Tài liệu Kĩ năng nhớ

Tái hiện hình ảnh (trí nhớ hình tượng)

Việc tái hiện lại các hình ảnh hay còn gọi là trí nhớ hình tượng trong các

thời điểm khác nhau có nguồn gốc phát sinh không giống nhau. Trong giai đoạn

đầu, việc tái hiện lại hình ảnh thực hiện được nhờ lưu thông hưng phấn trong các

vòng nơ-ron. Sau đó, trong vòng vài phút, việc tái hiện lại các hình ảnh thực hiện

nhờ tăng tính thấm của các ion tại các vùng xi-nap do tăng bài xuất các chất môi

giới thần kinh vào khe xi-nap sau khi ngừng kích thích. Việc tái hiện lại các hình

ảnh sau vài ngày, vài tuần, hoặc lâu hơn nữa là do xuất hiện prô-tê-in hoạt hóa

bền vững có khả năng làm tăng tính thấm của màng sau xinap đối với các ion nên

việc chuyển sang trạng thái hưng phấn thực hiện được một cách dễ dàng hơn,

hình ảnh dễ dàng được tái hiện lại.

Các loại trí nhớ

Có 3 loại trí nhớ:

 Trí nhớ tạm thời  Trí nhớ ngắn hạn  Trí nhớ dài hạn

 Trí nhớ tạm thời:

Vùng ghi nhớ tạm thời là dạng ngắn nhất của trí nhớ. Vùng ghi nhớ này có

thể lưu giữ thông tin tạm thời sau khi nhân tố kích thích kết thúc. Nó hoạt động

như một tầng đệm để thu nhận kích thích từ 5 giác quan: thị giác, thính giác,

khứu giác và xúc giác. Thông tin được thu nhận chính xác nhưng trong khoảng

thời gian cực ngắn.

VÍ DỤ: khi chúng ta nhìn một vật gì đó chỉ trong vòng 1 giây và có thể nhớ

được nó trông như thế nào. Kích thích được nhận biết bởi các giác quan có thể bị

bỏ qua một cách có chủ đích, trong những trường hợp đó, chúng sẽ biến mất ngay

lập tức. Điều này không đòi hỏi sự nhận thức hay chú ý, và được xem như hoàn

toàn nằm ngoài kiểm soát. Bộ não được thiết kế để có thể chỉ xử lý thông tin có

ích về sau, và cho phép não nghỉ ngơi hoàn toàn, bỏ qua tất cả mọi thứ đang diễn

ra. Còn khi thông tin được nhận thức, nó sẽ được lưu lại trong vùng nhớ tạm thờimột cách tự động. Khác với những loại trí nhớ khác, trí nhớ tạm thời không thể

được kéo dài bằng cách luyện tập. Tuy nhiên, đây là bước cần thiết để lưu giữ

thông tin vào vùng trí nhớ ngắn hạn.

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 1

Trang 1

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 2

Trang 2

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 3

Trang 3

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 4

Trang 4

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 5

Trang 5

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 6

Trang 6

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 7

Trang 7

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 8

Trang 8

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 9

Trang 9

Tài liệu Kĩ năng nhớ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 18 trang baonam 6980
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Kĩ năng nhớ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Kĩ năng nhớ

Tài liệu Kĩ năng nhớ
Tải toàn bộ cuốn sách tại lamphong17761.blogspot.com 
góc nhìn sinh học về trí nhớ 
Ghi nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm của cá nhân 
dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong 
óc cái mà con người đã cảm nhận, hành động hay suy nghĩ. Nói vắn tắt hơn thì đó 
là khả năng lưu giữ và gợi lại những điều đã biết, đã trải qua. 
Tái hiện hình ảnh (trí nhớ hình tượng) 
Việc tái hiện lại các hình ảnh hay còn gọi là trí nhớ hình tượng trong các 
thời điểm khác nhau có nguồn gốc phát sinh không giống nhau. Trong giai đoạn 
đầu, việc tái hiện lại hình ảnh thực hiện được nhờ lưu thông hưng phấn trong các 
vòng nơ-ron. Sau đó, trong vòng vài phút, việc tái hiện lại các hình ảnh thực hiện 
nhờ tăng tính thấm của các ion tại các vùng xi-nap do tăng bài xuất các chất môi 
giới thần kinh vào khe xi-nap sau khi ngừng kích thích. Việc tái hiện lại các hình 
ảnh sau vài ngày, vài tuần, hoặc lâu hơn nữa là do xuất hiện prô-tê-in hoạt hóa 
bền vững có khả năng làm tăng tính thấm của màng sau xinap đối với các ion nên 
việc chuyển sang trạng thái hưng phấn thực hiện được một cách dễ dàng hơn, 
hình ảnh dễ dàng được tái hiện lại. 
Các loại trí nhớ 
Có 3 loại trí nhớ: 
 Trí nhớ tạm thời  Trí nhớ ngắn hạn  Trí nhớ dài hạn 
 Trí nhớ tạm thời: 
Vùng ghi nhớ tạm thời là dạng ngắn nhất của trí nhớ. Vùng ghi nhớ này có 
thể lưu giữ thông tin tạm thời sau khi nhân tố kích thích kết thúc. Nó hoạt động 
như một tầng đệm để thu nhận kích thích từ 5 giác quan: thị giác, thính giác, 
khứu giác và xúc giác. Thông tin được thu nhận chính xác nhưng trong khoảng 
thời gian cực ngắn. 
VÍ DỤ: khi chúng ta nhìn một vật gì đó chỉ trong vòng 1 giây và có thể nhớ 
được nó trông như thế nào. Kích thích được nhận biết bởi các giác quan có thể bị 
bỏ qua một cách có chủ đích, trong những trường hợp đó, chúng sẽ biến mất ngay 
lập tức. Điều này không đòi hỏi sự nhận thức hay chú ý, và được xem như hoàn 
toàn nằm ngoài kiểm soát. Bộ não được thiết kế để có thể chỉ xử lý thông tin có 
ích về sau, và cho phép não nghỉ ngơi hoàn toàn, bỏ qua tất cả mọi thứ đang diễn 
ra. Còn khi thông tin được nhận thức, nó sẽ được lưu lại trong vùng nhớ tạm thời 
một cách tự động. Khác với những loại trí nhớ khác, trí nhớ tạm thời không thể 
được kéo dài bằng cách luyện tập. Tuy nhiên, đây là bước cần thiết để lưu giữ 
thông tin vào vùng trí nhớ ngắn hạn. 
Thông tin được đưa từ trí nhớ tạm thời sang trí nhớ ngắn hạn qua quá trình 
chú ý (quá trình nhận thức có chọn lọc, tập trung vào 1 khía cạnh nào đó và bỏ 
qua tất cả những điều còn lại), quá trình này chọn lọc hiệu quả các kích thích 
chúng ta muốn ghi nhớ. 
Như vậy, muốn học bài tốt thì thông tin mà ta được tiếp xúc khi học phải có 
tác dụng kích thích cao đối với các giác quan. Điều này không hoàn toàn phụ 
thuộc vào các yếu tố đến từ bên ngoài, ta có thể chủ động cải thiện bằng số cách 
như: 
- rửa mặt mũi cho tỉnh ngủ trước khi học 
- xoa bóp bấm huyệt để cải thiện sự tỉnh táo và giúp sáng mắt 
- giữ cho cơ thể sự thoải mái khi học, tránh ngồi gần các tác nhân gây xao 
lãng 
... 
 Trí nhớ ngắn hạn: 
Trí nhớ ngắn hạn giúp lưu giữ thông tin tạm thời để làm việc (ví dụ: thông 
dịch viên phải vừa nhớ thông tin bằng 1 ngôn ngữ và dịch nó ra thành một ngôn 
ngữ khác).Tuy nhiên, thông tin này sẽ nhanh chóng biến mất trừ khi chúng ta cố 
gắng lưu giữ lại một cách có ý thức. Trí nhớ ngắn hạn là bước cần thiết đi đến 
giai đoạn tiếp theo, trí nhớ dài hạn. Sự chuyển thông tin đến vùng trí nhớ dài hạn 
để nhớ được lâu hơn có thể được kích hoạt và cải thiện bằng cách lặp lại thông tin 
đó, hoặc hiệu quả hơn nữa, bằng cách gắn thông tin đó với một ý nghĩa hoặc 
những kiến thức có sẵn. Động lực cũng là một điều quan trọng, khi thông tin liên 
quan đến một điều quan trọng của chúng ta, nó sẽ dễ được lưu vào bộ nhớ dài hạn 
hơn. 
Não có khả năng giữ lại các thông tin từ môi trường xung quanh trong một 
thời gian ngắn. Đó là bước đầu mã hóa các tín hiệu hướng tâm dưới dạng các 
xung thần kinh. Nếu không được chọn lọc và củng cố thì các thông tin ban đầu sẽ 
biến mất một cách nhanh chóng trong vài giây. Ngược lại, nếu não ưu tiên dành 
cho các xung hướng tâm một sự tập trung nhất định và tuyển chọn chúng, sẽ xảy 
ra các hiện tượng tiếp theo, chúng được lưu lại thêm vài phút nữa để thử thách 
dưới dạng trí nhớ trung gian. Sau khi xem xét và so sánh kỹ lưỡng, não sẽ dựa 
vào mức độ cần thiết và quan trọng của kích thích mà cố định nó dưới dạng trí 
nhớ dài một cách chắc chắn. Nếu không, các kích thích ban đầu sẽ mờ dần không 
thể tái hiện lại được. 
 Trí nhớ dài hạn 
Trí nhớ ngắn hạn có thể trở thành trí nhớ dài hạn qua quá trình hợp nhất, 
gồm việc nhắc lại nhiều lần và kết hợp với ý nghĩa. 
Việc mã hóa các tín hiệu hướng tâm dưới dạng trí nhớ dài là quá trình tích 
lũy và bổ sung kinh nghiệm cho con người. Nó đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của 
tất cả các phần thuộc vỏ bán cầu đại não và cấu trúc dưới vỏ ... à cho ông; Một cái chảo chống 
dính để thay cho cái chảo cũ ở nhà thì để khi đi khỏi mua sót, mẹ có thể tưởng 
tượng đến cái cảnh mèo và chuột như sau: 
Hôm đó: 
Con mèo mà trèo cây cau 
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà 
Chú chuột đi chợ đường xa 
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo 
Biết tin này, mèo ta tức khí, vào bếp chuẩn bị nồi 
niêu xoong chảo mà rằng: 
- Tiêu rồi bạn chuột tẻo teo 
Hành ngò đã sẵn, dầu mè đã sôi 
Thôi thì bếp đã bắc rồi 
Chịu khó vào chảo mà ngồi nha cưng! 
Làm thơ 
Với hệ thống từ gồm khoảng 10 000 âm tiết được sử dụng để làm từ hoặc 
cấu tạo nên từ thì chúng ta có thể tạo ra một số lượng từ, ngữ hai âm tiết là 
 còn trên thực tế, số từ, ngữ hai âm tiết trong tiếng Việt có thể ước 
lượng được là 200.000. Chính yếu tố đó đã tạo nên một tiếng Việt linh động, giàu 
chất nhạc như nhiều người nước ngoài hay nói về người Việt Nam: “Người Việt 
Nam nói như hát!” Ngay từ thời xưa, ông cha ta đã biết tận dụng lợi thế này để 
lưu truyền, phổ biến những kinh nghiệm quý giá, những điều hay lẽ phải: 
 Trong việc truyền bá y học: 
- Cơm no chớ có chải đầu, 
Đói lòng chớ có tắm lâu tật nguyền. 
- Đậu xanh, đu đủ, của chua 
Có tính rã thuốc chớ cho uống cùng 
 Trong lịch sử dựng và giữ nước: 
Bà Trưng quê ở châu Phong 
Giận người tham bạo thù chồng chẳng 
quên 
Chị em nặng một lời nguyền 
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân... 
(Lê Ngô Cát, Đại Nam quốc sử diễn ca) 
 Vào toán học: 
- tính diện tích hình thang: 
Tam giác bị cụt đầu 
Diện tích tính làm sao? 
Cạnh trên cạnh dưới cộng vào 
Đem nhân với nửa bề cao khắc thành 
(Lương Thế Vinh) 
Chúng ta nên tận dụng hết khả năng này vào trong học tập bằng cách tìm 
những tác phẩm như vậy hoặc tự sáng tác ra chúng để phục vụ cho việc ghi nhớ. 
MÃ VẠCH ĐIỆN TRỞ 
 Đen không, nâu một, đỏ hai 
Cam ba, vàng bốn màu này dễ thương 
Năm xanh lá, sáu xanh dương 
Bảy tím, xám tám, chín thường trắng tinh 
BÀI CA HÓA TRỊ 
Hidro (H) cùng với liti (Li), 
Natri (Na) cùng với kali (K) chẳng rời, 
Ngoài ra còn bạc (Ag) sáng ngời, 
Chỉ mang hoá trị I thôi chớ nhầm! 
Riêng đồng (Cu) cùng với thuỷ ngân (Hg). 
Thường II ít I chớ phân vân gì. 
Đổi thay II , IV là chì (Pb). 
Điển hình hoá trị của chì là II. 
Bao giờ cùng hoá trị II, 
Là ôxi (O) , kẽm(Zn) chẳng sai chút gì! 
Ngoài ra còn có canxi (Ca), 
Magiê (Mg) cùng với bari (Ba)một nhà. 
Bo (B) , nhôm (Al) thì hóa trị III. 
Cácbon (C) silic (Si) thiếc (Sn) là IV thôi! 
Thế nhưng phải nói thêm lời, 
Hóa trị II vẫn là nơi đi về. 
Sắt (Fe) II toan tính bộn bề, 
Không bền nên dễ biến liền sắt III. 
Phốtpho (P) III ít gặp mà, 
Photpho (P) V chính người ta gặp nhiều. 
Nitơ (N) hoá trị bao nhiêu ? 
I , II, III , IV phần nhiều tới V. 
Lưu huynh (S) lắm lúc chơi khăm, 
Khi II lúc IV , VI tăng tột cùng. 
Clo(Cl), Iot lung tung, 
II III V VII thường thì I thôi. 
Mangan(Mn) rắc rối nhất đời, 
Đổi từ I đến VII thời mới yên. 
Hoá trị II dùng rất nhiều, 
Hoá trị VII cũng được yêu hay cần. 
Bài ca hoá trị thuộc lòng, 
Viết thông công thức đề phòng lãng 
quên. 
Học hành cố gắng cần chuyên, 
Siêng ôn chăm luyện tất nhiên nhớ nhiều. 
- không rõ tác giả - 
văn vần 
Sử dụng văn vần cũng là một phương pháp phổ biến, dễ làm. Ví dụ: 
Các nhóm trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học: 
IA:lâu nay không rảnh coi phim (Li Na K Rb Cs Fr) 
IIA:Bẻ miệng cá sấu bấm răng (Be Mg Ca Sr Ba Ra) 
IIIA:bốn anh gà inh tỏi (B Al Ga In Tl) 
IV:cô sinh ghé sang phố (C Si Ge Sn Pb) 
V: nhớ phở anh sang bên (Ni P As Sb Bi) 
VI:ông sả sẻ thích phở (O S Se Te Po) 
VII:Phải chi bé yêu anh (F Cl Br I At) 
Khí hiếm:hằng nga ăn khúc xương rồng (He Ne Ar Kr Xe Rn) 
CÔNG THỨC LƯỢNG GIÁC 
Sin đi học, 
cos không hư, 
tan đoàn kết, 
cot kết đoàn. 
 ( ) 
 ( ) 
Sin thì sin cos cos sin 
Cos thì cos cos sin sin dấu trừ 
 ( ) 
tan tổng thì lấy tổng tan 
chia một trừ với tích tan dễ òm. 
Cos cộng cos bằng hai cos cos 
Cos trừ cos bằng trừ hai sin sin 
Sin cộng sin bằng hai sin cos 
Sin trừ sin bằng cos sin 
 Công thức nhân ba: 
Nhân ba một góc bất kỳ, 
sin thì ba bốn, cos thì bốn ba, 
dấu trừ đặt giữa hai ta, lập phương 
chỗ bốn,... thế là xong phim. 
 ( )
Tan ta cộng với tan mình bằng sin hai 
đứa trên cos mình cos ta. 
Tan đôi ta ( ) bằng ta lấy đôi 
tan ( ) 
Chia cho một trừ lại bình tan ra liền 
Cosin của hai góc đối bằng nhau; sin 
của hai góc bù nhau thì bằng nhau; phụ 
chéo là 2 góc phụ nhau thì sin góc này = 
cos góc kia, tan góc này = cot góc kia; tan 
của hai góc hơn kém pi thì bằng nhau. 
Cos đối, sin bù, phụ chéo, hơn kém pi 
tamg. 
Công thức vật lý 11 
Công của điện trường: Anh quên em đi 
Điện dung tụ phẳng: 
 Chị em sang ngồi bốn phía khu dinh 
Công của dòng điện: Anh uống ít thôi 
Công của dụng cụ toả nhiệt: 
Anh rỉ tai 
Hai định luật Faraday về điện phân 
Mỗi khi qua, kêu các anh nên ca 
một phần. 
Công thức Faraday về điện phân 
Mới anh uống ít trà trên phản này 
Ngẫu lực đặt lên khung dây có dòng 
điện đặt trong từ trường: 
 ( ⃗ ⃗ ) 
Mẹ bác sĩ ít sợ bệnh nấm 
Từ thông qua diện tích S 
 ( ⃗ ⃗ ) 
Phi sang Nhật Bản cùng nhỏ bạn. 
Suất điện động cảm ứng trong một 
đoạn dây dẫn chuyển động trong từ 
trường: ( ⃗ ) 
Em bỏ vào lọ sình bộ vải 
Công thức vật lý 12 
Tần số góc, chu kỳ, tần số của con lắc lò ôm không mỏi, thấy mà khiếp, phê 
xo: √
 √
√
không mệt. 
Tần số góc, chu kỳ, tần số của con lắc đơn: 
 √
 √
√
ôm ghiền luôn, thôi làm gì, phê 
ghê lắm. 
Vận tốc của con lắc đơn: 
 √ ( ) 
vợ hai làm gì, có như không 
Lực căng dây của con lắc đơn 
√ ( ) 
thấy mà ghê, ba cô trừ hai cô 
không 
Năng lượng điện từ trường: 
thế năng bằng nửa củ, bằng nửa lỉ 
Bước song: 
 ai ngồi trên đê nhìn bước sóng 
rút gọn từ để nhớ 
Đôi khi, để nhớ một chuỗi các sự việc, ta có thể rút gọn các từ lại để nhớ ngắn 
hơn, vần hơn. Ví dụ: Các vị thuốc bổ trung ích khí thang: đảng sâm, hoàng kỳ, 
đương qui, bạch truật, thăng ma, sài hồ, trần bì, chích cam thảo. Để nhớ các vị 
trong bài thuốc này, ta có thể đọc rút gọn các từ thành: đảng sâm sâm, hoàng kỳ 
 kỳ, đương qui qui, bạch truật truật, thăng ma thăng, sài hồ sài, trần bì 
 trần, chích cam thảo cam. Khi đó, bài thuốc được rút gọn thành: sâm, kỳ, quy, 
truật, thăng, sài, trần, cam. 
NHỚ SỐ (kỹ năng NSV) 
Để nhớ số, ngày tháng,,chúng ta thường liên tưởng tới ngày sinh nhật bạn 
bè, người thân,....các ngày đáng nhớ và dễ nhớ như ngày Quốc Khánh 2-9,.... hay 
căn cứ vào số chữ cái trong các chữ của một câu văn, câu thơ: để nhớ chỉ số 
 (31 chữ số), năm 1943 
Nguyễn Bá Thái đã đưa ra bài thơ: 
Cầu Ô tuân ý Cao-xa 
Ngân-giang lẻ phượng đậm đà bắc ngang 
Tưng-bừng nghênh – đón cô – nương 
Chàng - Ngưu vui tỏ nỗi thương-ai tràn 
Thường là chuyện khóc khó can 
Hóa – thành mưa lũ miên - man tháng – ngày 
(chú ý rằng các chữ có gạch nối trong bài thơ được coi như một chữ, chẳng 
hạn Cao-xa: “cao” có “3” chữ, “xa” có 2 chữ nên “Cao-xa” biểu thị “2+3=5”, 
Ngân-giang biểu thị 9) 
Phải công nhận, đây là một cách rất hay và độc đáo. Tuy nhiên, để làm được 
một bài thơ, một câu văn để đếm số như vậy rất tốn công và không hề dễ. Do đó, 
tôi xin đề xướng một phương pháp nhớ số dựa trên đặc thù của tiếng Việt, tạm gọi 
là kỹ năng NSV (nhớ số Việt): 
Đầu tiên, gán cho mỗi chữ số một kí tự trong bảng chữ cái và ở đây, tôi chọn 
mỗi chữ cái ứng với mỗi chữ số là chữ cái đầu tiên của chữ mà ta đọc thành từ số. 
Ví dụ: 1 đọc là “một” nên chữ cái gắn với số 1 là “m”. 
Riêng số “3”, ta gắn là chữ “a” vì nếu dùng chữ “b” sẽ bị trùng do “ba”, và 
“bốn”, bảy đều bắt đầu bằng chữ “b” ( “a” là chữ cái tận cùng của chữ “ba”). 
Cũng với một lý do tương tự, ta gắn số 7 với chữ “y” vì “ba”, và “bốn”, bảy 
đều bắt đầu bằng chữ “b” ( “y” là chữ cái tận cùng của chữ “bảy”). 
Như vậy, các chữ số từ 0-9 được gán như sau: 
Chữ số Chữ cái 
0 K 
1 M 
2 H 
3 A 
4 B 
5 N 
6 S 
7 Y 
8 T 
9 C 
và ta sử dụng các chữ cái này để tạo thành câu, thơ, 
Ví dụ: để nhớ 19-5-1890 là sinh nhật Bác Hồ, ta thực hiện các bước sau: 
1.Ghi ra các chữ cái đại diện cho mỗi chữ số: 
M C N M T C K 
2. Viết thành một câu có ý nghĩa: 
Một Cây Nấm Mọc Trong Cây Khế 
Khi phải ghi nhớ một chuỗi sự kiện kèm mốc thời gian, ta có thể kết hợp cách 
trên với việc tạo câu có ý nghĩa gần với sự kiện. 
VÍ DỤ 2 Chiến tranh thế giới. Nhớ các chuỗi sự kiện: 
7 - 1943: Phát xít Ý sụp đổ 
9-5-1945: Đức ký văn bản đầu hàng vô điều kiện 
6-8-1945: Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma làm 8 vạn 
người chết 
15-8-1945: Nhật đầu hàng vô điều kiện 
thực hiện 
1.Ghi ra các chữ cái đại diện cho mỗi chữ số: 
Y M C B A 
C N M C B N 
S T M C B N 
M N T M C B N 
2.Ta viết thành: 
Ý mới chết bởi ai, (Phát xít Ý mới sụp đổ) 
có người mạnh chịu bại nữa (Đức – người mạnh, thua nên phải kí văn bản 
đầu hàng vô điều kiện) 
Sau thì Mỹ cho bom Nhật (Mỹ ném bom Nhật) 
Mốt Nhật thảm mà chịu bên này (Nhật thảm quá nên đành đầu hàng vô điều 
kiện)  
TƯ DUY 
Các phương pháp tư duy đều hữu dụng trong việc trợ giúp trí nhớ. 
VÍ DỤ Ghép lò xo (Vật lý 12). Ta có thể so sánh điều cần nhớ với một điều khác 
để nhớ. Chẳng hạn: trước đây, ta từng học công thức ghép điện trở: 
Ghép nối tiếp: ; Ghép song song: 
Và bây giờ, ta được học công thức ghép lò xo (vật lý 12) như sau: 
Ghép nối tiếp: 
; Ghép song song 
Thì ta có thể nhớ công thức ghép lò xo bằng cách nhớ: “ghép lò xo ngược với 
ghép điện trở”.  
Ví dụ 2 [cụ thể hóa]: hàm lồi, lõm. Để nhớ thế nào là hàm lồi, hàm lõm, một 
số người thường nhớ rằng là hàm lồi. Ta thấy . Như vậy, ta nhớ 
lại ngay, hàm lồi là hàm có đạo hàm cấp hai lớn hơn hoặc bằng 0. 
Ví dụ 3 [mô phỏng lại từ video How to speed up chemical reactions (and get a 
date) - Aaron Sams – Ted Edu]: để nhớ được 5 cách làm tăng tốc độ của một phản 
ứng hóa học, một nhà hóa học đã hồi tưởng lại ngày cô có cuộc hẹn dạ tiệc khiêu 
vũ khi còn là học sinh cấp III: say mê ngồi tự học vào giờ nghỉ, cô không để ý thời 
gian và sắp bị trễ học và cũng không biết rằng Harold đang ở ngay lối rẽ và cũng 
sắp trễ giờ. 
Tiếng trống vang lên. Cả hai vội vã chạy vào lớp và khi đến ngã rẽ thì cả hai 
va thẳng vào nhau, mạnh đến nỗi sách vở trên tay hai người rơi hết xuống đất. 
"Mình xin lỗi," anh ta nói. "Để mình giúp bạn." rồi tử tế giúp cô nhặt lại sách của 
mình, lịch sự tỏ ý cùng cô vào lớp. Chính nhờ cuộc va chạm đó, lửa tình đã nhen 
nhóm và bốc lên giữa hai người, họ rủ nhau đi dạ tiệc khiêu vũ năm ấy. 
Vậy, từ ví dụ này chúng ta có thể thấy: chìa khóa để có một cuộc hẹn dạ tiệc 
khiêu vũ đó là đâm sầm vào một ai đó và làm rơi sách khỏi tay người đó. Nhưng 
không phải cuộc va chạm nào cũng dẫn đến cuộc hẹn dạ tiệc. Các cuộc va chạm 
phải có hai đặc điểm quan trọng: một là phải đúng hướng để làm rơi sách khỏi tay 
người đó, hai là, phải đủ năng lượng để làm rơi sách xuống. Tương tự như vậy, để 
phản ứng xảy ra nhanh chóng: 
- Đầu tiên, chúng ta cần làm hẹp kích thước hành lang lại. Điều này sẽ làm 
việc di chuyển an toàn trong hành lang khó khăn hơn, gây ra nhiều cuộc va 
chạm hơn so với trong hành lang rộng hơn. Nhờ tăng số cuộc va chạm, 
chúng ta làm tăng xác suất cuộc va chạm xảy ra theo đúng hướng và đủ 
năng lượng để tạo ra cuộc hẹn đến dạ tiệc khiêu vũ. Và bây giờ, nói theo 
ngôn ngữ Hóa học, điều này giống như việc làm giảm thể tích bình phản 
ứng hoặc hỗn hợp phản ứng. Làm như vậy, các hạt sẽ đến gần nhau hơn, 
và nhiều cuộc va chạm xảy ra hơn. Nhiều cuộc va chạm hơn nghĩa là xác 
suất xảy ra nhiều cuộc va chạm có năng lượng và cấu hình phù hợp hơn. 
- Thứ hai, ta tăng tổng số học sinh toàn trường lên. Nhiều học sinh hơn tức 
là sẽ có nhiều cuộc va chạm hơn. Bằng cách tăng số lượng hạt cho cuộc va 
chạm, chúng ta tạo ra môi trường để có thể xảy ra nhiều cuộc va chạm 
hơn. 
- Thứ ba, chúng ta phải giảm thời gian nghỉ giữa các tiết học. Chúng ta hãy 
giảm nó xuống một nửa đi. Làm như vậy, học sinh sẽ cần phải di chuyển 
nhanh hơn để đi từ lớp này sang lớp tiếp theo. Tăng vận tốc sẽ đảm bảo 
cho các cuộc va chạm có năng lượng phù hợp cần thiết để làm rơi sách. 
Điều này tương tự như việc tăng nhiệt độ của hỗn hợp phản ứng. Nhiệt độ 
cao hơn nghĩa là các hạt sẽ di chuyển nhanh hơn. Các hạt di chuyển nhanh 
hơn nghĩa là nhiều năng lượng hơn, và xác suất xảy ra va chạm trong phản 
ứng lớn hơn. 
- Thứ tư, các học sinh không được đi thành từng cụm. Đi thành từng cụm 
nghĩa là các học sinh ở bên ngoài cụm sẽ ngăn những bạn ở giữa thực hiện 
bất kỳ cuộc va chạm nào. Bằng cách tách nhau ra, mỗi học sinh sẽ có 
nhiều diện tích tiếp xúc hơn để sẵn sàng cho một cuộc va chạm. Khi các 
hạt dính thành cụm, diện tích bề mặt rất nhỏ, và chỉ những hạt bên ngoài 
mới có thể va chạm.Tuy nhiên, nhờ tách các cụm này ra thành các hạt đơn 
lẻ, tổng diện tích bề mặt tăng lên, và mỗi hạt làm lộ ra bề mặt có thể phản 
ứng. 
- Cách thứ 5: chúng ta thuê một bà mối. Va vào nhau và làm rơi sách thì thật 
quá bạo lực nên ta tìm cách để có cuộc hẹn mà cần ít năng lượng khởi đầu 
hơn. Và bà mối sẽ giúp chuyện này. Bà mối sẽ giúp cặp đôi gặp nhau dễ 
dàng hơn bằng cách sắp xếp một buổi xem mắt. Bà mối của chúng ta giống 
như một chất xúc tác. Các chất xúc tác hóa học giúp làm giảm năng lượng 
hoạt hóa, hay nói cách khác là làm giảm năng lượng cần thiết để bắt đầu 
phản ứng. Chúng thực hiện điều này bằng cách mang hai chất đến gần 
nhau và định đúng hướng cho chúng trong không gian để cả hai có thể gặp 
nhau với cấu hình phù hợp và cho phép phản ứng xảy ra. 
Cuối cùng, khi bạn nghĩ là bạn đã nhớ được điều cần nhớ, hãy thử nhắm mắt 
và vẽ lại hoặc nhẩm lại trong đầu toàn bộ những gì mình vừa học hoặc tự đặt, tự trả 
lời các câu hỏi về những điểm chính của bài xem bạn đã nhớ được hết những điều 
cần thiết chưa. Nếu chưa thuộc phần nào thì hãy ghi nhận phần chưa thuộc mở tài 
liệu ra coi lại chỗ chưa thuộc và học tiếp. Và đừng quên rằng: Bên cạnh việc thành 
lập các phản xạ mới cũng xảy ra quá trình ức chế phản xạ, nếu phản xạ đó không 
còn cần thiết đối với đời sống. Do đó, nếu bạn muốn kiến thức không bị lãng quên 
đi dần với thời gian thì nên ôn tập, củng cố kiến thức đều đặn. 
Hệ thống hóa những điều cần nhớ và kết hợp cái mới với những gì đã học để củng cố 
kiến thức, giải thích các sự việc, hiện tượng, hay nói cách khác, sắp xếp những gì đã học cho 
có hệ thống và tập suy tư để ra vào hệ thống đó cách thường xuyên là đều tối cần thiết cho việc 
cải thiện trí nhớ cũng như sử dụng hiệu quả những điều đã nhớ. Chỉ có bộ óc của con người 
mới phát huy được tất cả những cái hay, cái mới và phát huy mãi mãi chứ không phải những 
điều đã ghi nhớ. 
Tài liệu tham khảo: 
1. vi.wikipedia.org/wiki/Trí_nhớ 
2. bài giảng Vật lý 12 – Lê Tấn Hậu – THPT. Nguyễn Hữu Huân 
– TP.HCM 
3. Nâng cao và phát triển toán 8 – Vũ Hữu Bình – NXB Giáo Dục 
2006. 
4. Bài giảng giải phẫu học – ĐH Y Hà Nội – NXB. Y học. 
5. Bài giảng giải phẫu & Sinh lý người – Phạm Văn Hạp – Phạm 
Thị Mười Ba – trường Đại học Đồng Tháp – khoa Sinh học. 
Và một số bài viết trên mạng khác. 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_ki_nang_nho.pdf