Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật
Việt Nam và thế giới đang đứng trước bình minh của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một vấn đề đặt ra là cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động như thế nào đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Bài viết này có mục đích giải quyết những vấn đề sơ khai về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Theo đó, bài viết được chia thành bốn phần như sau: Phần thứ nhất trình bày khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phần thứ hai trình bày khái quát về
quyền của người khuyết tật, phần thứ ba trình bày những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với việc bảo đảm quyền của người khuyết tật và phần thứ tư trình bày các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật trong thời đại công nghiệp 4.0.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52 43 Review article The Impacts of Industry 4.0 on the Rights of People with Disabilities Nguyen Thu Trang* National Economics University, No. 207 Giai Phong Road, Hai Ba Trung Distric, Hanoi, Viet Nam Received 12 January 2019 Revised 03 February 2019; Accepted 04 March 2019 Abstract: We are at the dawn of the industrial revolution 4.0. What will the industry 4.0 impact on the rights of people with disabilities. This paper aims at exploring the primary issues in connection with the impacts of the industry 4.0 on the rights of people with disabilities. This paper is therefore divided into four sections. The first section will provide an overview of the industry 4.0, the second section will provide an overview of the rights of people with disabilities, the third section will analyze the impacts of industry 4.0 on the rights of people with disabilities, and the last one will produce some recommendations for ensuring the rights of people with disabilities in the industry 4.0. Keywords: Person with a disability, industry 4.0, discrimination, the rights of a person with a disability. * _______ * Corresponding author. E-mail address: thutrang8861@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls. 4141 VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52 44 Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật Nguyễn Thu Trang* Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 207 Giải Phóng, Đồng Tâm, Hai Bà Trưng, Hà Nội Nhận ngày 12 tháng 01 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 03 tháng 02 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 04 tháng 03 năm 2019 Tóm tắt: Việt Nam và thế giới đang đứng trước bình minh của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một vấn đề đặt ra là cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động như thế nào đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Bài viết này có mục đích giải quyết những vấn đề sơ khai về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Theo đó, bài viết được chia thành bốn phần như sau: Phần thứ nhất trình bày khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phần thứ hai trình bày khái quát về quyền của người khuyết tật, phần thứ ba trình bày những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với việc bảo đảm quyền của người khuyết tật và phần thứ tư trình bày các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật trong thời đại công nghiệp 4.0. Từ khóa: Trách nhiệm giải trình tư pháp; tư pháp, tòa án; thẩm phán; pháp luật quốc tế; các quốc gia. 1. Khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư * Hiện nay, lịch sử loài người đang ở trong thời kỳ đầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo PriceWater House Coopers, cách mạng công nghiệp lần thứ tư tập trung đến số hoá (mã hoá) tất cả các tài sản hữu hình và tích hợp trong hệ thống kinh tế số (digital ecosystems) _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ Email: thutrang8861@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls. 4141 với các chuỗi giá trị [1, tr.6]. Theo Bộ Công nghiệp Cộng hoà Indonesia, điểm mấu chốt trong khái niệm công nghiệp 4.0 là nâng cao hiệu quả sản xuất bằng việc sử dụng sự kết nối và công nghệ thông tin (information & communication technology) [2, tr.3]. Theo Delloite, cách mạng công nghiệp 4.0 được dựa trên nền tảng hệ thống kết nối không gian số - thực thể (CPPS) [3, tr.3]. Bộ công nghiệp Australia có một định nghĩa tương đối đầy đủ về cách mạng công nghiệp 4.0 như sau: N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52 45 “Tương tự như internet đã tạo ra giá trị vô cùng to lớn bằng việc kết nối con người thực tại, thì trong thời đại công nghiệp lần thứ tư, sẽ có sự kết nối vật (Internet of Things), theo đó các vật sẽ được kết nối với nhau. Hệ thống kết nối không gian số - thực thể sẽ tạo ra sản xuất thông minh, ở đó các sản phẩm trí tuệ, máy móc, mạng lưới, hệ thống độc lập tương tác và kết nối với nhau trên một quy trình sản xuất thống nhất - giảm thiểu sự can thiệp của con người.” [4, tr.6] Có thể thấy rằng, các khái niệm về cách mạng công nghiệp 4.0 có sự khác nhau về ngôn ngữ diễn đạt. Tuy nhiên, về mặt nội dung các khái niệm đều thể hiện rõ cách mạng công nghiệp 4.0 được phát triển trên nền tảng số hoá và kết nối. Trước tiên, trong thời đại công nghiệp 4.0, mọi thứ được mã hoá và kết nối với nhau (digital transformation). Như vậy, các vật sẽ được gắn chip và bộ cảm biến thông minh và chúng được kết nối với nhau. Các thông tin của các thực thể và con người đều được mã hoá và đưa vào hệ thống chung. Theo nghiên cứu của Price Water House Coopers thì số hoá (mã hoá) mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp với kỳ vọng là giảm 3,6% chi phí hoạt động và hiệu quả tăng 4,1% [1, tr.13]. Hệ thống kết nối không gian số - thực thể (CPPS) dẫn đến hình thành mạng lưới sản ... lao động nói chung và người lao động khuyết tật nói riêng khó có khả năng phát huy tác dụng. Bởi vì, với các hợp đồng ngắn hạn, có tính chất khoán việc, các bên sẽ tránh việc áp dụng Bộ luật lao động, thay vào đó các quy định của Bộ luật dân sự sẽ được các bên lựa chọn. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nói chung và người lao động khuyết tật nói riêng không còn được bảo đảm bởi các quy định khắt khe của luật lao động. Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 với quá trình tự động hoá và robot thay thế con người diễn ra nhanh chóng sẽ dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động. Nhiều vị trí công việc có nguy cơ bị đe doạ thay thế bởi robot và trí tuệ nhân tạo. “Theo các phân tích của Đại học Oxford và Ngân hàng Thế giới, 35% việc làm ở UK sẽ được thay thế bởi tự động hoá; ở nước OECD, 57% việc làm bị đe doạ, ở Trung Quốc, tỷ lệ việc làm bị đe doạ là 77% và Ethiopia là 85%. Điều này sẽ xảy ra nhanh chóng: theo báo cáo gần đây của công ty nghiên cứu thị trường company Forrester thì đến năm 2021, 6% việc làm ở Hoa Kỳ được tự động hoá.” [11, tr.6]. Đây là thực tế sẽ xảy ra không xa. Như vậy, một số lượng rất lớn người lao động bị mất việc làm. Vậy những người khuyết tật thì sao? Đương nhiên, những người lao động khuyết tật cũng sẽ bị mất việc làm trong xu thế chung của toàn cầu. Như vậy, quyền có việc làm của con người nói chung và người khuyết tật nói riêng bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có thể dự đoán hệ quả của cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc bảo đảm quyền lao động, quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử của người khuyết tật như sau: Một là, những người có khiếm khuyết về tinh thần có nguy cơ mất việc làm và không có việc làm cao nhất. Trong thời đại công nghệ số, đòi hỏi lao động phải có trình độ cao, sự khiếm khuyết về tinh thần có thể sẽ là những lí do để người sử dụng lao động từ chối tuyển dụng hoặc chấm dứt quan hệ lao động với người khuyết tật. Hai là, những người khuyết tật về thể chất nhưng không có trình độ chuyên môn cao cũng có nguy cơ mất việc làm. Sự thay đổi của công nghệ, dẫn đến nhu cầu lao động giản đơn hoặc trung cấp giảm đi. Như vậy, người có khiếm khuyết về tinh thần và người khuyết tật không có trình độ chuyên môn cao là hai nhóm đối tượng có nguy cơ chịu ảnh hưởng tiêu cực của cách mạng công nghiệp 4.0 nhất. Họ sẽ phải đối mặt với những hình thức phân biệt đối xử mới phù hợp với sự phát triển của công nghiệp 4.0. Đặc biệt sự phân biệt đối xử được bao bọc bởi những yếu tố như “tính chất của công việc” đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn phù hợp. Bên cạnh đó, họ cũng sẽ phải đối mặt với những cuộc chiến pháp lí liên quan đến việc cho thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hàng loạt. Hơn nữa, với xu thế ký hợp đồng ngắn hạn mang tính chất khoán việc, các hợp đồng này có tính chất của một hợp đồng dân sự thông thường mà không phải là hợp đồng lao động. Vì vậy các quy định khắt khe về các trường hợp sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động không được áp dụng đối với các quan hệ hợp đồng này, điều này càng giúp cho việc chấm dứt hợp đồng trở nên dễ dàng hơn. 4. Các giải pháp bảo đảm quyền của người khuyết tật trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam Những phân tích trên cho thấy, cách mạng công nghiệp 4.0 góp phần nâng cao khả năng bảo đảm quyền của người khuyết tật nhưng cũng đồng thời hình thành những nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Để hạn chế những ảnh tiêu cực của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với việc bảo đảm quyền của người khuyết tật, chúng tôi đề xuất các giải pháp sau: Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người khuyết tật. Để bảo đảm quyền của người khuyết tật, trước tiên, các quy định của pháp luật về quyền của người khuyết tật cần tiếp tục được hoàn thiện. Hiện nay, các quy định pháp luật về quyền của người khuyết tật đã được thể hiện trong Luật N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52 50 người khuyết tật năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, nhiều quy định còn khá chung chung, chưa cụ thể. Vì vậy, chúng tôi đề xuất các quy định về quyền của người khuyết tật cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng sau: Cần có hướng dẫn, giải thích cụ thể về phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật. Quy định về chống phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật có thể được hướng dẫn bởi một văn bản quy phạm dưới luật hoặc giải thích bởi án lệ của toà án. Theo chúng tôi, phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật là dành cho người khuyết tật sự đối xử kém thuận lợi hơn so với người không khuyết tật hoặc áp đặt những điều kiện bất hợp lí làm cho người khuyết thật không thể thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Với cách giải thích này, quy định chống phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật có thể bao quát cả trường hợp lạm dụng công nghệ để đối xử kém thuận lợi hơn cho người khuyết tật, hoặc tạo ra các rào cản bất hợp lí làm cho người khuyết tật không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ của mình. Ví dụ, trong công ty có người khuyết tật bị mất cả hai tay, cửa ra vào sử dụng hệ thống nhận dạng vân tay mà không có hệ thống thay thế dành riêng cho người lao động khuyết tật bị mất cả hai tay là phân biệt đối xử. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quyền tiếp cận của người khuyết tật trong thời kỳ công nghiệp 4.0. Theo đó hệ thống internet of things và công nghệ số cần bảo đảm khả năng tiếp cận, tham gia, sử dụng hệ thống internet of things, tiếp cận và xử lí thông tin. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất các thiết bị thông minh dành riêng cho người khuyết tật các dạng. Các chính sách khuyến khích bao gồm miễn, giảm thuế. Ngoài ra các doanh nghiệp sản xuất thiết bị thông minh dành riêng cho người khuyết tật đạt một số lượng hoặc tỷ lệ nhất định còn được xem xét miễn, giảm thuế tương ứng đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác. Các quy định bảo đảm quyền tiếp cận của người khuyết tật trong thời đại công nghiệp 4.0 giúp cho người khuyết tật theo kịp với sự phát triển của thời đại, gia nhập vào thế giới số một cách bình đẳng và đầy đủ như người không khuyết tật. Nhà nước cần luật hoá nhu cầu sử dụng trợ giúp pháp lí của người khuyết tật thành quyền tiếp cận trợ giúp pháp lí của người khuyết tật. Trừ những người khuyết tật có điều kiện kinh tế có khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ pháp lí của luật sư, những người khuyết tật còn lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận các hỗ trợ pháp lí. Do đó, việc ghi nhận trong luật quyền tiếp cận trợ giúp pháp lí của người khuyết tật là rất cần thiết. Để quyền này có thể được thực hiện trên thực tế, cần thiết lập các trung tâm hỗ trợ pháp lí cho người khuyết tật tại các hiệp hội hoặc tổ chức của người khuyết tật, sở tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng cần giao nhiệm vụ trợ giúp pháp lí cho người khuyết tật cho đơn vị trợ giúp pháp lí. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo luật cần được khuyến khích thành lập trung tâm trợ giúp pháp lí trong đó có phòng trợ giúp pháp lí cho người khuyết tật. Người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn được trợ giúp pháp lí miễn phí. Kinh phí phục vụ cho hoạt động của các trung tâm này cần được huy động từ các nguồn tài trợ của xã hội. Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động khuyết tật. Như phần trên đã phân tích, các thiết chế như công đoàn, thoả ước lao động tập thể, hợp đồng lao động dài hạn không còn là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động nói chung và người lao động khuyết tật nói riêng. Vì vậy, nếu các quy định của pháp luật lao động không thay đổi để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội mới thì pháp luật lao động sẽ không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ người lao động. Chúng tôi đề xuất phương án: - Thay vì chú trọng vào công đoàn cấp cơ sở, pháp luật lao động cần chú trọng đến vai trò của công đoàn địa phương hoặc công đoàn ngành trong việc bảo vệ người lao động. Như vậy, người lao động có thể gia nhập công đoàn địa phương hoặc công đoàn ngành để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52 51 - Cần đa dạng hoá các loại hợp đồng lao động, với các thoả thuận linh hoạt về thời hạn hợp đồng, công việc, thời giờ làm việc... Pháp luật không nên hạn chế quyền thoả thuận về thời hạn hợp đồng, phạm vi công việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động và các nội dung khác. Tuy nhiên các quyền lợi cơ bản của người lao động cần được bảo đảm. Để tránh việc người sử dụng lao động lẩn tránh pháp luật bằng cách áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự đối với các hợp đồng làm việc ngắn hạn, pháp luật cần ghi nhận người lao động có quyền lựa chọn luật áp dụng là Bộ luật lao động hay Bộ luật dân sự. Thứ ba, thực hiện chính sách giáo dục trọn đời cho người khuyết tật. Cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn đến sự thay đổi cơ cấu lao động trong xã hội, nhiều ngành nghề mất đi nhưng lại có những ngành nghề mới xuất hiện [12, tr.5]. Như vậy, người khuyết tật cũng phải sẵn sàng với những thay đổi này. Nhà nước và xã hội cần có chiến lược đào tạo suốt đời. Các chương trình đào tạo cần thay đổi theo hướng, người khuyết tật có thể tiếp cận với những cái mới và có khả năng học tập lâu dài. Quyền học tập suốt đời của người khuyết tật cần được bảo đảm trên thực tiễn mà không phục thuộc vào khuyết tật, tuổi tác. Các trường Đại học, các cơ sở dạy nghề cần đi tiên phong trong việc đào tạo suốt đời cho người lao động và có những chính sách ưu đãi, khuyến khích người khuyết tật tham gia học tập. Đương nhiên, các cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề cung cấp dịch vụ đào tạo thường xuyên cho người khuyết tật sẽ được hưởng những chính sách ưu đãi nhất định từ Nhà nước. Ví dụ, các chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách ưu đãi về thuế, phí đối với các hoạt động phải chịu thuế, phí. Học tập suốt đời giúp cho người khuyết tật luôn cập nhật kiến thức mới, bảo đảm khả năng gia nhập và thực hiện các quyền trên thực tế. Điều này hoàn toàn đúng trong thời đại công nghiệp 4.0. Khi mà nhu cầu lao động có kĩ năng cao cấp tăng trong khi đó nhu cầu lao động có kĩ năng thấp, không qua đào tạo giảm. [9, tr.4] Thứ tư, nâng cao năng lực của các tổ chức, hiệp hội của người khuyết tật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. Vai trò của các tổ chức, hiệp hội của người khuyết tật là rất quan trọng trong việc bảo vệ nhóm người khuyết tật yếu thế khỏi những hành vi xâm phạm, lạm dụng của các chủ thể khác trong xã hội. Vì vậy, các tổ chức, hiệp hội này cần có quyền yêu cầu chấm dứt vi phạm, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện các chủ thể có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật nói chung. Các tổ chức, hiệp hội của người khuyết tật cần có quyền nhân danh cá nhân người khuyết tật yêu cầu các cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền của người khuyết tật chấm dứt hành vi vi phạm. Các tổ chức, hiệp hội của người khuyết tật cũng cần có quyền nhân danh cá nhân người khuyết tật khởi kiện, khiếu nại hoặc yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. 5. Kết luận Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cơ hội lớn để người khuyết tật thực hiện được quyền của người khuyết tật trên thực tế khi mà các rào cản về thể chất bị xoá nhoà. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng gây ra những thách thức nhất định đối với người khuyết tật. Những thách thức xuất phát từ sự thay đổi của cách thức sản xuất, kinh doanh. Một số lượng không nhỏ người khuyết tật có nguy cơ bị bỏ lại phía sau, đồng thời một lực lượng lớn người khuyết tật có thể mất việc làm hoặc phải thay đổi việc làm do có sự thay thế bởi trí tuệ nhân tạo và robot. Vì vậy, quyền của người khuyết tật bị ảnh hưởng đáng kể. Để bảo đảm quyền của người khuyết tật trong thời đại công nghiệp 4.0 cần thực hiện các giải pháp sau: (1) cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của người khuyết tật; (2) tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động; (3) thực hiện chính sách học tập trọn đời; và (4) nâng cao vai trò của các tổ chức, hiệp hội của người khuyết tật. N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52 52 Tài liệu tham khảo [1] [PWC (2016), 2016 Global Industry 4.0 Survey, Industry 4.0: Building the digital enterprise, www.pwc.com/industry40; [2] Ministry of Industry of Republic of Indonesia (2017), Chances and Challenges of Industry 4.0 Workforce; [3] Delloite (2015), Industry 4.0 Challenges and solutions for the digital transformation and use of exponential technologies; [4] Prime Minister’s Industry 4.0 Taskforce (2017), Industry 4.0 Testlabs in Australia Preparing for the Future, Australian Government, Swinburne Research; [5] Đỗ Hạnh Nga (2011), Những khó khăn của gia đình có trẻ khuyết tật phát triển và nhu cầu của họ đối với dịch vụ xã hội, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Công tác xã hội-kết nối và chia sẻ, Trường Đại học KHXH&NV TpHCM tổ chức, 11/11/2011; [6] United Nations, From Exclusion to Equality - Realizing the rights of persons with disabilities, Handbook for Parliamentarians on the Convention on the Rights of Persons with Disabilities and Its Optional Protocol, No. 14 - 2007; [7] Lelia Helms (2010), Disability Litigation and Universities in Universities in Australia and the United States: A Comparative Perspective, International Journal of Law & Education, 1836- 9030 Vol 15, No 1, 2010, pp. 79-107; [8] Bonnie Poitras Tucker (1995), The Disability Discrimination Act: Ensuring Rights of Australians With Disabilities, Particularly Hearing Impairments, Monash University Law Review [Vol 21, No 1 '95] ; [9] Klaus Schwab, The Fourth Industrial Revolution: what it means and how to respond, World Economic Forum, https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the- fourth-industrial-revolution-what-it-means-and- how-to-respond; [10] Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2013), Chi phí kinh tế của sống với khuyết tật và kỳ thị ở Việt Nam, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội; [11] Sherif Elsayed-Ali (2016), Our human rights need to adapt, and fast, if they're to keep up with technology, World Economic Forum, https://www.weforum.org/agenda/2016/12/five -ways-technology-is-shaping-the-future-of- human-rights; [12] Meg Whitman (2017), The case for optimism as we face a daunting wave of technological change, https://www.weforum.org/agenda/2017/01/case- for-optimism-tech-change.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_den_viec_bao_d.pdf