Tài liệu Tác động của sự hiểu biết về môi trường, độ nhạy cảm về môi trường và sự gắn bó điểm đến tới hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch biển đảo Việt Nam: Trường hợp Phú Quốc
Tóm tắt: Đề tài này thảo luận tác động của sự hiểu biết về môi trường, độ nhạy cảm về
môi trường và sự gắn bó điểm đến tới hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch
biển đảo Việt Nam – cụ thể tại đảo Phú Quốc. Nghiên cứu được tiến hành qua hai giai
đoạn: nghiên cứu dữ liệu thứ cấp và nghiên cứu định lượng. Mô hình cấu trúc tuyến
tính SEM được sử dụng để kiểm định sự phù hợp của mô hình và các giả thuyết nghiên
cứu. Kết quả thu được qua dữ liệu thu thập từ 120 đối tượng du khách đã từng đi du
lịch Phú Quốc từ năm 2014 đến nay đã khẳng định mối quan hệ tích cực giữa các yếu
tố: Sự hiểu biết về môi trường, Độ nhạy cảm về môi trường, Sự gắn bó điểm đến tới
Hành vi trách nhiệm của du khách đến môi trường du lịch biển đảo Việt Nam, cụ thể ở
Phú Quốc.
Từ khóa: Sự hiểu biết về môi trường; Độ nhạy cảm về môi trường; Sự gắn bó điểm
đến; hành vi trách nhiệm của du khách; Du lịch bền vững; Phát triển bền vững.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Tác động của sự hiểu biết về môi trường, độ nhạy cảm về môi trường và sự gắn bó điểm đến tới hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch biển đảo Việt Nam: Trường hợp Phú Quốc
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 177 TÁC ĐỘNG CỦA SỰ HIỂU BIẾT VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐỘ NHẠY CẢM VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ SỰ GẮN BÓ ĐIỂM ĐẾN TỚI HÀNH VI TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG DU LỊCH BIỂN ĐẢO VIỆT NAM: TRƯỜNG HỢP PHÚ QUỐC Nhóm tác giả: Trần Huy Lương_ LH01_Khóa 42 Phan Minh Anh_LH01_Khóa 42 Nguyễn Đỗ Quang Huy_LH01_Khóa 42 GVHD: ThS. Phạm Tô Thục Hân Tóm tắt: Đề tài này thảo luận tác động của sự hiểu biết về môi trường, độ nhạy cảm về môi trường và sự gắn bó điểm đến tới hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch biển đảo Việt Nam – cụ thể tại đảo Phú Quốc. Nghiên cứu được tiến hành qua hai giai đoạn: nghiên cứu dữ liệu thứ cấp và nghiên cứu định lượng. Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM được sử dụng để kiểm định sự phù hợp của mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả thu được qua dữ liệu thu thập từ 120 đối tượng du khách đã từng đi du lịch Phú Quốc từ năm 2014 đến nay đã khẳng định mối quan hệ tích cực giữa các yếu tố: Sự hiểu biết về môi trường, Độ nhạy cảm về môi trường, Sự gắn bó điểm đến tới Hành vi trách nhiệm của du khách đến môi trường du lịch biển đảo Việt Nam, cụ thể ở Phú Quốc. Từ khóa: Sự hiểu biết về môi trường; Độ nhạy cảm về môi trường; Sự gắn bó điểm đến; hành vi trách nhiệm của du khách; Du lịch bền vững; Phát triển bền vững. 1. GIỚI THIỆU Là một nước tiềm năng phát triển du lịch biển đảo với hơn 3260 km đường bờ biển và 2773 đảo ven bờ. Trong đó, Phú Quốc là trung tâm phát triển du lịch biển của vùng biển phía Nam; Dưới ảnh hưởng của dự thảo luật đặc khu thì bối cảnh bất động sản nghỉ dưỡng ở đây đang bùng nổ. Việc khai thác du lịch biển ở Phú Quốc gắn liền với hành vi của con người do đó sẽ gây nên những tác động hai chiều giữa lợi ích về kinh tế và tình trạng của môi trường thiên nhiên. Vậy nên, việc bảo tồn môi trường cũng như hệ sinh thái biển đảo ở Phú Quốc là rất quan trọng và cần thiết. Trong đó, nhận thức và thái độ của du khách về môi trường có tác động trực tiếp đến hành vi trách nhiệm đối với môi trường. Trước đó đã có nhiều nghiên cứu về hành vi trách nhiệm của du khách đến môi trường. Nhóm tác giả đã tìm hiểu nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian gần đây có liên quan đến đề tài này được thực hiện ở các điểm đến quốc tế khác nhau Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 178 trên thế giới và nhận thấy rằng các nghiên cứu trước đó chỉ tìm hiểu các yếu tố riêng lẻ tác động lên hành vi của con người đến môi trường (Cheng & Huang, 2013). Vì vậy, nghiên cứu này nhóm tác giả sẽ làm rõ mối quan hệ trung gian và các ảnh hưởng lẫn nhau giữa các biến, cụ thể mức độ hiểu biết của du khách về môi trường ở đảo Phú Quốc cao hơn sẽ mang lại những tác động tích cực lên các mối quan tâm đến đảo. Từ đó tạo nên các cảm giác gắn bó tích cực đối với đảo. Xuất phát từ những tâm lý tích cực du khách sẽ có những hành vi có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường biển đảo ở Phú Quốc, mặt khác, khi du khách đã có những mối quan tâm về ảnh hưởng của các hoạt động du lịch, các tác động của con người lên môi trường biển đảo thì khả năng cao phát triển tinh thần trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường. Các kết quả tích cực của bài nghiên cứu như là thước đo cho các cơ quan chức năng trong việc giáo dục sự hiểu biết về môi trường, độ nhạy cảm về môi trường cho người dân và hướng họ đến những hành vi trách nhiệm của du khách đúng đắn để có những tác động tốt lên môi trường. Mô hình của bài nghiên cứu này là tiền đề cho các nghiên cứu sau này lên các đối tượng, phạm vi khác ở Việt Nam và xa hơn là khu vực Châu Á và cũng có thể được khái quát ở những đối tượng khác có cùng mối quan tâm - Là các vấn đề với môi trường như các điểm du lịch sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn các di sản văn hóa vật thể. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Các khái niệm nghiên cứu Sự hiểu biết về môi trường Theo các nhà nghiên cứu môi trường (Amy, 1994; Huang & Shin, 2009) thì sự hiểu biết về môi trường chính là mức độ quan tâm đến môi trường tự nhiên và được xác định như là một sự hiểu biết đại chúng bao gồm: Bảo vệ môi trường, môi trường tự nhiên, hệ sinh thái và các thành phần trong hệ sinh thái. Bên cạnh đó, Viện Môi trường Phần Lan (Finnish Environment Institute, 2000) đã chỉ ra rằng: Sự khác nhau về kiến thức sẽ dẫn đến những hành động khác biệt đối với môi trường. Chính vì vậy, mức độ của hiểu biết sẽ khác nhau đối với từng nhóm đối tượng. Việc nâng cao kiến thức, trình độ hiểu biết của người dân vẫn là yếu tố then chốt trong việc gìn giữ, bảo tồn và tôn tạo cảnh quan tự nhiên, đa dạng sinh học của biển đảo. Đồng thời, nghiên cứu của 2 nhà khoa học môi trường Wurzinger & Johansson (2006) về sự hiểu biết và độ nhạy cảm về môi trường cũng đã lý giải thêm rằng: Những du khách có sự am hiểu, có kiến thức phong phú về môi trường sẽ quan tâm nhiều hơn về những vấn đề môi trường của địa điểm tham quan và ngược lại. Sivek và Hungerford (1990) đã chỉ ... hiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 189 a hóa H1 0.70 5 0.74 7 0.15 4 4.86 4 *** Chấp nhận H2 0.24 5 0.31 6 0.13 0 2.43 4 0.0 15 Chấp nhận H3 0.26 7 0.31 9 0.11 6 2.75 6 0.0 06 Chấp nhận H4 0.45 7 0.42 4 0.09 2 4.60 0 *** Chấp nhận (Nguồn: từ kết quả tính toán của nhóm tác giả) 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đóng góp về mặt lý thuyết Trong bối cảnh du lịch biển đảo ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tình hình du lịch ở Phú Quốc, nghiên cứu đã có những kết quả phù hợp với các dữ liệu đã thu được. Các giả thuyết đã được chấp nhận có tính tương đồng cao và hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu trước của Cheng & Wu (2015) trong khoảng thời gian gần đây. Nghiên cứu đã khẳng định Sự hiểu biết về môi trường tác động cùng chiều đến Độ nhạy cảm về môi trường; Độ nhạy cảm về môi trường tác động cùng chiều đến Sự gắn bó điểm đến và Hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch; Sự gắn bó điểm đến tác động cùng chiều lên Hành vi trách nhiệm đối với môi trường. Hệ số β đã chuẩn hóa (theo bảng 5) cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến thái độ hành vi trách nhiệm của người dân và du khách đối với môi trường du lịch biển đảo. Thông qua các kết quả phân tích SEM thể hiện các nhân tố tác động đến Hành vi trách nhiệm của khách du lịch đến môi trường biển đảo, các kết quả chỉ ra rằng Sự gắn bó điểm đến có tác động trực tiếp và mạnh nhất (β = 0.457) và còn lại là Độ nhạy cảm về môi trường có tác động trực tiếp (β = 0.267) đối với Hành vi trách nhiệm đối với môi trường. Độ nhạy cảm về môi trường tác động trực tiếp lên Sự gắn bó đối với điểm đến là yếu nhất (β = 0.245) và kém hơn sự tác động của biến đến Hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch biển đảo (β = 0.267). Từ các kết quả trên nhóm tác giả nhận ra rằng những hành vi trách nhiệm đối với du lịch biển đảo của người dân và khách du lịch chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và đáng kể nhất bởi yếu tố tâm lý gắn bó đối với điểm đến và một phần chịu sự ảnh hưởng bởi tâm lý nhạy cảm đối với môi trường của người dân và du khách. Có thể kết luận rằng: Việc yêu thích điểm đến du lịch khiến du khách có trách nhiệm với môi trường hơn; đặc biệt trong bối cảnh du lịch biển đảo đang phát triển ở Việt Nam như hiện nay. Đồng thời, du khách Việt Nam dần trở nên văn minh hơn khi họ chứng kiến những tác động tiêu cực đến môi trường. Điều đó khiến du khách một phần tự điều chỉnh hành vi của mình có trách nhiệm với môi trường hơn khi đi du lịch đặc biệt là du lịch ở biển đảo. Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 190 Ngoài ra, yếu tố sự hiểu biết về môi trường có tác động khá lớn và trực tiếp đến Độ nhạy cảm về môi trường (β = 0.705), giúp nhóm tác giả đưa ra kết luận rằng việc du khách có những hiểu biết, những kiến thức về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên du lịch biển đảo tác động mạnh mẽ đến độ nhạy cảm của họ đối với điểm du lịch biển đảo. Như đã đề cập ở trên, du khách Việt Nam khi đi du lịch dần có những biểu hiện văn minh hơn nên những tác động mạnh mẽ của yếu tố sự hiểu biết về môi trường lên độ nhạy cảm về môi trường là hoàn toàn hợp lý. Tác động mạnh mẽ trên là cơ sở để giải thích tác động trực tiếp của yếu tố độ nhạy cảm về môi trường lên sự gắn bó đối với điểm đến (β = .245) và cũng giải thích cho tác động gián tiếp của yếu tố sự hiểu biết về môi trường lên yếu tố sự gắn bó đối với điểm đến. Đóng góp về mặt thực tiễn Kết quả của nghiên cứu về “Tác động của sự hiểu biết về môi trường, độ nhạy cảm về môi trường và sự gắn bó điểm đến tới hành vi trách nhiệm của du khách đối với môi trường du lịch biển đảo Việt Nam: Trường hợp Phú Quốc” cung cấp cho các nhà quản lý du lịch những khám phá mới mẻ về thái độ và hành vi của du khách đối với môi trường. Dựa trên những kết quả nghiên cứu về mặt lý thuyết, nhóm tác giả xin đưa ra một số kiến nghị về mặt thực tiễn như sau: 1. Nâng cao nhận thức, sự hiểu biết và quan tâm về môi trường Chúng ta luôn rất cần phổ biến rộng rãi hơn đối với du khách về những kiến thức môi trường cũng như bảo vệ môi trường biển đảo trong hoạt động du lịch để du khách Việt Nam trở nên văn minh hơn khi tham gia du lịch biển bảo. 2. Thông qua các chiến dịch về môi trường Tổ chức các triển lãm tại các bãi biển về các sản phẩm tái chế từ rác thải, hay các tranh ảnh về tác động tiêu cực của du lịch đến tài nguyên tự nhiên tại Phú Quốc. Bên cạnh đó, cần chú trọng thực hiện các chiến dịch về môi trường dựa trên các phân khúc du khách như trong bài nghiên cứu, ví dụ: “Biển Việt Nam xanh”, “Hãy làm sạch biển”, nhằm xây dựng cho du khách một cái nhìn cụ thể, khách quan về hành vi trách nhiệm đối với môi trường. 3. Nhắn gửi thông điệp hướng đến hành động đẹp Thông điệp về môi trường cần được in vào brochure của các công ty du lịch, in bằng giấy hay trình chiếu bằng các bảng điện tử tại điểm đến nhằm mang đến cho du khách sự hiểu biết về tầm quan trọng của tài nguyên du lịch biển đảo 4. Thông qua hướng dẫn viên của các chương trình du lịch Những kiến thức về môi trường cần được hướng dẫn viên giới thiệu đến du khách một cách thường xuyên, rõ ràng và chi tiết. Những gì cần được giới thiệu không chỉ là kiến thức về môi trường, mà còn có kiến thức về phát triển du lịch bền vững hay cụ thể hơn là bảo vệ môi trường tại chính điểm đến du lịch. Bên cạnh đó, hướng dẫn Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 191 viên còn đề xuất cho du khách sử dụng những vật dụng cá nhân thân thiện với môi trường, chỉ dẫn và giải thích những hoạt động có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, cảnh quan thiên nhiên. 5. Gia tăng sự gắn bó giữa con người đối với điểm đến du lịch Các hoạt động về nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về môi trường cần được tiến hành một cách chặt chẽ và thường xuyên nhất. Ngoài ra, việc đón nhận một cách cởi mở và thân thiện của cộng đồng địa phương cũng là một khía cạnh đáng lưu tâm vì nó có thể tạo được hình ảnh điểm đến khiến du khách thoải mái và có cảm giác an toàn, hứng thú với điểm du lịch. 6. Thực thi các chính sách phù hợp và hiệu quả Những nhà chủ đầu tư, các bên tham gia khai thác hoạt động du lịch tại đảo Phú Quốc nên có giải pháp góp phần phát triển du lịch biển đảo tại đây một cách bền vững. Chính phủ cùng các Sở, ban ngành liên quan cần ban hành điều lệ liên quan đến bảo vệ, bảo tồn môi trường biển đảo trong khai thác các loại hình du lịch tại Phú Quốc. Cụ thể, các dự án, công trình về khai thác du lịch bắt buộc thực hiện đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, báo cáo đánh giá tác động môi trường phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trước khi khởi công dự án đầu tư. Chính phủ cần phải ban hành những quyết định, điều lệ liên quan nhằm tránh việc đầu tư cơ sở hạ tầng, địa ốc hoặc các dịch vụ phục vụ cho hoạt động du lịzch gây nên sức ép đến hệ sinh thái cảnh quan của quần đảo, của biển và vườn quốc gia trong khu vực. Việc định hướng quy hoạch khu du lịch phải đặc biệt lưu tâm đến môi trường tự nhiên của biển, thảm thực vật, rặng san hô biển, bờ biển,. Ngoài ra, việc quy hoạch các khu du lịch cũng phải hài hoà với khu dân cư, làng chài, và các thắng cảnh của hòn đảo. Song song đó, hệ thống cấp thoát, xử lý nước cũng nên được đầu tư, tránh việc thải trực tiếp ra biển mà không qua xử lý. Quan trọng hơn, Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch và Sở Du lịch tỉnh Kiên Giang cần khuyến khích các hãng lữ hành sáng tạo, thiết kế, xây dựng được các sản phẩm du lịch đặc trưng của Phú Quốc nhưng gắn liền với phát triển bền vững. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo Bài nghiên cứu trên sử dụng hai phương pháp là nghiên cứu dữ liệu thứ cấp và nghiên cứu định lượng. Việc thay đổi cách thức nghiên cứu kết hợp giữa định tính và định lượng sẽ tăng tính khách quan cho nghiên cứu trong tương lai. Vì nghiên cứu định tính sẽ biết được chính bản thân du khách nghĩ gì các vấn đề môi trường biển đảo, việc thu thập các ý kiến cá nhân sẽ phản ảnh thực tế và đưa ra cái nhìn trực quan Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 192 hơn. Hơn hết là sẽ phù hợp với bối cảnh du lịch đại chúng ngày càng phát triển. Từ đó cho kết quả chính xác, khách quan hơn. Bên cạnh đó, đối tượng tham gia khảo sát 100% là khách nội địa, chỉ phản ánh một phần nhận thức và suy nghĩ của du khách về vấn đề môi trường biển đảo. Nhóm tác giả chưa tiếp cận được đến khách du lịch quốc tế tham gia du lịch tại Phú Quốc nên chưa có số liệu, thông tin cũng như suy nghĩ của họ về vấn đề mà nhóm tác giả đang nghiên cứu. Mặt khác, việc khảo sát được thực hiện với số lượng mẫu chưa nhiều nên khả năng phản ánh thực tế cũng chưa thực sự cao. Nếu số lượng mẫu tăng thêm có thể dẫn đến thay đổi kết quả của nghiên cứu này. Mặt khác, khi thực hiện khảo sát không thể tránh khỏi việc đối tượng khảo sát không hiểu được câu hỏi dẫn đến chọn đáp án một cách cảm tính, đây cũng là một nguyên nhân khiến cho kết quả nghiên cứu có thể bị sai lệch thực tế. Ngoài ra, đối tượng của nghiên cứu này chỉ tập trung vào du khách, trong khi đó trách nhiệm đối với môi trường du lịch còn bao gồm nhiều đối tượng khác như các nhà cung ứng dịch vụ du lịch (phương tiện vận chuyển, cơ sở lưu trú địa phương, khu vui chơi giải trí, điểm tham quan,), người dân địa phương và những đối tượng khác tham gia vào hoạt động du lịch . Vì vậy, những nghiên cứu tiếp theo có thể tiến hành nghiên cứu với phạm vi rộng hơn về ảnh hưởng của các bên tham gia vào hoạt động du lịch đối với môi trường. Một hạn chế khác của nghiên cứu này đó là chỉ tập trung vào đảo Phú Quốc; các nghiên cứu trong tương lai nên mở rộng nghiên cứu theo khu vực hoặc theo tuyến, theo thị trường,.. để khám phá được các đặc trưng, tính chất khác của môi trường tại điểm du lịch. Mô hình nghiên cứu của nghiên cứu này đã chứng minh mối quan hệ giữa bốn biến. Các nhà nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào các biến số khác, chẳng hạn như thái độ của du khách đối với phát triển du lịch bền vững và sự hỗ trợ của cộng đồng địa phương cho du lịch bền vững để có thể có cách tiếp cận mới mẻ hơn về mối quan hệ nguyên nhân – kết quả của hành vi trách nhiệm đối với môi trường du lịch. Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 193 TÀI LIỆU THAM KHẢO Arcury, T. A. (1990). Environmental attitude and environmental knowledge. Human organization, 300-304. Bohdanowicz, P. (2006). Environmental awareness and initiatives in the Swedish and Polish hotel industries—survey results. International Journal of Hospitality Management, 25(4), 662-682. Bradley, J. C., Waliczek, T. M., & Zajicek, J. M. (1999). Relationship between environmental knowledge and environmental attitude of high school students. The Journal of Environmental Education, 30(3), 17-21. Chen, C.-L., & Bau, Y.-P. (2016). Establishing a multi-criteria evaluation structure for tourist beaches in Taiwan: A foundation for sustainable beach tourism. Ocean & Coastal Management, 121, 88-96. Cheng, T.-M., C. Wu, H., & Huang, L.-M. (2013). The influence of place attachment on the relationship between destination attractiveness and environmentally responsible behavior for island tourism in Penghu, Taiwan. Journal of Sustainable Tourism, 21(8), 1166- 1187. Cheng, T.-M., & Wu, H. C. (2015). How do environmental knowledge, environmental sensitivity, and place attachment affect environmentally responsible behavior? An integrated approach for sustainable island tourism. Journal of Sustainable Tourism, 23(4), 557-576. Eusébio, C., Vieira, A. L., & Lima, S. (2018). Place attachment, host–tourist interactions, and residents’ attitudes towards tourism development: the case of Boa Vista Island in Cape Verde. Journal of Sustainable Tourism, 26(6), 890-909. Fryxell, G. E., & Lo, C. W. (2003). The influence of environmental knowledge and values on managerial behaviours on behalf of the environment: An empirical examination of managers in China. Journal of business ethics, 46(1), 45-69. Hai, M. A., & Alamgir, M. B. (2017). Local Community Attitude and Support Towards Tourism Development at Saint Martin Island, Bangladesh: Local Community Attitude and Support. International Journal of Tourism and Hospitality Management in the Digital Age (IJTHMDA), 1(2), 32-41. Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 194 Hanafiah, M. H., Jamaluddin, M. R., & Zulkifly, M. I. (2013). Local community attitude and support towards tourism development in Tioman Island, Malaysia. Procedia- Social and Behavioral Sciences, 105, 792-800. Hair, J. F., Black W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., & Tatham, R. L. (2006). Multivariate Data Analysis, 6th Ed, Upper Saddle River, NJ: Prentice–Hall. Ho, J. A., Chia, K. W., Ng, S. I., & Ramachandran, S. (2017). Problems and stakeholder responsibilities in island tourism: The case of Tioman Island in Malaysia. Journal of Hospitality & Tourism Research, 41(4), 445-474. Jackie Ong, L. T., & Smith, R. A. (2014). Perception and reality of managing sustainable coastal tourism in emerging destinations: the case of Sihanoukville, Cambodia. Journal of Sustainable Tourism, 22(2), 256-278. Kline, R. B. (2011). Principles and practice of structural equation modelling, 3rd Ed., New York: Guilford Press. Lee, T. H., & Jan, F.-H. (2015). The influence of recreation experience and environmental attitude on the environmentally responsible behavior of community- based tourists in Taiwan. Journal of Sustainable Tourism, 23(7), 1063-1094. Lozoya, J. P., Sardá, R., & Jiménez, J. A. (2014). Users expectations and the need for differential beach management frameworks along the Costa Brava: Urban vs. natural protected beaches. Land Use Policy, 38, 397-414. Presenza, A., Del Chiappa, G., & Sheehan, L. (2013). Residents’ engagement and local tourism governance in maturing beach destinations. Evidence from an Italian case study. Journal of Destination Marketing & Management, 2(1), 22-30. Ram, Y., Björk, P., & Weidenfeld, A. (2016). Authenticity and place attachment of major visitor attractions. Tourism Management, 52, 110-122. Ramkissoon, H. (2016). Place satisfaction, place attachment and quality of life: Development of a conceptual framework for island destinations. Sustainable Island Tourism: Competitiveness and Quality of Life; Modica, P., Uysal, M., Eds, 106-116. Ramsey, C. E., & Rickson, R. E. (1976). Environmental knowledge and attitudes. The Journal of Environmental Education, 8(1), 10-18. Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019 195 Ribeiro, M. A., Valle, P. O. d., & Silva, J. A. (2013). Residents’ attitudes towards tourism development in Cape Verde Islands. Tourism Geographies, 15(4), 654-679. Vaske, J. J., & Kobrin, K. C. (2001). Place attachment and environmentally responsible behavior. The Journal of Environmental Education, 32(4), 16-21.
File đính kèm:
- tai_lieu_tac_dong_cua_su_hieu_biet_ve_moi_truong_do_nhay_cam.pdf