Tăng cường thu ngân sách địa phương ở Việt Nam
Theo Luật Ngân sách Nhà nước 2015, Ngân
sách Nhà nước (NSNN) bao gồm NSTƯ
(NSTƯ) và ngân sách địa phương (NSĐP) [6].
NSĐP là các khoản thu NSNN cấp cho địa
phương hưởng, thu bổ sung từ NSTƯ cho
NSĐP và các khoản chi NSNN thuộc nhiệm vụ
chi của cấp địa phương. Như vậy, tổng thu
NSĐP bao gồm khoản thu NSĐP hưởng theo
phân cấp và khoản thu bổ sung từ NSTƯ cho
NSĐP. Có thể thấy, thu ngân sách tại các địa
phương có vai trò rất quan trọng: (i) Tổng hợp
các khoản thu ngân sách tại các địa phương
hình thành nên tổng thu NSNN; và (ii) Thu
NSĐP tăng góp phần giúp các địa phương thực
hiện tốt nhiệm vụ chi ngân sách và giảm thiểu
gánh nặng bổ sung cân đối từ NSTƯ cho các
địa phương.
Ở Việt Nam, mức thu NSĐP tăng đều qua
các năm trong giai đoạn 2009-2018 [2], song
tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần. Bên
cạnh đó, mặc dù NSĐP có thặng dư song chủ
yếu từ mức thu bổ sung từ NSTƯ còn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng thu NSĐP. Trung bình
trong giai đoạn 2009-2018, thu bổ sung từ
NSTƯ chiếm trung bình 31,78% (tính toán dựa
trên Phụ lục số 02/CKTC-NSNN giai đoạn
2009-2018 [2]). Ngoài ra, thu ngân sách tại các
địa phương có sự chênh lệch rất lớn giữa các
vùng, lãnh thổ, điều này dẫn tới gánh nặng bổ
sung ngân sách từ trung ương về các vùng, lãnh
thổ này là rất lớn. Để đánh giá thực trạng thu
NSĐP tại Việt Nam, bài viết thực hiện phân
tích dựa trên 2 nhóm chỉ tiêu chính là quy mô
và cơ cấu thu NSĐP. Bài viết cũng so sánh quy
mô thu ngân sách tại các địa phương, phân tích
nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt trong nguồn
thu giữa các vùng, lãnh thổ, từ đó đề xuất một
số khuyến nghị nhằm thúc đẩy tăng thu ngân
sách tại các địa phương. Đây là cơ sở quan
trọng để thúc đẩy tăng thu NSĐP qua các khoản
thu được phân cấp, đồng thời giảm gánh nặng
bổ sung cân đối ngân sách từ trung ương cho
các địa phương.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tăng cường thu ngân sách địa phương ở Việt Nam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 20-28 20 Original Article Enhancing Local Government Revenue in Vietnam Bui Quang Phat* Department of Labor, Invalids and Social Affairs of Bac Giang Province, No. 52, Ngo Gia Tu Road, Bac Giang City, Vietnam Received 04 February 2021 Revised 06 March 2021; Accepted 09 March 2021 Abstract: The paper analyzes the current status of local government revenues in Vietnam base on two indicator groups: The size and The structure of local government revenues. In addition, the paper also compares the revenue among local governments, analyzes the causes that led to the differences. Some recommendations are proposed to enhance local government revenues in Vietnam. This is an important basis to promote local government revenues through decentralized revenues and at the same time reduce the burden for central government. Keywords: Local government revenue, budget decentralization, central government transfer. D* _______ * Corresponding author. E-mail address: phatbq@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4442 B.Q. Phat / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 20-28 21 Tăng cường thu ngân sách địa phương ở Việt Nam Bùi Quang Phát* Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang, số 52, đường Ngô Gia Tự, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam Nhận ngày 04 tháng 02 năm 2021 Chỉnh sửa ngày 06 tháng 3 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 09 tháng 3 năm 2021 Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng thu ngân sách địa phương ở Việt Nam dựa trên hai nhóm chỉ tiêu chính: Quy mô và cơ cấu thu ngân sách địa phương. Ngoài ra, trên cơ sở so sánh quy mô thu ngân sách tại các địa phương, bài viết tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt về nguồn thu giữa các vùng, lãnh thổ, từ đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy tăng thu ngân sách, góp phần giảm gánh nặng bổ sung cân đối ngân sách từ trung ương cho các địa phương. Từ khóa: Thu ngân sách địa phương, quy mô, cơ cấu thu ngân sách, ngân sách trung ương. 1. Lời mở đầu * Theo Luật Ngân sách Nhà nước 2015, Ngân sách Nhà nước (NSNN) bao gồm NSTƯ (NSTƯ) và ngân sách địa phương (NSĐP) [6]. NSĐP là các khoản thu NSNN cấp cho địa phương hưởng, thu bổ sung từ NSTƯ cho NSĐP và các khoản chi NSNN thuộc nhiệm vụ chi của cấp địa phương. Như vậy, tổng thu NSĐP bao gồm khoản thu NSĐP hưởng theo phân cấp và khoản thu bổ sung từ NSTƯ cho NSĐP. Có thể thấy, thu ngân sách tại các địa phương có vai trò rất quan trọng: (i) Tổng hợp các khoản thu ngân sách tại các địa phương hình thành nên tổng thu NSNN; và (ii) Thu NSĐP tăng góp phần giúp các địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ chi ngân sách và giảm thiểu gánh nặng bổ sung cân đối từ NSTƯ cho các địa phương. Ở Việt Nam, mức thu NSĐP tăng đều qua các năm trong giai đoạn 2009-2018 [2], song tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần. Bên cạnh đó, mặc dù NSĐP có thặng dư song chủ yếu từ mức thu bổ sung từ NSTƯ còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSĐP. Trung bình trong giai đoạn 2009-2018, thu bổ sung từ NSTƯ chiếm trung bình 31,78% (tính toán dựa _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phatbq@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4442 trên Phụ lục số 02/CKTC-NSNN giai đoạn 2009-2018 [2]). Ngoài ra, thu ngân sách tại các địa phương có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, lãnh thổ, điều này dẫn tới gánh nặng bổ sung ngân sách từ trung ương về các vùng, lãnh thổ này là rất lớn. Để đánh giá thực trạng thu NSĐP tại Việt Nam, bài viết thực hiện phân tích dựa trên 2 nhóm chỉ tiêu chính là quy mô và cơ cấu thu NSĐP. Bài viết cũng so sánh quy mô thu ngân sách tại các địa phương, phân tích nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt trong nguồn thu giữa các vùng, lãnh thổ, từ đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy tăng thu ngân sách tại các địa phương. Đây là cơ sở quan trọng để thúc đẩy tăng thu NSĐP qua các khoản thu được phân cấp, đồng thời giảm gánh nặng bổ sung cân đối ngân sách từ trung ương cho các địa phương. 2. Thực trạng thu ngân sách địa phương giai đoạn 2009-2018 2.1. Quy mô thu ngân sách địa phương i) Tổng thu NSĐP Tổng thu NSĐP tăng đều qua các năm từ 405.103 tỷ đồng năm 2009 lên mức 1.348.513 tỷ đồng năm 2018 [2]. Tăng thu NSĐP đã góp phần tăng thu ngân sách nhà nước trong cả giai đoạn 2009-2018. Năm 2010, thu NSĐP tăng B.Q. Phat / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 20-28 22 20,38% so với năm 2009, tốc độ tăng trưởng này tăng nhẹ ở mức 20,47% năm 2010. Tuy nhiên sau đó, tốc độ tăng thu NSĐP giảm xuống còn 19,88% năm 2011, và xuống mức thấp nhất vào năm 2013, chỉ đạt 3,49%. Trung bình tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2009-2018 ở mức hơn 13,69% (tính toán của tác giả dựa trên số liệu thu bổ sung từ NSTƯ cho các địa phương trong Phụ lục số 02/CKTC- NSNN về Quyết toán cân đối nguồn thu, ch ... Nguồn: Bộ Tài chính (2009-2018) [3]. Hình 3 cho thấy trong giai đoạn 2014-2018, NSTƯ phải bổ sung cân đối cho khu vực Trung du và miền núi phía Bắc ở mức lớn nhất trong cả nước. Năm 2018, tổng bổ sung cân đối từ NSTƯ cho NSĐP là 337,465,673 triệu đồng, trong đó Trung du và miền núi phía Bắc chiếm tỷ trọng 31,33%, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung ở mức 25,57%, Đồng bằng sông Cửu Long đứng vị trí thứ 3 với 19,03%. Tiếp đến là Tây Nguyên và Đồng bằng sông Hồng với tỷ trọng 10,23% và 8,8%. Đông Nam Bộ là khu vực có nguồn bổ sung cân đối từ NSTƯ ở mức thấp nhất. Tỷ trọng bổ sung cân đối so với chi cân đối NSĐP ở Trung du và miền núi phía Bắc đạt mức cao nhất, trung bình 35,07% trong cả giai đoạn 2009-2018. Tỷ lệ này cho thấy để cân đối chi NSĐP, NSTƯ phải bổ sung cân đối 35,07%. Tiếp đến là khu vực Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với tỷ lệ lần lượt là 26,78%; 20,75% và 18,94%. Tỷ lệ giữa bổ sung cân đối từ NSTƯ và chi cân đối NSĐP ở Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ ở mức 5,54% và 1,32%. Điều này cho thấy, áp lực đối với NSTƯ đặc biệt từ các địa phương ở Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn. 3. Đánh giá thực trạng thu ngân sách địa phương ở Việt Nam Thông qua phân tích thực trạng thu NSĐP giai đoạn 2009-2018, một số đánh giá được rút ra như sau: Thứ nhất, thu NSĐP tăng đều qua các năm trong suốt giai đoạn song mức tăng trưởng không ổn định, thậm chí có xu hướng giảm dần. Thứ hai, NSĐP có thặng dư song đóng vai trò lớn trong nguồn thu lại xuất phát từ thu bổ sung của NSTƯ. Trong đó thu bổ sung cân đối từ NSTƯ chiếm 50% tổng thu bổ sung, cho thấy khó khăn của các địa phương trong việc cân đối ngân sách, đồng thời gây áp lực lớn cho NSTƯ. Ba khu vực nhận bổ sung lớn nhất từ NSTƯ gồm Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long. Thứ ba, thu ngân sách tại các địa phương có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng và lãnh thổ. Hai vùng, lãnh thổ có nguồn thu lớn nhất là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có quy mô thu lớn gấp hơn 20 lần nguồn thu tại Tây Nguyên. Chính sự chênh lệch lớn trong thu ngân sách tại các địa phương như vậy dẫn đến áp lực bổ sung cân đối từ NSTƯ dành cho các vùng, lãnh thổ có mức thu thấp. Nguyên nhân dẫn tới sự chênh lệch trong thu ngân sách tại các địa phương chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt trong điều kiện kinh tế - xã hội tại các địa phương. Cụ thể: i) Sự khác biệt về mức độ tăng trưởng kinh tế ở các địa phương: Ở các địa phương, tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với việc thu nhập của người dân địa phương sẽ tăng lên, thu nhập của các doanh nghiệp địa phương cũng tăng lên, khi đó nguồn thu của chính quyền địa phương từ thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp cũng sẽ tăng. Ngoài ra, khi các cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp được cải thiện thu nhập, mức độ sẵn sàng nộp thuế của người dân cũng tăng lên, từ đó góp phần giảm tình trạng tránh thuế, trốn thuế và tăng thu ngân sách cho chính quyền địa phương. Bảng 3 cho thấy sự chênh lệch lớn về tổng GDP theo giá so sánh giữa các vùng giai đoạn 2010-2018. Đông Nam Bộ là khu vực dẫn đầu cả nước về tăng trưởng kinh tế, tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng. Trung du miền núi phía B.Q. Phat / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 20-28 26 Bắc và Tây Nguyên là hai khu vực có mức GDP theo giá so sánh thấp nhất cả nước; ii) Sự khác biệt về mức độ đa dạng hóa kinh tế: Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới thu NSĐP, được thể hiện thông qua mức độ đa dạng hóa trong các ngành, lĩnh vực kinh tế mà địa phương đã và đang phát triển. Ví dụ, có những địa phương với điều kiện địa lý thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, chỉ tập trung vào phát triển lĩnh vực nông nghiệp. Khi đó, nếu điều kiện thời tiết thuận lợi, nguồn thu của chính quyền địa phương sẽ tăng lên, ngược lại nếu thiên tai xảy ra, nông dân có nguy cơ mất trắng tài sản, nguồn thu vào ngân sách sẽ bị ảnh hưởng. Do vậy, mức độ đa dạng hóa kinh tế ở các địa phương sẽ làm giảm mức độ rủi ro trong các hoạt động kinh tế ở địa phương, từ đó giúp tăng nguồn thu cho NSĐP. Bảng 3. Tổng GDP theo giá so sánh của 6 vùng kinh tế giai đoạn 2010-2018 Đơn vị: Tỷ đồng Vùng kinh tế 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Trung và miền núi phía Bắc 12,51 13,30 14,34 15,66 17,46 20,30 22,35 24,69 27,02 Đồng bằng sông Hồng 60,66 66,88 71,42 80,89 84,80 93,17 101,65 129,86 141,66 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 24,74 26,39 28,42 30,97 34,10 37,54 41,14 44,04 48,32 Tây Nguyên 19,86 21,39 22,67 24,25 25,76 27,41 29,57 31,82 34,23 Đông Nam Bộ 176,65 174,56 189,52 205,33 219,21 241,64 257,20 271,85 289,82 Đồng bằng sông Cửu Long 26,94 29,53 32,34 34,73 37,41 37,01 39,05 41,54 44,61 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2009-2018) [8]. Mức độ đa dạng hóa kinh tế có thể được đo lường bằng tỷ trọng ngành sản xuất nông nghiệp trong GDP. Tỷ trọng này càng cao càng làm giảm khả năng thu ngân sách vì thu nhập hạn chế của khu vực này và vì đặc điểm sản xuất phân tán của nó khiến cho việc thu thuế ít hiệu quả. Hình 4 cho thấy tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP của Tây Nguyên dẫn đầu cả nước, trung bình cả giai đoạn là 41,12%. Đứng thứ hai là Đồng bằng sông Cửu Long với tỷ trọng trung bình 35,88% Tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung với tỷ trọng trung bình 25,05%, 21,44% và 22,23%. Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là hai lãnh thổ có tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP thấp nhất cả nước, lần lượt 14,33% và 13,31%; iii) Sự khác biệt trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào địa phương FDI có thể tác động đến thu NSĐP theo hai kênh trực tiếp và gián tiếp. Thứ nhất, các doanh nghiệp nước ngoài phải trả tiền thuê đất hàng kỳ cho chính quyền (đây là nguồn thu quan trọng của NSĐP), đồng thời nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại địa phương. Thứ hai, các doanh nghiệp nước ngoài tác động gián tiếp đến thu NSĐP thông qua tăng thu nhập cho người lao động và tăng thu nhập cho các doanh nghiệp địa phương cung cấp sản phẩm đầu vào (doanh nghiệp phụ trợ), từ đó góp phần tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp (Hình 5). Số liệu về vốn FDI đăng ký tại các vùng, lãnh thổ trong cả nước giai đoạn 2010-2018 cho thấy Tây Nguyên và Trung du, miền núi phía Bắc vẫn là hai khu vực có vốn FDI đăng ký thấp nhất. Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng vẫn giữ được sự tăng trưởng ổn định trong thu hút vốn FDI hàng năm. Đông Nam Bộ là khu vực dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI trong giai đoạn 2011-2014. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2015-2018, Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có vốn FDI đăng ký cao nhất cả nước [8]. B.Q. Phat / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 20-28 27 Đơn vị: % Hình 4. Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP. Nguồn: Tổng cục Thống kê (2009-2018) [8]. Đơn vị: triệu USD Hình 5. Vốn FDI đăng ký giai đoạn 2010-2018. Nguồn: Tổng cục Thống kê (2009-2018) [8]. 4. Một số khuyến nghị tăng cường thu ngân sách địa phương ở Việt Nam Một trong những vấn đề quan trọng khi nghiên cứu thực trạng thu ngân sách tại các địa phương ở Việt Nam là sự chênh lệch rất lớn về thu ngân sách giữa các vùng, lãnh thổ trong cả nước. Điều này dẫn đến áp lực lớn đối với NSTƯ khi phải bổ sung thường xuyên, với tỷ trọng cao cho ngân sách tại các địa phương có nguồn thu thấp. Vì vậy, cần thiết phải tăng cường nguồn thu đối với các địa phương có nguồn thu thấp. Nguyên nhân dẫn tới sự chênh lệch thu ngân sách giữa các vùng, lãnh thổ được chỉ ra bao gồm sự khác biệt về tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt về tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP và sự khác biệt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, để tăng cường nguồn thu vào các địa phương có nguồn thu thấp nhằm giảm áp lực cân đối ngân sách đối với NSTƯ, cần đưa ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các địa phương, giảm sự phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trong GDP và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, do vậy bài viết tập trung vào hai giải pháp chính sau: i) Giảm sự phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp tại các địa phương: Cơ cấu kinh tế tại các địa phương cần chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, đồng thời tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đặc biệt tại các khu vực như Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Để làm được điều này, một số khuyến nghị được đưa ra như sau: Thứ nhất, các địa phương cần rà soát lại quy hoạch tổng thể địa phương trong đó đặc biệt nhấn mạnh quy hoạch phát triển ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh, huyện. Đối với các địa phương có lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp, ví dụ như Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, cần có định hướng phát triển công nghiệp chế biến nhằm gia tăng giá trị và tính cạnh tranh của các mặt hàng nông sản, từ đó thúc đẩy lợi nhuận của doanh nghiệp và tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương. Thứ hai, xác định các ngành và sản phẩm chủ lực trong từng thời kỳ. Hình thành nhóm ngành chủ lực và xây dựng cơ chế hỗ trợ phát triển cho nhóm ngành chủ lực. Phối hợp các ngành kinh tế tại địa phương để tạo sự phát triển đồng bộ. Ví dụ, Tây Nguyên có lợi thế về trồng cà phê, chính quyền địa phương cần có định hướng hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp chế biến, đồng thời có thể phát triển dịch vụ du lịch. Khách du lịch có thể tham quan các vườn cà phê, trải nghiệm cuộc sống, trải nghiệm quy trình sản xuất từ khi gieo trồng đến khi đóng gói sản phẩm và bán ra thị trường, Thứ ba, nâng cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Đây là khu vực kinh tế năng động, B.Q. Phat / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 37, No. 1 (2021) 20-28 28 đóng góp giá trị lớn vào tăng trưởng GDP của các địa phương, đồng thời là cơ sở quan trọng để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn. Chính quyền địa phương cần tạo điều kiện cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, hiệu quả, công bằng, phối hợp cùng hệ thống ngân hàng thương mại xây dựng cơ chế ưu đãi tín dụng cho khu vực này để phát triển các ngành kinh tế chủ lực tại địa phương. Thứ tư, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào các ngành kinh tế tại địa phương. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đã làm thay đổi nhanh chóng cách thức vận hành của nền kinh tế. Việc áp dụng công nghệ cao vào các ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để làm được điều này, đòi hỏi chính quyền địa phương mạnh dạn đầu tư vốn vào các hoạt động hợp tác, nghiên cứu triển khai, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất, hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; ii) Tăng cường thu hút vốn FDI vào các địa phương, trong đó tập trung vào các dự án có mức đầu tư lớn, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Chính quyền địa phương cần cải cách thủ tục hành chính gắn với cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, bình đẳng, thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý điều hành, nâng cao trách nhiệm và năng lực thực hiện của đội ngũ cán bộ, nâng cao hiệu quả quản trị và hành chính công của tỉnh. Tăng cường thu hút vốn FDI vào phát triển các ngành mũi nhọn của địa phương, đồng thời chính quyền địa phương cần lựa chọn các dự án không gây tác động xấu tới môi trường và phát triển bền vững tại địa phương. 5. Kết luận Bài viết đã thực hiện phân tích thực trạng thu NSĐP ở Việt Nam trong giai đoạn 2009-2018 thông qua các chỉ tiêu như: Quy mô thu NSĐP; Tỷ lệ thu ngân sách quyết toán/dự toán; Cơ cấu thu NSĐP. Bên cạnh những kết quả đạt được như Quy mô thu NSĐP đều tăng qua các năm và số liệu quyết toán đều vượt dự toán hàng năm, vẫn còn một số hạn chế trong thu NSĐP như: Thu bổ sung từ NSTƯ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSĐP, điều này sẽ gây gánh nặng lớn cho NSTƯ đồng thời có sự chênh lệch lớn trong thu ngân sách giữa các vùng, lãnh thổ trong cả nước. Nguyên nhân dẫn tới sự chênh lệch thu ngân sách giữa các vùng, lãnh thổ được chỉ ra bao gồm sự khác biệt về tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt về tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP và sự khác biệt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, để tăng cường nguồn thu vào các địa phương có nguồn thu thấp nhằm giảm áp lực cân đối ngân sách đối với NSTƯ, cần đưa ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các địa phương, giảm sự phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tài liệu tham khảo [1] Ministry of Finance, Circular No. 342/2016/TT-BTC dated 30/12/2016 guiding a number of articles of the Government's Decree No. 163/2016/ND-CP dated 21 December 2016, stipulating the implementation of a number of state budget law’s articles, 2016 (in Vietnamese). [2] Ministry of Finance, Appendix No.02/CKTC-NSNN on Final Account of Central budget and Local budget balance from 2009-2018 (in Vietnamese). [3] Ministry of Finance, Appendix No.09/CKTC-NSNN on Final Account of budget revenue and expenditure of cities and provinces under central authority from 2009-2018 (in Vietnamese). [4] Ministry of Finance, Appendix No.02/CKTC-NSNN on Plan of Central budget and Local budget from 2009-2018 (in Vietnamese). [5] Dinh Thi Nga, “The relationship between Central budget and Local budget: Current situation and some recommendations”, Journal of Finance. https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/su-kien- tai-chinh/quan-he-giua-ngan-sach-trung-uong- voi-ngan-sach-dia-phuong-thuc-trang-va-mot-so- de-xuat-126378.html/,2017 (accessed 30 November 2020) (in Vietnamese). [6] National Asembly, State Budget Law No. 83/2015/QH13 on June 25/ 2015 (in Vietnamese). [7] National Asembly, Appendix issued accompanies with Resolution No. 29/2016/NQ-QH dated on Novembenr 14, 2016 on the allocation of central government budget for 2017 (in Vietnamese). [8] General Statistics Office, Report on socio-economic situation from 2009-2018 (in Vietnamese).
File đính kèm:
- tang_cuong_thu_ngan_sach_dia_phuong_o_viet_nam.pdf