Tác động của vốn con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu tác động của vốn
con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 1990-2018.
Vốn con người được đo lường thông qua tỷ lệ nhập học tiểu học,
sức khỏe của lao động, dân số lao động và biến kiểm soát thu nhập
bình quân đầu người. Phát triển tài chính được đo lường thông qua
tỷ lệ tín dụng nội địa cung cấp cho khu vực tư nhân. Nghiên cứu
áp dụng mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) để đánh giá tác
động trong ngắn hạn và dài hạn giữa vốn con người và phát triển
tài chính. Kết quả cho thấy các biến số của vốn con người có tác
động tích cực đến phát triển tài chính ở Việt Nam, ngoại trừ dân số
lao động có tác động ngược chiều.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của vốn con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam
Nguyễn M. Hà, Nguyễn Đ. Hiễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 3-16 3 Tác động của vốn con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam The impact of human capital on financial development in Vietnam Nguyễn Minh Hà1, Nguyễn Đăng Hiễn1* 1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: hien.nd@ou.edu.vn THÔNG TIN TÓM TẮT DOI:10.46223/HCMCOUJS. econ.vi.16.2.1302.2021 Ngày nhận: 02/11/2020 Ngày nhận lại: 11/12/2020 Duyệt đăng: 28/12/2020 Từ khóa: vốn con người, phát triển tài chính Keywords: human capital, financial development Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu tác động của vốn con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 1990-2018. Vốn con người được đo lường thông qua tỷ lệ nhập học tiểu học, sức khỏe của lao động, dân số lao động và biến kiểm soát thu nhập bình quân đầu người. Phát triển tài chính được đo lường thông qua tỷ lệ tín dụng nội địa cung cấp cho khu vực tư nhân. Nghiên cứu áp dụng mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) để đánh giá tác động trong ngắn hạn và dài hạn giữa vốn con người và phát triển tài chính. Kết quả cho thấy các biến số của vốn con người có tác động tích cực đến phát triển tài chính ở Việt Nam, ngoại trừ dân số lao động có tác động ngược chiều. ABSTRACT The study is conducted to investigate the impact of human capital on financial development in Vietnam, the period 1990- 2018. Human capital is measured through primary school enrollment, worker health, the working population, and the variable that controls GDP per capital. Financial development is mearsured through domestic credit to privete sector. The study applies Autoregressive Distributed Lag (ARDL) to assess the short run and long run impact between human capital and financial development. The results show that the variables of human capital have a positive impact on financial development in Vietnam, except that the working population has the opposite effect. 1. Giới thiệu Để đánh giá sự phát triển toàn diện của một quốc gia hay cộng đồng thì rõ ràng các chỉ số kinh tế không phải là thước đo hoàn hảo. Vì tăng trưởng kinh tế chỉ mới phản ánh được một mặt của quá trình phát triển xã hội loài người, mà con người thì không chỉ bó hẹp trong quan hệ kinh tế và nhu cầu vật chất, con người còn có những nhu cầu khác như giáo dục, sức khỏe, các hoạt động xã hội Xuất phát từ những điểm như vậy, các nhà khoa học đã nảy sinh ra cách thức tiếp cận mới về phát triển. Bao quát cho sự phát triển này đó chính là khái niệm vốn con người (T. D. Nguyen, 2014). Theo Sehrawat và Giri (2017) sự phát triển của ngành tài chính và phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, điều mà bất kỳ một quốc gia nào cũng hướng 4 Nguyễn M. Hà, Nguyễn Đ. Hiễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 3-16 đến. Ngược lại, lĩnh vực tài chính phát triển với nguồn nhân lực thấp dẫn đến tăng trưởng kinh tế thấp. Theo báo cáo của IMF (2014) xem xét chỉ số phát triển tài chính của Việt Nam được xếp ở nhóm nước có chỉ số phát triển thị trường tài chính thấp nhất với 0,236 điểm, xếp thứ 95/183 nước trên thế giới. Theo Hatemi-J và Shamsuddin (2016) về mặt lý thuyết vốn con người có thể thúc đẩy phát triển tài chính thông qua việc thu hẹp lỗ hổng thông tin và nhu cầu ngày càng tăng đối với các công cụ tài chính khác nhau. Ngoài ra, phát triển tài chính được coi là quan trọng như vốn con người trong việc góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Vai trò của ngành tài chính trong nền kinh tế đã trở nên dễ bị tổn thương hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Một số loại lý thuyết và thực nghiệm của các nghiên cứu đã được thực hiện về phát triển nguồn nhân lực và phát triển tài chính sau cuộc khủng hoảng này là khá nhiều, như nghiên cứu của Nik, Zahra, Yunes, và Nima (2013) về mối quan hệ giữa vốn con người và phát triển tài chính ở Iran, nghiên cứu của Satrovic (2017) về phát triển tài chính và vốn con người ở Thổ Nhĩ Kỳ hay công trình của Giri (2014) về vốn con người và phát triển tài chính ở Ấn Độ tuy nhiên đối với Việt Nam hiện còn rất ít công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai biến số này. Vì vậy, nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích kiểm tra và đánh giá được tác động của vốn con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam qua đó nhằm gợi mở những chính sách để nâng cao vốn con người đối với sự phát triển tài chính ở Việt Nam hiện nay. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Vốn con người và đo lường vốn con người Theo Schultz (1961) đã khởi đầu cho sự quan tâm đến khái niệm vốn con người, ông cho rằng yếu tố hình thành nên vốn con người là kỹ năng và tri thức mà họ thu nhận được. Theo Laroche, Mérette, và Ruggeri (1999) vốn con người có ba đặc điểm: (i) vốn con người là hàng hóa bất khả thương; (ii) vốn con người vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính cộng đồng; (iii) vốn con người có cả lượng và chất. Theo Becker và Murphy (2009) vốn con ... h cực đến phát triển tài chính ở thời kỳ sau đó. Một điều tương tự đối với hệ số hồi quy của biến D(DLNPOPU) âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Biến dân số lao động trong ngắn hạn có tác động ngược chiều với phát triển tài chính ở thời kỳ hiện tại, và có tác động tích cực đến phát triển tài chính ở thời kỳ sau đó. Bảng 5 Tác động trong ngắn hạn của các biến Tên biến Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Thống kê t Xác suất C 0.172190 0.020255 8.501245 0.0000 D(DLIFE) -0.575057 0.181435 -3.169483 0.0059 D(DLIFE(-1)) 0.587961 0.185740 3.165502 0.0060 D(DLNPOPU)) -622.7735 235.1996 -2.647850 0.0175 D(DLNPOPU(-1)) 1264.107 245.7465 5.143949 0.0001 CointEq(-1) -0.996152 0.102539 -9.714872 0.0000 R2 0.828494 Trung bình biến phụ thuộc 0.001445 R2 hiệu chỉnh 0.785617 S.D. biến phụ thuộc 0.098342 Sai số phần dư 0.045534 Akaike info criterion -3.141538 Tổng bình phương phần dư 0.041467 Schwarz criterion -2.851208 Tỷ lệ hàm hợp lý 46.84000 Hannan-Quinn criter -3.057934 Thống kê F 19.32274 Durbin-Watson stat 2.183123 Xác suất (thống kê F) 0.000000 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ EVIEWS Cũng theo bảng 5 hệ số CointEq(-1) là tốc độ tự điều chỉnh ECM(-1) = -0.996152 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% có thể hiểu rằng một khi có một sự thay đổi nào đó từ các biến số của vốn con người hay có những biến động trong ngắn hạn như sự tăng giảm về số lượng lao động hay sự thay đổi tuổi thọ của lao động sẽ làm cho sự phát triển tài chính lệch khỏi giá trị cân bằng dài hạn, nhưng ngay tại kỳ tiếp theo (trong nghiên cứu này là một năm) sau đó giá trị của những tác động này có xu hướng trở về vị trí cân bằng với tốc độ điều chỉnh về đường cân bằng dài hạn là 99,6152%. Có thể nhận thấy, tốc độ điều chỉnh ECM(-1) là rất cao, gần như là tuyệt đối khi có các “cú sốc” trong ngắn hạn sẽ làm cho biến phát triển tài chính hợp nhất về điểm cân bằng ở thời kỳ kế tiếp. 4.6. Các kiểm định cho mô hình Bảng 6 Tổng hợp các kiểm định mô hình Loại kiểm định Giá trị Obs*R-squared Kiểm định tương quan chuỗi (Breusch-Godfrey) 2.266 (Prob = 0.1322) Kiểm định phương sai thay đổi (White test) 10.415 (Prob = 0.3179) Kiểm định sự phù hợp của mô hình (Ramsey RESET test) 1.359 (Prob = 0.2618) Kiểm định phân phối chuẩn (Normality test) 4.806 (Prob = 0.0904) Nguồn: Tính toán của tác giả Nguyễn M. Hà, Nguyễn Đ. Hiễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 3-16 13 Theo bảng 6 có thể thấy tất cả các kiểm định của mô hình có Prob > 0.05 nên chấp nhận giả thiết mô hình không gặp phải các khuyết tật phương sai thay đổi, tự tương quan, và mô hình có phần dư theo phân phối chuẩn. Kiểm định CUSUM và CUSUMSQ cho thấy mức độ ổn định của mô hình là đảm bảo khi kiểm định tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư đều nằm trong dải cộng trừ ứng với mức ý nghĩa 5% (Hình 2). -12 -8 -4 0 4 8 12 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 CUSUM 5% Significance -0.4 0.0 0.4 0.8 1.2 1.6 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 CUSUM of Squares 5% Significance Hình 2. Kết quả kiểm định CUSUM và CUSUMSQ của mô hình Nguồn: Tác giả tổng hợp từ EVIEWS 5. Kết luận Nghiên cứu tác động của vốn con người đến phát triển tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2018 được triển khai bằng phương pháp định lượng, dữ liệu chuỗi thời gian hằng năm từ năm 1990 – 2018, nguồn dữ liệu thứ cấp được tác giả thu thập từ World bank. Về mối quan hệ trong ngắn hạn, kết quả hồi quy cho thấy có hai biến độc lập là tuổi thọ của lao động và số lượng lao động có hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê tác động lên biến phát triển tài chính. Các biến này tác động âm đến phát triển tài chính trong năm hiện tại và tác động dương đến phát triển tài chính ở năm trước đó (tức độ trễ I(-1)). Theo hiểu biết của tác giả, việc có tác động ngược chiều ở năm hiện tại phản ánh trong ngắn hạn nếu có sự gia tăng về tuổi thọ của lao động hay số lượng lao động tăng đột biến trong năm hiện tại sẽ gây khó khăn cho phát triển tài chính ngay năm đó, bởi lẽ việc tiếp cận đối với các dịch vụ tài chính cần có thời gian để có thể thích nghi được. Kết quả trong ngắn hạn như vậy là phù hợp với kết quả nghiên cứu của Awan và Kamran (2017). Đối với quan hệ trong dài hạn, kết quả hồi quy cho thấy hệ số hồi quy cả bốn biến tỷ lệ nhập học tiểu học, tuổi thọ của lao động, số lượng lao động và thu nhập bình quân đầu người đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5% tác động đến phát triển tài chính. Có ba biến là tỷ lệ nhập học tiểu học, tuổi thọ của lao động và thu nhập bình quân đầu người có hệ số hồi quy dương với phát triển tài chính. Đây là ba biến có tác động tương đối lớn và ảnh hưởng đến phát triển tài chính của Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2018. Hojo (2003) cho rằng tỷ lệ nhập học giáo dục thúc đẩy tăng trưởng gián tiếp thông qua việc cải thiện năng suất. Vì vậy, tỷ lệ nhập học tiểu học có tác động trong dài hạn đến phát triển tài chính thực sự là phù hợp. Tương tự như tỷ lệ nhập học, tuổi thọ của lao động và thu nhập bình quân đầu người đều có tác động tích cực đến phát triển tài chính về lâu dài. Kết quả của nghiên cứu này phù hợp với kết quả các nghiên cứu trước như Hakeem và Oluitan (2012), Sethi và cộng sự (2019); Zaman, Izhar, Khan, và Ahmad (2012); Zaidi và cộng sự (2019); Đối với biến số lượng lao động, trong dài hạn có tác động âm đến phát triển tài chính. 14 Nguyễn M. Hà, Nguyễn Đ. Hiễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 3-16 Từ kết quả của nghiên cứu, tác giả đề xuất các khuyến nghị như sau: Để phát triển tài chính ở Việt Nam thực sự có hiệu quả và ngày càng đi vào chiều sâu, các cơ quan chuyên trách cần thực hiện các khuyến nghị như: Đối với tỷ lệ nhập học tiểu học, các cơ quan chuyên trách như Bộ Giáo dục đào tạo cần có chính sách thúc đẩy nhiều hơn nữa, trong việc vận động người dân tiếp tục thực hiện đưa trẻ đến trường đúng tuổi quy định, qua đó tiếp tục gia tăng tỷ lệ nhập học bậc tiểu học ở Việt Nam trong thời gian tới. Về tuổi thọ của lao động, với kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy có tác động tích cực đến phát triển tài chính tại Việt Nam. Do đó, trong giai đoạn sắp tới cần có nhiều hơn nữa các chính sách, giải pháp để hỗ trợ, giúp cải thiện tuổi thọ của lao động lên cao hơn. Đối với số lượng lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp thủy sản, nhà nước cần có chính sách phù hợp để giảm bớt tỷ trọng cũng như thâm hụt lao động trong lĩnh vực này nhằm giúp cho lực lượng lao động có cơ hội chuyển sang các ngành nghề liên quan đến xu hướng phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Thu nhập bình quân đầu người có ảnh hưởng tích cực đến phát triển tài chính của Việt Nam, bởi lẽ khi thu nhập của người dân ổn định, việc chi tiêu dùng cho các hoạt động tài chính cũng vì vậy mà phát triển hơn. Nhà nước, chính phủ hay các cơ quan chuyên trách như các bộ tài chính, bộ công thương cần có nhiều quy định cũng như các chính sách hỗ trợ tích cực và nhanh chóng để nhiều công ty chú trọng hơn trong việc hoàn thiện các chương trình, các phần mềm thanh toán, qua đó sẽ giúp cho thị trường tài chính ở Việt Nam ngày càng gia tăng. LỜI CÁM ƠN Nghiên cứu này là một phần trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. Tài liệu tham khảo Arif, I., & Khan, L. (2019). The role of financial development in human capital development: Evidence from Pakistan. Pakistan Journal of Commerce and Social Sciences, 13(4), 1029-1040. Awan, A. G., & Kamran, M. (2017). Impact of human capital development on Pakistan’s economic growth. Global Journal of Management, Social Sciences and Humanities, 3(3), 418-439. Bardi, W., & Ayouni, S. E. (2016). Human capital, financial development and economic growth: Empirical evidence from Mediterranean countries. International Research Journal of Finance and Economics, 153, 74-84. Becker, G. S., & Murphy, K. M. (2009). Social economics: Market behavior in a social environment. Cambridge, MA: Harvard University Press. Dickey, D., & Fuller, W. A. (1981). The likelihood ratio statistics for autoregressive time series with a unit root. Econometrica, 49(4), 1057-1072. Dinh, H. P., & Tu, H. D. (2016). Tác động của vốn con người đến tăng trưởng kinh tế Đồng bằng Sông Cửu Long [The impact of human capital on economic growth in the Mekong Delta]. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 27(2), 2-16. Engle, R. F., & Granger, C. W. J (1987). Co-integration and error correction: Representation, estimation, and testing. Econometrical, 55(2), 251-276. Nguyễn M. Hà, Nguyễn Đ. Hiễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 3-16 15 Florin, J., & Schultze, W. (2000). Social capital and fundability of high potential new ventures. Paper presented at the Academy of Management Meetings, Toronto. Giri, M. S. (2014). The relationship between financial development indicators and human development in India. International Journal of Social Economics, 41(12), 1194-1208. Gujarati, D. (2003). Basic econometrics (4th ed.). Boston, MA: McGraw-Hill. Hakeem, M., & Oluitan, O. (2012). Financial development and human capital in South Africa: A time-series approach. Research in Applied Economics, 4(3), 18-38. Hatemi-J., A., & Shamsuddin, M. (2016). The causal interaction between financial development and human development in Bangladesh. Applied Economics Letters, 23(14), 995-998. Hojo, M. (2003). An indirect effect of education on growth. Economics Letters, 80(1), 31-34. International Monetary Fund (IMF). (2014). Redistribution, inequality, and growth. Retrieved June 15, 2020, from https://www.imf.org/en/Publications/Staff-Discussion- Notes/Issues/2016/12/31/Redistribution-Inequality-and-Growth-41291 Johansen, S. (1992). Determination of cointegration rank in the presence a linear trend. Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 54(3), 383-397. Johansen, S., & Juselius, K. (1990). Maximum likelihood estimation and inference on cointegration - with applications to the demnad for money. Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 52(2), 169-210. Khan, Z, Hussain, M., Shabaz, M., Yang, S., & Jiao, Z. (2020). Natural resource abundance, technological innovation, and human capital nexus with financial development: A case study of China. Resources Policy, 65(1), 101585. doi:10.1016/j.resourpol.2020.101585 Kilic, C., & Ozcan, B. (2018). The impact of financial development on human capital: Evidence from emerging market economies. International Journal of Economics and Financial Issues, 8(1), 258-267. Laroche, M., Mérette., M., & Ruggeri, G. C. (1999). On the concept and dimensions of human capital in a knowledge-based economy context. Canadian Public Policy/Analyse De Politiques, 25(1), 87-100. Le, V. T. (2017). Phát triển tài chính và phương pháp đánh giá: Nghiên cứu đối với trường hợp Việt Nam [Financial development and assessment methods: A case study of Vietnam]. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 8(471), 56-64. Merton, R. C., & Bodie, Z. (1995). A conceptual framework for analyzing the financial environment. In Chap 1 The Global Financial System: A Functional Perspective (pp. 3-31). Boston, MA: Harvard Business School Press. Nafziger, E. W. (2006). Economic development (4th ed.). New York, NY: Cambridge University Press. Nguyen, K. D. (2013). Vai trò vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Duyên hải Nam Trung Bộ giai đoạn 2000-2011 [The role of human capital in economic growth of provinces and cities in the South Central Coast in the 2000-2011 period] (Doctoral dissertation, Open University Ho Chi Minh City, Ho Chi Minh, Vietnam). Nguyen, T. D. (2014). Nghiên cứu phát triển con người: Quan điểm, xu hướng và những gợi mở [Human development research: Perspectives, trends and implications]. Tạp chí Nghiên cứu Con người, 1(70), 11-17. 16 Nguyễn M. Hà, Nguyễn Đ. Hiễn. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(2), 3-16 Nik, A. H., Zahra, S. N., Yunes, S., & Nima, S. (2013). The relationship between financial development indicators and human capital in Iran. Management Science Letters, 3(4), 1261-1272. Nik, H. A., Nasab, Z. S., Salmani, Y., & Shahriari, N. (2013). The relationship between financial development indicators and human capital in Iran. Management Science Letters, 3(4), 1261-1272. Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R. J. (1996). Testing for the “Existence of a long-run relationship” (DAE working papers amnalgamated series, No. 9622). Cambridge, UK: University of Cambridge. Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R. J. (2001). Bounds testing approaches to the analysis of level relationships. Journal of Applied Econometrics, 16(3), 289-326. Satrovic, E. (2017). Financial development and human capital in Turkey: ARDL approach. Cappadocia Academic Review, 1(2), 1-15. Schultz, T. (1961). Investment in human capital. American Economic Review, 51(1), 101-124. Sehrawat, M., & Giri, A. K. (2014). The relationship between financial development indicators and human development in India. International Journal of Social Economics, 41(12), 1194-1208. Sehrawat, M., & Giri, A. K. (2017). An empirical relationship between financial development indicators and human capital in some selected Asian coutries. International Journal of Social Economics, 44(3), 337-349. Sethi, N., Mishra, B. R., & Bhujabal, P. (2019). Do market size and financial development indicators affect human capital of select south Asian economies? International Journal of Social Economics, 46(7), 887-903. Tran, L. T. (2014). Thực trạng vốn con người của Việt Nam từ cách tiếp cận về giáo dục [The human capital situation of Vietnam from the approach to education]. In Kỷ yếu công trình khoa học 2014 - Phần I [Proceedings of scientific works 2014 - Part I] (pp. 114-123). Hanoi, Vietnam: Trường Đại học Thăng Long. United Nations Development Programme (UNDP). (2009). Human development report. Retrieved June 20, 2020, from 2009_en_complete.pdf World Bank. (2014). Global financial development report 2014: Financial inclusion. Retrieved June 10, 2020, from 225251468330270218/Global-financial-development-report-2014-financial-inclusion World Bank. (2016). Poverty and shared prosperity 2016: Taking on inequality. Retrieved November 11, 2020, from https://elibrary.worldbank.org/doi/abs/10.1596/978-1-4648-0958-3 World Economic Forum. (2009). Financial development report. Retrieved June 12, 2020, from https://www.weforum.org/reports/financial-development-report-2009 Zaidi, S. A. H., Wei, Z., Gedikli, A., Zafar, M. W., Hou, F., & Iftikhar, Y. (2019). The impact of globalization, natural resources abundance, and human capital on financial development: Evidence from thirty-one OECD countries. Resources Policy, 64(2019), 1-9. Zaman, K., Izhar, Z., Khan, M. M., & Ahmad, M. (2012). The relationship between financial indicators and human development in Pakistan. Economic Modelling, 29(5), 1515-1523.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_von_con_nguoi_den_phat_trien_tai_chinh_o_viet_n.pdf