Tài liệu Tài chính cho phát triển bền vững ở Việt Nam - Đánh giá tình hình tài chính cho phát triển
Với mục tiêu tổng quát là hỗ trợ nỗ lực của Việt Nam trong quá trình cải cách việc huy động,
sử dụng và quản lý tài chính cho phát triển, nhằm thực hiện Chương trình nghị sự Phát triển bền
vững đến năm 2030 và thực hiện thành công các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs), báo cáo
này - với tiêu đề “Tài chính cho Phát triển bền vững ở Việt Nam”, cung cấp một cái nhìn tổng
quan về những thay đổi nhanh chóng trong bức tranh tài chính phát triển mà một nước có mức
thu nhập trung bình thấp như Việt Nam đang phải đương đầu. Sử dụng thấu kính Khung Tài
chính tích hợp quốc gia, báo cáo phân tích cơ cấu, tính chất và xu hướng tài chính phát triển và
các nguồn đầu tư cho phát triển ở Việt Nam có so sánh với các nước khác (chủ yếu là các nước
trong khu vực ASEAN).
Mặc dù tổng nguồn lực tài chính phát triển (nguồn tài chính công quốc tế và trong nước, nguồn
tài chính tư nhân quốc tế và trong nước) ở Việt Nam đã tăng lên về quy mô nhưng tỷ trọng tài
chính phát triển so với GDP (và tỷ trọng tổng đầu tư so với GDP) đã sụt giảm từ năm 2007. Tỷ
trọng tổng đầu tư so với GDP của Việt Nam, từng đạt mức cao nhất trong các nước ASEAN -
hơn 30% GDP từ năm 2000 và đạt gần 40% GDP năm 2007 - bắt đầu sụt giảm từ năm 2007 và
xuống đến mức “bình quân” ASEAN (chưa đến 30% GDP) năm 2015. Tỷ trọng này tăng nhẹ
một lần nữa trong thời gian gần đây, cùng với đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Sự sụt giảm (giai đoạn 2008-2011) và phục hồi chậm tỷ trọng FDI trên GDP (giai đoạn 2012-
2015) và tài chính công trên GDP và tăng chậm tài chính tư nhân trong nước so với GDP (trong
cùng kỳ nghiên cứu) được nhận diện là những nguyên nhân chính góp phần dẫn đến tình trạng
sụt giảm tỷ trọng tài chính phát triển trên GDP và tỷ trọng đầu tư trên GDP, trong khi tỷ trọng
ODA trên GDP, OOF trên GDP và đặc biệt là kiều hối trên GDP vẫn duy trì tương đối ổn định.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Tài chính cho phát triển bền vững ở Việt Nam - Đánh giá tình hình tài chính cho phát triển
1 2 LỜI MỞ ĐẦU Với mục tiêu tổng quát là hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực cải cách việc huy động, sử dụng và quản lý tài chính cho phát triển, nhằm thực hiện Chương trình nghị sự Phát triển bền vững đến năm 2030, báo cáo “Tài chính cho Phát triển bền vững ở Việt Nam” cung cấp một cái nhìn tổng quan về những thay đổi trong bức tranh tài chính phát triển ở Việt Nam. Sử dụng thấu kính Khung Tài chính tích hợp quốc gia, báo cáo phân tích cơ cấu, tính chất và xu hướng tài chính phát triển và các nguồn đầu tư cho phát triển ở Việt Nam có so sánh với các nước khác (chủ yếu là các nước trong khu vực ASEAN). Báo cáo nghiên cứu cho thấy sự gia tăng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam và việc mở rộng nguồn tài chính tư nhân trong nước là ưu tiên hàng đầu giúp Việt Nam đáp ứng nhu cầu tài chính để thực hiện thành công các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Để bảo đảm các nguồn tài chính công đóng góp có hiệu quả vào việc thực hiện thành công các SDGs, cần mở rộng diện thu thuế như là một nguồn thu ngân sách thường xuyên hơn, tăng nguồn thu ngân sách từ việc quản lý tốt hơn các tài sản nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả chi tiêu chính phủ và đầu tư công, cùng với nỗ lực quản lý tốt nợ côngt. Báo cáo cũng nêu bật sự cần thiết phải bảo đảm quá trình chuyển tiếp thông suốt ra khỏi giai đoạn tiếp nhận Trợ giúp phát triển chính thức (ODA), quản lý tốt hơn mối quan hệ tương tác giữa các nguồn tài chính cho phát triển, đồng thời tăng cường hiệu quả điều phối và hiệp lực giữa các nguồn tài chính khác nhau. Báo cáo nghiên cứu nhằm nêu bật những thách thức và cơ hội trong việc huy động nguồn tài chính phối hợp, đúng quy mô và cung cấp những hiểu biết sâu sắc cho việc tích hợp và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính (công, tư, trong nước và quốc tế) cho phát triển bền vững và thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững ở Việt Nam __________________________ Caitlin Wiesen Giám đốc quốc gia của UNDP tại Việt Nam 3 LỜI CẢM ƠN Báo cáo nghiên cứu “Tài chính cho Phát triển bền vững ở Việt Nam” được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đặt hàng, với nguồn tài trợ của UNDP và từ sáng kiến đánh giá tài chính cho phát triển của Trung tâm vùng UNDP đặt ở Băng-cốc (BRH/UNDP). Báo cáo được xây dựng như là một phần của nỗ lực triển khai tiếp theo của các đánh giá về tài chính phát triển, ở cấp độ ASEAN và cấp độ quốc gia thành viên ASEAN (trong đó có Việt Nam), nhằm đóng góp cho cuộc Tọa đàm ASEAN-Trung Quốc-UNDP “Tài trợ cho quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững ở ASEAN”, được tổ chức ở Chiang Rai, Thái Lan (tháng 8.2017). Những nhận xét trong báo cáo này phù hợp với định hướng chung và khuôn khổ được đề ra tại sáng kiến đánh giá tài chính cho phát triển của BRH/UNDP. Báo cáo được một nhóm chuyên gia biên soạn, gồm TS Hồ Đình Bảo (Chuyên gia tư vấn trong nước, Giảng viên Khoa kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, làm Trưởng nhóm; TS Vũ Cương, Chuyên gia tư vấn trong nước, Giảng viên Khoa Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội - người chịu trách nhiệm chuẩn bị các thông tin đầu vào về tài chính tư nhân và tài chính công quốc tế cho phát triển; và ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Chuyên gia tư vấn - người chịu trách nhiệm chuẩn bị các thông tin đầu vào về tài chính công. Nghiên cứu này được thực hiện với sự đóng góp và giám sát chất lượng của ông Nguyễn Tiên Phong và TS Cengiz Ciban, chuyên gia của UNDP Việt Nam, với các dữ liệu đầu vào để so sánh quốc tế của Sáng kiến Phát triển (DI). Báo cáo cũng tiếp nhận thông tin từ một số tài liệu khác, trong đó có (i) “Tài trợ cho các Mục tiêu Phát triển bền vững ở ASEAN: Tăng cường khung tài chính tích hợp quốc gia nhằm thực hiện thành công Chương trình nghị sự 2030” và “Việt Nam: Tài trợ cho tương lai với khung tài chính tích hợp quốc gia” - là hai báo cáo nghiên cứu được DI biên soạn năm 2017 và được BRH/UNDP phát hành, làm thông tin đầu vào cho cuộc Tọa đàm ASEAN-Trung Quốc-UNDP, (ii) “Sắp xếp thứ tự ưu tiên ODA và các nguồn đầu tư công khác như là một phần của Chiến lược Quản lý nợ công khôn ngoan” do TS Jonathan Pincus biên soạn và được UNDP đặt hàng, làm thông tin đầu vào cho báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư “Định hướng cập nhật cho việc huy động, sử dụng và quản lý ODA, 2018-2020 và 2021-2025” và (iii) “Báo cáo khung” năm 2017 do TS Jonathan Pincus biên soạn cho nghiên cứu về tài chính phát triển ở TP Hồ Chí Minh và được UNDP đặt hàng. Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn các cơ quan đã đóng góp những đề xuất và ý kiến bình luận quý giá trong quá trình xây dựng đề cương và soạn thảo báo cáo này, đó là Cục Quản lý nợ, Bộ Tài Chính, Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Trung Tâm Vùng của UNDP tại Băng- cốc và Văn phòng UNDP tại Việt Nam. Chú ý: Những quan điểm thể hiện trong báo cáo này là quan điểm riêng của các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của UNDP, Liên Hợp Quốc hay bất kỳ cơ quan trực thuộc nào khác của các tổ ch ... ị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14.2.2015 về Đầu thư theo phương thức PPP và Thông tư số 02/2006/TT-BKHĐT ngày 1.3.2016 hướng dẫn việc sơ bộ lựa chọn, xây dựng, thẩm định và phê duyệt dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi cho các dự án đầu tư PPP. Khung điều tiết này được bổ sung bằng Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26.11. 013 và Nghị định 30/2015/NĐ-CP ngày 17.3.2015 điều chỉnh Luật Đấu thầu về vấn đề lựa chọn nhà đầu tư. Bộ KH-ĐT là cơ quan đầu mối về PPP và chủ trì nhóm công tác liên Bộ về vấn đề này. Bộ KH- ĐT thành lập một đơn vị PPP và đang xây dựng một danh mục các đề xuất dự án với sự giúp đỡ của Bộ Công-Thương và chính quyền các tỉnh/ thành. Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về PPP được thành lập năm 2012 và do một Phó Thủ tướng làm chủ tịch. Ngoài ra, một Bộ, cơ quan ngang Bộ và các dự án PPP có thể thành lập một tổ điều phối PPP chịu trách nhiệm quản lý các dự án PPP đó. Khung pháp lý được cải tiến đã đưa đến một sự gia tăng số lượng các hợp đồng PPP. Đến giữa năm 2016, đã có 68 dự án BOT được xây dựng dưới sự quản lý của Bộ GT-VT ở các ngành đường bộ, đường cao tốc, sân bay và đường sắt. Danh mục các dự án mới, chủ yếu là các dự án đường sắt, có giá trị lên đến 176 tỷ USD, sau đó là các dự án điện lực và công nghiệp chế biến, chế tạo.41F42 Điều này cho thấy tiềm năng lớn lao của khu vực tư nhân trong việc huy động nguồn lực để thực hiện các kết quả phát triển, nhưng cần phải quản lý những rủi ro liên quan một cách cẩn trọng. Một cơ chế mạnh để điều phối, điều tiết và theo dõi các dự án PPP có thể bảo đảm rằng tiềm năng to lớn của cơ chế tài chính này được khai thác đầy đủ (kể cả tăng cường hiệu quả và diện bao phủ) và rằng PPP có thể góp phần vào việc thực hiện thành công các chỉ tiêu phát triển quốc gia và phát triển bền vững đã được đề ra. Ngoài ra, chính phủ đang thực hiện các bước đi nhằm cải thiện môi trường kinh doanh; ví dụ bằng cách gỡ bỏ trở ngại cho việc tạo lập một môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, gỡ bỏ khoảng 3.500 giấy phép con áp đặt những điều kiện kinh doanh không cần thiết, tạo thuận lợi cho cuộc đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, ban hành một số chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp khởi nghiệp và hạn chế các cuộc thanh tra của chính quyền đối với các doanh nghiệp. Nhờ những nỗ lực đó, số lượng các doanh nghiệp mới được thành lập lên đến con số kỷ lục 110.000 đơn vị năm 2016, tăng 16,2% so với năm 2015. Hầu hết những doanh nghiệp mới được thành lập ở các ngành kinh doanh và buôn bán lẻ (35,4%), chế biến và chế tạo (13,4%) và xây dựng (13,2%). Số vốn đăng ký bình quân của các doanh nghiệp mới được thành lập lên đến con số kỷ lục năm 2016 trong khi tổng lượng vốn được đăng ký tăng vọt lên 48,1%.42F43 Hội nhập kinh tế cũng là một yếu tố căn bản trong việc thu hút thêm vốn FDI (xem Chương 3 để có thêm thông tin về FDI). Việt Nam đã xuất hiện như là một điểm đến đầu tư được ưa thích ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhờ chi phí lao động gia tăng ở Trung Quốc và, trong trung hạn và ngắn hạn, Việt Nam sẽ vẫn duy trì được khả năng cạnh tranh về chi phí trong sản 42 Phòng thí nghiệm tri thức PPP của Ngân hàng Thế giới. https://pppknowledgelab.org/countries/vietnam 43 Tổng cục Thống kê. https://www.gso.gov.vn/default_en.aspx?tabid=515&idmid=5&ItemID=18513 113 xuất. Trong 20 năm qua, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương với Hoa Kỳ. Hội nhập thương mại và kinh tế đã đem lại động lực cho phát triển kinh tế, đồng thời Việt Nam đã đẩy mạnh cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế cũng như công tác quản trị của mình, để đương đầu với những thách thức tiềm tàng của xu thế hội nhập kinh tế. Nhờ đó, Việt Nam đã ký được các hiệp định thương mại tự do với nhiều đối tác thương mại, trong đó có Cộng đồng châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc. Khối cấu kiện 5: Theo dõi & đánh giá (M&E) Việt Nam có một văn hóa số liệu khá tốt và chính phủ có kinh nghiệm trong việc tích hợp các MDGs vào hệ thống theo dõi SEDS/SEDP quốc gia. Tuy nhiên, Việt Nam đang còn trong thời kỳ đầu của nỗ lực lập kế hoạch M&E về tiến độ hướng tới thực hiện các SDGs, mặc dù họ có kinh nghiệm phong phú về các MDGs. Số lượng quá nhiều các chỉ số SDGs và yêu cầu phân tách đã đặt ra thách thức lớn cho hệ thống số liệu thống kê ở một số lĩnh vực và sẽ cần tăng cường năng lực của hệ thống thống kê và lập kế hoạch của chính phủ ở các cấp khác nhau. Những thách thức này bao gồm việc chia sẻ và phổ biến số liệu minh bạch hơn; xây dựng và áp dụng các phương pháp thu thập số liệu sáng tạo hơn, kể cả sử dụng có hiệu quả hơn kho hồ sơ và dữ liệu lớn phong phú hiện có, và sử dụng công nghệ thông tin (IT); khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước trong thu thập dữ liệu và theo dõi các SDGs; và áp dụng phương pháp tiếp cận dựa vào kết quả trong việc lập kế hoạch, M&E, đặc biệt gắn nguồn lực tài chính với kết quả phát triển. Tất cả những điều này được coi là có ý nghĩa then chốt để bảo đảm thành công. Tổng cục Thống kê được giao nhiệm vụ xây dựng hệ thống M&E đối với các SDGs. Để chuẩn bị, Tổng cục Thống kê đã tổ chức rà soát các chỉ số SDGs và so sánh chúng với bộ chỉ số hiện có trong Hệ thống Chỉ số thống kê quốc gia (NSIS), để đánh giá mức độ phù hợp của những chỉ số này với các chỉ số SDG toàn cầu. Cuộc rà soát, được thực hiện với sự giúp đỡ của Vụ Thống kê Liên Hợp Quốc, cho thấy rằng diện bao phủ của các chỉ số quốc gia nhìn chung là khá tốt. Số liệu cho 89 chỉ số đã sẵn có, trong đó 13 chỉ số được phản ánh tại các Niên giám thống kê của Tổng cục. Số liệu về 76 chỉ số khác có thể được tập hợp thông qua các cuộc khảo sát cụ thể hay thu thập từng phần bằng các nguồn dữ liệu khác. Tuy nhiên, việc thu thập số liệu cho bộ chỉ số còn lại theo báo cáo sẽ cần có sự tham gia của 22 Bộ và các cơ quan trung ương. Trong những năm tới đây, sẽ cần thêm nỗ lực để thiết lập một hệ thống M&E hoạt động thông suốt cho các SDGs ở Việt Nam. Các biện pháp thực hiện là cải tiến khung pháp luật cho công tác theo dõi; tăng cường cơ cấu tổ chức cho hệ thống các văn phòng của Tổng cục Thống kê; đưa vào thực hiện các phương pháp tiếp cận được quốc tế thừa nhận đối với số liệu thống kê; tăng cường áp dụng IT vào thực tế thống kê; xác định rõ ràng trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các cơ quan chính phủ khác nhau đối với việc thu thập dữ liệu, M&E và lập báo cáo; và lồng ghép các chỉ số SDGs vào hệ thống NSIS hiện hành cũng như hệ thống chỉ số thống kê của các ngành. Hiện Việt Nam đã có một hệ thống M&E cho SEDP. Hệ thống này, cùng với kinh nghiệm của Việt Nam trong việc lồng ghép M&E đối với các MDGs vào hệ thống theo dõi SEDS/SEDP, là một nền tảng tốt để M&E đối với việc thực hiện NAP và các SDGs. Tuy nhiên, vẫn còn một số 114 thách thức, như đưa các VSDGs cụ thể (vượt ra ngoài các chỉ số chung) vào SEDP quốc gia và vào SEDP các ngành và địa phương (và hệ thống NSIS và các hệ thống chỉ số thống kê ngành liên quan) và thiết lập mối liên kết giữa các mục tiêu/ chỉ tiêu phát triển và các chính sách, chương trình, dự án cụ thể. Cũng giống hệ thống thống kê ở cấp trung ương, bộ và địa phương và các báo cáo định kỳ quốc gia (như báo cáo về thực hiện SEPD và thực hiện các MDGs), việc theo dõi tiến độ thực hiện SEDP được thực hiện thông qua hệ thống báo cáo định kỳ của cơ quan công quyền các cấp. Hệ thống này bao gồm các báo cáo viết thường xuyên và các cuộc gặp mặt trực tiếp, thông qua đó để các cơ quan hành pháp nắm bắt tính hình phát triển kinh tế - xã hội và sử dụng ngân sách, đồng thời đưa ra giải pháp kịp thời nhằm khắc phục những vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên, những văn bản và cuộc gặp mặt này có thể là một gánh nặng hành chính và chưa có một mẫu báo cáo thống nhất nào để các chỉ số M&E được thu thập và lưu trữ thường xuyên và có tính hệ thống ở tất cả các cấp chính quyền. Hệ thống M&E hiện hành cho phép chính phủ theo dõi nỗ lực huy động nguồn lực tài chính ở một mức độ nhất định. Ví dụ các báo cáo hàng tháng, hàng quý giúp chính phủ nắm bắt thông tin về tình hình nguồn thu từ thuế (của Tổng cục Thuế), tình hình huy động ODA, đăng ký FDI và sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân (của Bộ KH-ĐT), tình hình nợ công và vay nợ công, chi tiêu ngân sách (của Bộ Tài chính), tình hình FDI và thị trường chứng khoán (của Ủy ban Chứng khoán quốc gia) và tình hình kiều hối và gửi ngân hàng của các cá nhân và doanh nghiệp (của SBV), v.v... Tuy nhiên, độ tin cậy và tính khách quan của một hệ thống như vậy là khá hạn chế, bởi tất cả các số liệu đều từ các cơ quan chính phủ. Do đó, những số liệu này có thể chỉ có mức độ giám sát độc lập hạn chế, ẩn chứa những tác động đến tiêu chuẩn chất lượng và tính tương thích về định nghĩa giữa các nguồn số liệu. Theo Luật Đầu tư công, các chương trình và dự án đầu tư công đều được đánh giá bằng các hình thức khác nhau, đó là đánh giá trước khi bắt đầu, đánh giá giữa kỳ, đánh giá kết thúc và đánh gia tác động. Tuy nhiên, việc tuân thủ những yêu cầu này được biết là khá lỏng lẻo. Việc nhấn mạnh nhiều hơn đến kết quả có thể hỗ trợ một phương pháp tiếp cận hiệu quả hơn đối với M&E ở cấp độ dự án. Do thiếu một khung định hướng theo kết quả, ở cả hệ thống lập kế hoạch phát triển và hệ thống lập ngân sách, cho nên không thể liên kết đầu tư huy động trên thực tế với những kết quả thu được. Hướng đến tương lai, nguồn kinh phí từ NSNN sẽ được phân bổ để hỗ trợ nỗ lực M&E đối với quá trình thực hiện các SDG, trong đó có kinh phí cho thu thập số liệu và xây dựng báo cáo. Chuyển sang một hệ thống định hướng theo kết quả có thể hữu ích hơn trong việc giúp chính phủ thực hiện, theo dõi và đánh giá các chiến lược và chính sách tài chính. Khối cấu kiện 6: Trách nhiệm giải trình và đối thoại Chính phủ có thể xem xét việc xây dựng và tăng cường các cơ chế trách nhiệm giải trình và đối thoại thường xuyên, nhằm củng cố niềm tin và huy động thêm nhiều tài chính từ các đối tác ngoài chính phủ. Tương tự như vậy, chính phủ cũng có thể tính đến việc làm thế nào để chứng tỏ rằng ý kiến của người dân được phản ánh vào các kế hoạch quốc gia. Các diễn đàn đối thoại giữa chính phủ và các đối tác khác có vai trò quan trọng trong việc xây dựng niềm tin và hình thành chính sách xung quanh các loại hình tài chính và đầu tư mà những 115 nhóm đối tác này có thể cung cấp cho sự nghiệp phát triển bền vững. Đối thoại là một cơ sở để điều chỉnh và làm cho chính sách của chính phủ trở nên nhạy bén hơn, nhằm bảo đảm chính sách định ra vai trò thiết thực cho các loại hình tài chính trong các kế hoạch quốc gia, khắc phục có hiệu quả những trở ngại đối với đầu tư tư nhân và tạo ra những biện pháp kích thích hoặc cơ chế đưa đến tác động tích cực đối với tất cả các khía cạnh của phát triển bền vững. Đối thoại trong suốt chu kỳ chính sách có thể cung cấp thông tin về mức độ hiệu quả của quá trình thực hiện và những cuộc kiểm điểm sau can thiệp. Dường như những diễn đàn như vậy vẫn còn hạn chế trong bối cảnh của Việt Nam, mặc dù NAP có quy định rằng các đợt tuyên truyền và vận động sẽ được phát động để nâng cao nhận thức của người dân về quá trình thực hiện các SDGs. Ở cấp độ quốc gia, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF), được triệu tập thường niên, là nơi để chính phủ và các nhà tài trợ trao đổi về tình hình phát triển KT-XH của đất nước và các chiến lược, chính sách phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, VDF là cuộc đối thoại chính sách cấp cao giữa chính phủ và các đối tác phát triển mà ở đó sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự ở cấp cơ sở và cộng đồng doanh nghiệp là rất hạn chế. Một kênh quan trọng cho cộng đồng doanh nghiệp là Diễn đàn Kinh doanh Việt nam (VBF), do Thủ tướng Chính phủ chủ trì. VBF là một diễn đàn để Thủ tướng tìm hiểu những trở ngại về mặt hành chính đối với môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Cùng với những nỗ lực khác để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân, VBF đã đưa đến những cải thiện, như gỡ bỏ tình trạng quan liêu và các thủ tục hành chính rườm rà vốn đã là trở ngại cho sự phát triển lành mạnh của khu vực tư nhân. Mặc dù SEDP đã có một hệ thống M&E nhưng, theo báo cáo, tính hiệu quả của nó là khá hạn chế, do thiếu một cơ chế trách nhiệm giải trình có hiệu quả, trong đó có cả tình trạng thiếu một hệ thống theo dõi độc lập và các cơ chế còn quá yếu kém để xã hội dân sự và các đối tác phi chính phủ nói lên tiếng nói và chia sẻ quan điểm của họ. Mặc dù người ta đã cố gắng thu hút sự tham gia của công chúng và tạo lập thêm các diễn đàn để thông tin đến các đối tác phi chính phủ, nhưng hãy còn quá sớm để đánh giá tính hiệu quả của những cơ chế này. Nói một cách tổng quát nhất, sự giám sát của công chúng là mang tính bắt buộc, như quy định tại nhiều văn bản pháp luật như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công và Pháp lệnh về Dân chủ ở cấp cơ sở.43F44 Tham khảo ý kiến người dân là điều bắt buộc khi các luật pháp, chính sách quan trọng được soạn thảo và việc lập kế hoạch và hoàn chỉnh ngân sách được công bố trước người dân. Việc thực hiện các dự án đầu tư công quy mô nhỏ phải có sự giám sát của cộng đồng dân cư và quyền của công dân được biết, được bàn và được kiểm tra đã được quy định rõ ràng tại nhiều văn bản luật pháp khác nhau. Tuy nhiên, việc thực thi những quyền này còn nhiều hạn chế, và vẫn chưa có một cơ chế minh bạch nào để bảo đảm rằng tiếng nói của những người dân “chân chính” được lắng nghe, hành động được thực hiện và quyền được trả lời của công chức được bảo đảm. Chưa có cơ chế cụ thể nào được thiết lập để huy động sự tham gia của người dân vào quá trình thực hiện các SDGs. Tuy nhiên, để thực hiện SEDP và điều hành ngân sách, chính phủ đã đưa 44 Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở các xã, phường và thị trấn. 116 vào thực hiện một số cơ chế. NAP đề ra một số quy trình ra quyết định nhạy bén “mang tính bao trùm, có sự tham gia của người dân và có tính đại diện ở tất cả các cấp”. Điều cực kỳ quan trọng là, NAP hướng tới việc tạo lập các cơ chế cho phép người dân tham gia vào công tác quản lý Nhà nước và xã hội, với sự công khai và minh bạch trong “tiếp thu và trả lời ý kiến phản hồi, bình luận và khiếu nại của người dân”.4F45 Việt Nam sẽ trình bày báo cáo Kiểm điểm Quốc gia tình nguyện tại Diễn đàn Chính trị cấp cao về Phát triển bền vững (HLPF) năm 2018, cho nên báo cáo kiểm điểm này cần tiếp thu những ý kiến đóng góp của xã hội dân sự, khu vực tư nhân và các nhóm đối tác khác. 45F46 Như vậy, vấn đề không phải là sự tồn tại của một cơ chế phù hợp mà là ở sự thực thi có hiệu quả. Trước khi quá trình xây dựng SDSF khởi động, chính phủ có thể xem xét một số cách thức bổ sung để tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình liên quan đến việc sử dụng tài chính phát triển, như các diễn đàn có sự tham gia nhiều hơn của người dân. 45 Kế hoạch Hành động quốc gia. the-2030-sustainable-development-agenda.html 46 Viện Quốc tế về phát triển bền vững.
File đính kèm:
- tai_lieu_tai_chinh_cho_phat_trien_ben_vung_o_viet_nam_danh_g.pdf