tiện truyền thông đại chúng (truyền hình, phát thanh) vốn không có hiệu quả thì từ lâu, Marketing xã hội (social marketing) đã được cho là một trong những công cụ có giá trị trong việc thay đổi hành vi của công chúng (Kotler & Zaltman, 1971). Nhưng, trên phạm vi quốc gia, Việt Nam chưa có một chương trình marketing xã hội thực sự, “chạm” được vào những suy nghĩ, quan điểm, thái độ của người dân với vấn đề này. Người tiêu dùng trẻ ở Việt Nam, những người ra đường nhiều nhất đã thay đổi quan điểm, thái độ với hoạt động tiêu dùng nói riêng với quan niệm bản thân nói chung. Họ có xu hướng coi tiêu dùng như một phương thức để nhận biết bản thân, loại trừ những biện pháp kiểm soát của chính phủ, xã hội hoá bản thân theo cách đó họ cũng đang loại bỏ dần phong cách sống và bản diện của những người cộng sản mà chính phủ Việt Nam đang ra sức tuyên truyền (Nguyen, Ozcaglar-Toulouse, & Kjeldgaard, 2017). Nếu không hiểu rõ hơn quan điểm của những người trẻ tuổi với các TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 639 vấn đề xã hội như an toàn giao thông, người quản lý sẽ khó có thể có được những ý tưởng tốt cho các chương trình truyền thông. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT Tâm lý học giao thông [tạm dịch từ thuật ngữ: traffic psychology], một nhánh của tâm lý ứng dụng - “nghiên cứu hành vi người sử dụng đường bộ (road user) và các quá trình tâm lý ẩn dưới hành vi đó” luôn nỗ lực xác định các yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hành vi người sử dụng đường bộ nhằm tìm kiếm các giải pháp hiệu quả chống tai nạn giao thông (Rothengatter, 1997). Có nhiều mô hình khác nhau gợi ý việc giải thích hành vi của người sử dụng đường bộ: phân tích nhiệm vụ người lái xe, kiểm soát chức năng, động cơ (Rothengatter, 1997). Đáng lưu ý là việc phân tích mối liên hệ giữa lỗi/sơ suất (error) và vi phạm (violation) trong hành vi giao thông. Theo đó, các lỗi dù nhỏ cũng có thể được cho là một trong những nguyên nhân dự đoán các hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông nghiêm trọng hơn (Rothengatter, 1997). Rothengatter (1997) qua tổng hợp các công trình nghiên cứu có trước cũng cho rằng, lý thuyết hành vi hợp lý của Ajen và Fishbein phù hợp hơn trong việc nghiên cứu các hành vi vi phạm giao thông. Tuy nhiên, việc làm rõ ranh giới và phân tích cụ thể nguyên nhân của hai khía cạnh này tiềm năng giúp giải thích cụ thể hơn cơ chế tâm lý – hành vi của việc vi phạm. Mặc dù còn nhiều tranh cãi, mối quan hệ giữa thái độ (attitude) với hành vi (behavior) đã được thừa nhận như một trong những cách tiếp cận tâ ... Cách tiếp cận này cũng được thừa nhận trên cơ sở cho rằng cảm xúc tích cực có thể giúp làm giảm lỗi/sơ suất cũng như vi phạm luật giao thông (Lawton & Parker, 1997). Trong bối cảnh Việt Nam, rất nhiều tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa thái độ với hành vi vi phạm luật giao thông. Kết quả nghiên cứu chỉ ra những điểm thú vị về thái độ của người Việt Nam. Khuat & Le, (2011) cho rằng, người tham gia giao thông ở Việt Nam có xu hướng lặp lại các hành vi vi phạm giao thông. Thậm chí, họ cho rằng vi phạm giao thông là một hành vi phổ biến, “nếu không vi phạm, người khác cũng vi phạm”, họ có thể hiểu và tha thứ cho các hành vi vi phạm giao thông. Theo lý thuyết Hành vi hợp lý, chuẩn mực xã hội (social norm) là một trong những yếu tố giải thích cho việc vi phạm luật lệ giao thông – người vi phạm cho rằng: họ cũng “bình thường” như những người khác (Duong, Brennan, Parker, & Florian, 2015). Mặc dù uống rượu là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tai nạn giao thông, tuy nhiên việc uống rượu được chấp nhận/tha thứ ở khu vực nông thôn, do đặc tính văn hoá xã hội ở Việt Nam (Bachani , và những tác giả khác, 2013). Thái độ đối với các kiểu di chuyển cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn phương tiện và cách thức giao thông của người dân (Van & Fuji, 2007) Thái độ của công chúng (public attitude) được coi là một trong những yếu tố giúp xây dựng chính sách nói chung, chính sách trong giao thông nói riêng (Chen, Chang, & Tzeng, 2002). Thậm chí có giá trị rất lớn trong việc sáng tạo các chiến lược truyền thông. Thái độ của công chúng có thể tạo ra ảnh hưởng xã hội rộng lớn trên cơ sở thiết lập thói quen hoặc các chuẩn mực xã hội. Trong khi các nghiên cứu về thái độ của người dân với an toàn giao thông thường đòi hỏi thực hiện ở quy mô mẫu lớn thì đa số các nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu này do những hạn chế nhất định về điều kiện nghiên cứu. Trong bối cảnh phát triển của cơ sở hạ tầng Internet, người trẻ Việt Nam sử dụng mạng xã hội Facebook ngày càng nhiều TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 640 hơn, một cơ chế thu thập thông tin phản hồi, những thảo luận, những vấn đề mà họ nói trên Internet, mạng xã hội trên quy mô lớn có khả năng giúp làm rõ và phân tích thái độ của họ. Thái độ, một thành phần trong mô hình Hành vi hợp lý của Ajen và Fishbein được cho là một trong những căn cứ lý thuyết quan trọng giúp nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề vi phạm an toàn giao thông. Không nằm ngoài xu hướng này, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã khai thác khái niệm thái độ và đưa ra nhiều kết quả đáng chú ý, trong đó, chuẩn mực xã hội được cho là một trong những nguyên nhân dự báo hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông. Mặc dù việc tách biệt giữa các lỗi/sơ suất với hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông có những ranh giới nhất định về mặt tâm lý nhưng chưa nhiều nhà nghiên cứu khai thác và phân biệt hai khía cạnh này của hành vi vi phạm. 3. PHƢƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chúng tôi cho rằng thái độ của công chúng có tiềm năng giúp giải đáp một số khía cạnh của hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông nếu được thu thập trên quy mô rộng, đúng đối tượng và có giá trị. Thông qua dịch vụ lắng nghe trên mạng xã hội (social listening) của DataSection Việt Nam (DSV), chúng tôi thu thập được 551.442 bài viết trên mạng xã hội Facebook, 24.656 bài viết trên các diễn đàn trực tuyến (forum), 58.323 tin tức về vấn đề an toàn giao thông xuất hiện từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 đến ngày 1 tháng 7 năm 2017. Dữ liệu thu về được gắn các nhãn biểu hiện và tiến hành phân tích nội dung. Chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên bằng phần mềm 3.000 bài viết để tiến hành đọc và đưa ra một số kết quả nghiên cứu sau: Bảng 1: Các lỗi vi phạm đƣợc đề cập nhiều nhất trên mạng xã hội Các lỗi vi phạm ATGT Số bài viết đề cập Tỷ lệ % Sai làn 81 22.6% Vượt quá tốc độ quy định 75 20.9% Lỗi không xi nhan 51 14.2% Vượt đèn đỏ 45 12.6% Vượt đèn vàng 41 11.5% Đè vạch/ không tuân thủ vạch kẻ đường 40 11.2% Đi ngược chiều 17 4.7% Không đội mũ bảo hiểm 15 4.2% (**) Nguồn: DataSection Việt Nam (**) Trên social media còn những lỗi vi phạm khác với số bài đề cập nhỏ hơn, bao gồm: không mang giấy tờ xe (11 bài), uống rượu bia khi tham gia giao thông (11 bài), TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 641 dừng xe sai quy định (3 bài), không bằng lái xe (3 bài), không bật đèn chiếu ( 3 bài), đeo tai nghe khi tham gia giao thông (2 bài), xe không gương (2 bài), bảo hiểm hết hạn (1 bài), chưa đủ tuổi lái xe (1 bài), dàn hàng ngang (1 bài), đèn sang quá mức quy định (1 bài), dừng đèn xanh (1 bài), kẹp 3 (1 bài), sử dụng điện thoại khi đang lái xe (1 bài), vượt phải (1 bài), chống đối người thi hành công vị (1 bài) Từ 3000 bài lựa chọn ngẫu nhiên, chúng tôi tìm được 358 bài viết có chứa thông tin. Kết quả nghiên cứu cho thấy các lỗi/sơ suất xuất hiện với tỷ trọng rất cao, đó là các lỗi: sai làn, quá tốc độ, không xi nhan, đè vạch. Trong khi các vi phạm mang tính chất cố ý lại ít xuất hiện hơn: vượt đèn đỏ, đèn vàng, đi ngược chiều, không đội mũ bảo hiểm. Những lỗi vi phạm này xuất hiện kèm những mô tả cho thấy sơ suất của người mắc lỗi: “Em bị một phát ở Kép (Bắc Giang) trước khi vào cầu. Qua cầu thấy gậy "cạp nong" vẫy vào, tưởng lỗi vượt xe trên cầu hóa ra lỗi vượt quá tốc độ” Nguồn:https://www.otofun.net/threads/canh-sat-giao-thong-ban-toc-do-o-dau- xe-hay-duoi-xe-nhi.1126101/page-2#post-32257335 “e đi 2 bánh chạy từ thịnh yên ra phố huế. nhưng địa chỉ e cần tìm lại là ở bên trái đường. mắt e thì mù dở, đi bên làn xe máy ko thể nào nhìn được số nhà. bắt buộc e phải đi sát vỉa hè bên trái bật xi nhan rẽ trái để cảnh báo. & cuối cùng e bị 141 xích vì tội đi sai làn” Nguồn:https://www.facebook.com/540079849426435/posts/101160760894031 “mình đi xe máy rẽ phải không xi nhan. bọn nó đòi 5 trăm. mình sợ quá nhờ vả xin xỏ mãi xuống còn 1 trăm. về nhà mọi người nói mới biết mình bị lòe. mà hôm ấy mình thấy ai dừng lại cũng bị hô phạt 5 trăm” Nguồn:https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=10154385130961 634&id=145788456633&comment_id=10154389610066634 Trong số các lỗi vi phạm giao thông, chúng tôi tìm các lỗi mà người vi phạm hỏi cũng như bình luận nhiều nhất. Bảng 2: Các lỗi vi phạm giao thông phổ biến đƣợc đề cập trên mạng xã hội Các lỗi vi phạm Số bài viết đề cập Tỷ lệ % Sai làn 13 32.5% Đè vạch/ không tuân thủ vạch kẻ đường 9 22.5% Vượt đèn vàng 7 17.5% Vượt đèn đỏ 7 17.5% Không xi nhan 5 12.5% Vượt quá tốc độ quy định 3 7.5% Đi vào đường cấm 2 5.0% Vượt bên phải 2 5.0% Không mang giấy tờ 1 2.5% Tổng số 49 100% Nguồn: DataSection Việt Nam TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 642 Trong số các lỗi vi phạm được hỏi nhiều trên mạng xã hội, lỗi sai làn là một trong những lỗi sai phổ biến nhất (32.5%). Khi xem xét kỹ hơn về những nội dung của các bình luận của người sử dụng Facebook có thể thấy nguyên nhân chủ yếu nằm ở kiến thức của người vi phạm với luật an toàn giao thông: “em lính mới xin các cụ chỉ bảo. . e đi từ đường nvl rẽ vào c. rao2 có đi vào làn trong. các bạn xxx bắt e lập bb lỗi đi sai làn đường. . cccm cho e hỏi e bị lỗi như vậy có đúng k? . nếu có thể khiếu nạn cccm thông não giúp e! . e xin cảm ơn!” Nguồn:https://www.facebook.com/540079849426435/posts/906016056 166144 “cho e hỏi đường có 2 vạch kẻ liền e vượt lên thì lỗi của e là đè vạch hay đi sai làn đường ạ. vượt sang hẳn làn bên kia ý ạ” Nguồn:https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1113336782100 736&id=540079849426435&comment_id=1113471272087287 “các bác cho e hỏi chút . vượt đèn vàng bị xxx bắt thì mình cãi như nào và theo nd nào vượt ko bị bắt , e thấy báo chí viết vượt đèn vàng bị phạt mà. cảm ơn các bác nhiều” Nguồn:https://www.facebook.com/540079849426435/posts/947165998 717816 Chúng tôi tiếp tục tìm kiếm các biểu hiện về nguyên nhân của các lỗi vi phạm thông qua việc đọc và phân tích nội dung của các bài viết. Kết quả cho thấy: Bảng 3: Nguyên nhân vi phạm luật lệ an toàn giao thông Nguyên nhân vi phạm Số bài viết đề cập Tỷ lệ % Do chưa nắm rõ luật 61 48.0% Do không tuân thủ luật 31 24.4% Do không chú ý/ sơ ý 19 15.0% Do xui xẻo 10 7.9% Do khuất tầm nhìn 3 2.4% Do tránh xe cứu thương/ xe khác 3 2.4% Do cảnh sát phạt sai 2 1.6% Do đường đông 2 1.6% (**) Nguồn: DataSection Việt Nam (**) Ngoài ra, còn có những lý do khác như: Do chưa có kinh nghiệm lái xe (1 bài), do thời tiết xấu (1 bài), Do tín hiệu giao thông khó nhìn (1 bài), Do vạch kẻ đường khó nhìn (1 bài), do xe hỏng (1 bài) Như kết quả nghiên cứu chỉ ra, kiến thức của người dân về luật lệ an toàn giao thông được cho là nguyên nhân chính dẫn tới những lỗi hay vi phạm. Những người vi phạm cho rằng họ chưa nắm rõ luật (48%), không cố ý vi phạm (15%), việc vi phạm bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan như khuất TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 643 tầm nhìn, tránh xe khác, đường đông... tỷ trọng số người thừa nhận việc cố ý không tuân thủ luật chiếm 24.4%. Từ kết quả phân tích dữ liệu có thể thấy một số điểm đáng lưu ý sau: - Các lỗi/sơ suất chiếm tỷ trọng cao trong số những vi phạm của người dân, nhiều nhất là lỗi “sai làn”. - Người vi phạm luật lệ giao thông đổ lỗi cho các nguyên nhân khách quan nhiều hơn các nguyên nhân mang tính chủ quan - Thái độ của công chúng với cảnh sát giao thông và những người xử lý vi phạm thường là tiêu cực, họ được gọi bằng những từ lóng mang nghĩa tiêu cực - Kiến thức về luật lệ giao thông là nguyên nhân chính dẫn tới những vi phạm luật lệ giao thông. 4. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG HÀM Ý QUẢN TRỊ Nghiên cứu của chúng tôi thừa nhận và củng cố cách tiếp cận thái độ, hành vi. Chúng tôi cho rằng thái độ là cách tiếp cận phù hợp trong việc nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân tâm lý đối với hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông. Kết quả nghiên cứu thái độ người dùng Facebook Việt Nam cho thấy kiến thức về luật lệ an toàn giao thông là nguyên nhân chính dẫn tới các vi phạm. Người vi phạm luật lệ giao thông đổ lỗi cho các nguyên nhân khách quan và cho rằng chúng là những sơ suất cho dù nhiều loại lỗi trong số đó là lỗi cố ý. An toàn giao thông là vấn đề mang tính xã hội, nó đòi hỏi được giải quyết bằng những cách tiếp cận sáng tạo trong bối cảnh mới. Marketing xã hội là một trong số những cách tiếp cận phù hợp. Khi tiếp cận theo hướng marketing xã hội, nhà quản trị cần lưu ý động cơ thúc đẩy hành vi và những rào cản với hành vi. Với những lỗi mang tính sơ suất, khách quan, một cơ chế trừng phạt mang tính chất xã hội, hay các chuẩn mực xã hội có tiềm năng hạn chế hành vi. Xây dựng văn hoá giao thông, một trong những giải pháp được đề cập nhiều trước đây có thể là giải pháp phù hợp theo cách tiếp cận này. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những người thực thi pháp luật an toàn giao thông đang được công chúng cảm nhận với hình ảnh tiêu cực. Việc thay đổi hình ảnh của cảnh sát giao thông có cơ hội giúp tăng mức độ tôn trọng người thực thi pháp luật hơn. Mặc dù nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận của dữ liệu lớn, song chúng tôi chưa đủ khả năng phân tích toàn bộ kết quả, nội dung thu về. Điều này có thể khiến cho kết quả bỏ lỡ nhiều thông tin giá trị. Qua cách tiếp cận này, chúng tôi đề xuất các nhà quản trị sử dụng lắng nghe trên mạng xã hội như một giải pháp hỗ trợ trong việc mô tả thực trạng và tìm kiếm nguyên nhân vi phạm an toàn giao thông. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bachani , A., Jessani , N., Pham, C., La, Q. N., Nguyen, P., Passmore , J., et al. (2013). Drinking & driving in Viet Nam: prevalence, knowledge, attitudes, and practices in two provinces . Injury , 44, 38-44. Chen, T.-Y., Chang, H.-L., & Tzeng, G.-H. (2002). Using fuzzy measures and habitual domains to analyze the public attitude and apply to the gas taxi policy. European Journal of Operational Research , 137, 145-161. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 644 Duong, D. V., Lee, A., & Meuleners , L. (2016). Factors underlying bus-related crashes in Hanoi, Vietnam . Transportation Research Part F . Duong, H. T., Brennan, L., Parker, L., & Florian, M. (2015). But I AM normal: safe? driving in Vietnam. Journal of social markeitng , 5 (2), 105-124. Hoa, D., Duc, N., Bao, N., & Huong, N. (2009). Analysis on Activities of Vietnam Traffic Police in Administrative Handling Violations on Traffic Regulations. Proceedings of the Eastern Asia Society for Transportation Studies, 7. Khuat, H. V., & Le, H. T. (2011). Education influence in traffic safety: A case study in Vietnam. IATSS Research , 34, 87-93. Kotler, P., & Zaltman, G. (1971). Social Marketing: An Approach to a planned social change. Journal of Marketing , 35, 3-12. La, Q. N., Lee , A., & Duong, D. V. (2013). Prevalence and factors associated with road traffic crash among taxi drivers in Hanoi, Vietnam. Accident Analysis and Prevention , 50, 451-455. Lawton, R., & Parker, D. (1997). The role of Affect in predicting social behaviors: the case of road traffic violations. Journal of Applied social psychology , 27 (14), 1258- 1276. Lazarsfeld, P., & Merton, R. (1957). Mass communication, popular taste, and organized social action. (B. Rosenberg, Ed.) New York, America: Colier-MacMilan Limited. Nguyen, N. N., Ozcaglar-Toulouse, N., & Kjeldgaard, D. (2017). Toward an understanding of young consumers' daily consumption practices in post-Doi Moi Vietnam. Journal of Business Research . Rothengatter, T. (1997). Psychological aspects of road user behavior. Applied psychology: An International review , 46 (3), 223-234. Tuổi trẻ. (2017, November 9). Thời sự. Retrieved November 9, 2017, from Tuổi trẻ Online: https://tuoitre.vn/moi-nam-vn-co-15000-nguoi-chet-vi-tai-nan-giao-thong- 20170920154009747.htm Tuan, V. A., & Mateo-Babiano, I. (2013). Motorcycle Taxi Service in Vietnam – Its Socioeconomic Impacts and Policy Considerations. Journal of the Eastern Asia Society for Transportation Studies , 10, 13-28. Van, T. H., & Fuji, S. (2007). PSYCHOLOGICAL DETERMINANTS OF BEHAVIORAL INTENTION TO USE TRAVEL MODES IN HO CHI MINH CITY. Proceedings of the Eastern Asia Society for Transportation Studies, 6. ABTRACT Safety traffic has been a painful problem in developing countries and Vietnam, particularly. The relationship between attitude and behaviour is a common approach for studies in terms of traffic violations and errors. From the results of attitude analysis, managers could be able to find solutions for effective social marketing strategies. The result of Facebook big data in Vietnam showed that: errors are common traffic violations, violators tended to take objective causes for their behaviors. Social marketing in a way of building social norms could have opportunities to decrease objective traffic violations. Keywords: Safety traffic, big data, attitude
File đính kèm:
- thai_do_cua_nguoi_dan_voi_hanh_vi_vi_pham_luat_le_giao_thong.pdf