Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi

Bài viết trình bày một vấn đề liên quan đến phương ngữ, đó là sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi. Chúng tôi gọi đây là thổ ngữ vì ngữ âm nơi đây có một số khác biệt so với tiếng Quảng Ngãi. Trong thổ ngữ Sơn Tịnh, cùng một âm chính nhưng khi kết hợp với âm

cuối khác nhau sẽ có những biến đổi ngữ âm khác nhau. Người ta nói rằng ngữ âm của các thổ ngữ dọc duyên hải Nam Trung Bộ hết sức phức tạp nhưng thật ra chúng đều biến đổi có tính quy luật, tiêu biểu ở đây là thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi. Hệ quả của việc biến đổi ngữ âm này là làm mất hẳn âm chính [ə̆]( chữ viết là “â”) trong tiếng Sơn Tịnh, đồng thời xuất hiện hàng loạt các từ đồng âm và làm cho số lượng vần phức trong tiếng Sơn Tịnh giảm chỉ còn một nửa so với tiếng Việt toàn dân.

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 1

Trang 1

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 2

Trang 2

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 3

Trang 3

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 4

Trang 4

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 5

Trang 5

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 6

Trang 6

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 7

Trang 7

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 8

Trang 8

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 9

Trang 9

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang Trúc Khang 11/01/2024 1940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi

Sự biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 134 
Sự biến đổi của âm chính trong các vần có 
âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh-Quảng Ngãi 
 Nguyễn Thị Thanh Truyền 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Bài viết trình bày một vấn đề liên quan đến 
phương ngữ, đó là sự biến đổi của âm chính 
trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn 
Tịnh-Quảng Ngãi. Chúng tôi gọi đây là thổ ngữ 
vì ngữ âm nơi đây có một số khác biệt so với 
tiếng Quảng Ngãi. Trong thổ ngữ Sơn Tịnh, 
cùng một âm chính nhưng khi kết hợp với âm 
cuối khác nhau sẽ có những biến đổi ngữ âm 
khác nhau. Người ta nói rằng ngữ âm của các 
thổ ngữ dọc duyên hải Nam Trung Bộ hết sức 
phức tạp nhưng thật ra chúng đều biến đổi có 
tính quy luật, tiêu biểu ở đây là thổ ngữ Sơn 
Tịnh-Quảng Ngãi. Hệ quả của việc biến đổi 
ngữ âm này là làm mất hẳn âm chính [ə̆] ( chữ 
viết là “â”) trong tiếng Sơn Tịnh, đồng thời xuất 
hiện hàng loạt các từ đồng âm và làm cho số 
lượng vần phức trong tiếng Sơn Tịnh giảm chỉ 
còn một nửa so với tiếng Việt toàn dân. 
Từ khóa: Sơn Tịnh, phương ngữ, thổ ngữ, âm chính, biến đổi, phụ âm, bán nguyên âm cuối, 
ngữ âm, âm vị, vần cái 
1. Dẫn nhập 
Từ lâu, phuơng ngữ là vấn đề được giới Việt 
ngữ học quan tâm và nghiên cứu. Đã có nhiều công 
trình, tham luận về các lĩnh vực của phương ngữ ra 
đời. Tuy nhiên để có thể hiểu rõ hơn đặc điểm của 
các phương ngữ, rất cần có những nghiên cứu 
chuyên sâu về những thổ ngữ bên trong mỗi phương 
ngữ. Chúng tôi ghi nhận, cùng một vùng phương 
ngữ, cùng một tỉnh, huyện nhưng lại phát âm khác 
nhau. Lý do chính là âm chính trong các thổ ngữ 
nơi đây khi kết hợp với âm cuối sẽ có nhiều sự biến 
đổi. Hơn nữa cùng một tỉnh nhưng có nhiều vùng 
thổ ngữ, phát âm khác nhau, nhiều khi thôn này 
“nhại” tiếng của thôn khác mặc dù hai thôn chỉ cách 
nhau một cánh đồng, một dòng sông. Đó là lý do 
chúng tôi cho rằng tiếng Sơn Tịnh là một thổ ngữ, 
nó có những đặc điểm ngữ âm tương đối khác biệt 
so với tiếng Quảng Ngãi. 
Hơn nữa, chưa có nhiều công trình mô tả đầy 
đủ, chi tiết hệ thống ngữ âm tiếng Quảng Ngãi cũng 
như các thổ ngữ vùng này, đặc biệt là các công trình 
nghiên cứu thực nghiệm về phương ngữ lại càng 
hiếm hoi. Có thể nói, các thổ ngữ nơi đây chưa nhận 
được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học. Bằng 
phương pháp thực nghiệm, mô tả và so sánh đối 
chiếu, chúng tôi sẽ nêu ra những hiện tượng biến 
đổi của các âm chính trong các vần có âm cuối của 
thổ ngữ Sơn Tịnh, đồng thời đưa ra hiện tượng nhập 
vần như là hệ quả của sự biến đổi ngữ âm này. 
2. Vài nét về huyện Sơn Tịnh và thổ ngữ Sơn 
Tịnh-Quảng Ngãi 
2.1. Vài nét về huyện Sơn Tịnh 
Sơn Tịnh là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh 
Quảng Ngãi. Phía đông và nam giáp huyện Tư 
Nghĩa và thành phố Quảng Ngãi; phía tây giáp hai 
huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà; phía bắc giáp 
huyện Bình Sơn. Diện tích tự nhiên khoảng 24.323 
ha. 
Đơn vị hành chính gồm 11 xã: Xã Tịnh Giang, 
xã Tịnh Đông, xã Tịnh Bắc, xã Tịnh Hiệp, xã Tịnh 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 135 
Minh, xã Tịnh Bình, xã Tịnh Trà, xã Tịnh Sơn, xã 
Tịnh Thọ, xã Tịnh Hà, xã Tịnh Phong. 
Qua một số hiện vật khảo cổ, người ta biết xưa 
kia ở địa hạt huyện Sơn Tịnh từng có các cộng đồng 
cư dân cổ, chủ nhân của thời kỳ đồ đá cũ tại khu 
vực Gò Trá (nay thuộc xã Tịnh Thọ) và cư dân 
Chăm sống rải rác ở nhiều nơi. Người Việt ở Bắc 
Bộ và Bắc Trung Bộ đã chuyển cư đến vùng đất 
Sơn Tịnh từ cuối thế kỷ XV, sinh cơ lập nghiệp, mở 
đất, dựng làng. Một số người Hoa từ thời phong 
kiến đã sang buôn bán, sinh sống, về sau hòa nhập 
với cộng đồng người Việt, gọi là người Việt gốc 
Hoa, tập trung nhiều nhất ở Ba Gia (nay thuộc xã 
Tịnh Bắc), Đồng Ké (nay thuộc xã Tịnh Giang). Ở 
các xã cực tây của huyện có một số ít người 
thuộc dân tộc Hrê sinh sống. Sau ngày giải phóng 
miền Nam, thống nhất đất nước, có một số ít người 
thuộc các dân tộc thiểu số ở miền Bắc theo gia đình 
về sống ở Sơn Tịnh. Nhìn chung mật độ dân số của 
huyện còn thưa thớt, dân cư ở đây đời sống còn khó 
khăn, thiếu thốn, đất đai cằn cỗi, mùa nắng thì hạn 
hán, mùa mưa thì bão lũ. Nhiều ngưởi dân phải rời 
quê hương vào thành phố Hồ Chí Minh để buôn bán 
kiếm sống. 
Cư dân Sơn Tịnh chủ yếu sinh sống bằng nông 
nghiệp, một số làm nghề thủ công (nghề rèn, nghề 
làm dây dừa...) hoặc buôn bán1. 
2.2. Vài nét về thổ ngữ Sơn Tịnh 
Nếu chấp nhận quan điểm chia tiếng Việt thành 
ba vùng phương ngữ theo Hoàng Thị Thổ ngữ Sơn 
Tịnh là một bộ phận của phương ngữ Nam Bộ, 
thuộc nhóm thổ ngữ Nam-Ngãi. Nó chia sẻ với 
ngôn ngữ toàn dân những thuộc tính ngữ âm chung 
làm nó có thể được sử dụng có hiệu quả trong khi 
giao tiếp với dân cư các địa phương khác, đủ để cho 
người Việt ở các địa phương này nhận diện nó như 
là tiếng mẹ đẻ của mình, nhưng đồng thời cũng cho 
họ nhận thấy có những đặc trưng ngữ âm từ vựng 
của thổ ngữ này không có trong tiếng của họ. 
1  
3. Sự biến đổi của âm  ... ɛp6] [dep6] 
dép [jɛp5] [jep5] 
chem chép [cɛm1] [cɛp5] [cem1] [cep5] 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 136 
Hình 1. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết “đẹp” 
3.1.2. Nguyên âm [ɐ] (chữ viết là “a”) sẽ được thể 
hiện thành [o] khi kết hợp với phụ âm cuối [-m], [-
p]. 
Chúng ta quan sát nguyên âm chính trong âm 
tiết “cám” dưới đây. Trong bối cảnh ngữ âm này 
“a” có F1 là 632 Hz và F2 là 1072 Hz (theo phát âm 
của nữ).; F2 tương đối thấp, hơn nữa thanh phổ thể 
hiện đây là một nguyên âm trầm, trên biểu đồ 
nguyên âm, “a” nhích về phía bên phải gần với vị trí 
của [o]. Ở trường hợp này, [ɐ] từ một nguyên âm 
dòng giữa trở thành một nguyên âm dòng sau tròn 
môi. 
Hình 2. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết "cám” 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 137 
Như vậy trong tiếng Sơn Tịnh, các âm tiết có 
vần “am/ap” được phát âm như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
nam [nɐm1] [nom1] 
cám ơn [kɐm5] [ʔən1] [kom5] [ʔəŋ1] 
ngáp [ŋɐp5] [ŋop5] 
3.1.3. Nguyên âm [ɔ] (chữ viết là “o”) sẽ được 
thể hiện thành [o] khi kết hợp với âm cuối [-m], [-
p]; sẽ được thể hiện thành [ɐ] khi kết hợp với âm 
cuối [ŋ], [k] 
Kết quả thực nghiệm cho thấy trong trường hợp 
này [ɔ] có F1 là 602 Hz và F2 là 1080 Hz (theo phát 
âm của nữ); F2 tương đối thấp. Trong âm tiết “cọp” 
dưới đây, chúng tôi nhận thấy vị trí nguyên âm 
không còn ở vị trí của [ɔ] nữa mà là nhích lên phía 
trên và nằm trùng với vị trí của [o]. 
Hình 3. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết "cọp” 
Các âm tiết có vần “om/op” được người 
Sơn Tịnh phát âm như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
“lom khom” [lɔm1] [xɔm1] [lom1] [xom1] 
“vòm” [vɔm2] [vom2] 
Nguyên âm [ɔ] sẽ được phát âm là [ɐ] khi kết 
hợp với âm cuối [ŋ], [k]. Ví dụ: “trong lòng” sẽ 
được người Sơn Tịnh phát âm là “trang làng”, 
“học” sẽ được phát âm là “hạc”. 
3.1.4. Nguyên âm [ɐ̆] (chữ viết là “ă”) sẽ được 
thể hiện thành [ɛ] khi kết hợp với phụ âm cuối [n], 
[t], [ŋ], [k]; sẽ được thể hiện thành [e] khi kết hợp 
với phụ âm cuối [m], [p]. 
Trên thanh phổ, năng lượng của âm tiết “thắc 
mắc” tập trung ở dải tần số cao, hơn nữa F2 của [ɐ̆] 
khá cao, 2330 Hz (theo phát âm của nữ), cho thấy 
đây là một nguyên âm dòng trước. Trên biểu đồ 
nguyên, “ă” trong vần “ăng/ăc” nằm ở vị trí của 
nguyên âm dòng trước, cùng dòng với [ɛ]. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 138 
Hình 4. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết "thắc mắc” 
Người Sơn Tịnh phát âm những âm tiết có vần 
“ăng/ăc” như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
ăn cơm [ʔɐ̆n1] [kəm1] [ʔɛŋ1] [kəm1] 
thắc mắc [t’ɐ̆t1] [mɐ̆t1] [[t’ɛk1] [mɛk1] 
Nguyên âm “ă” trong vần “ăm/ăp” sẽ được phát 
âm là [e] khi kết hợp với phụ âm cuối [m], [p] 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng Sơn 
Tịnh 
mắm [mɐ̆m5] [mem5] 
tắt [tɐ̆t5] [tek5] 
gặp [ɣɐ̆p6] [ɣep6] 
3.1.5. Nguyên âm [ə̆] (chữ viết là “â”) sẽ được 
thể hiện như sau: 
 [ə̆] sẽ được thể hiện thành [ɐ̆] khi kết hợp 
với tất cả các phụ âm (trừ bán nguyên âm) 
Nguyên âm “â” trong bối cảnh ngữ âm này có 
tần số F1 là 762 Hz, tương đối cao, điều này thể 
hiện đây là nguyên âm có độ nâng thấp, hơn nữa 
cũng có F2 cao (khoảng 1923 Hz) (theo phát âm 
của nữ), nghĩa là nguyên âm này hơi nhích về phía 
nguyên âm dòng trước [ɛ]. Tuy nhiên chúng tôi vẫn 
chọn [ɐ̆] để phiên âm cho nguyên âm này vì khi 
quan sát khẩu hình phát âm của những âm tiết dưới 
đây chúng tôi thấy chúng gần với [ɐ̆] hơn [ɛ]. Một 
điều đáng lưu ý ở đây là âm [ɐ̆] xuất hiện để thay 
thế cho [ə̆] vì trong thổ ngữ Sơn Tịnh hoàn toàn 
vắng bóng âm chính [ə̆]. 
Hình 5. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết "nhân dân” 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 139 
Như vậy trong tiếng Sơn Tịnh, các âm tiết có 
vần “ân/ât, âng/ âc, âm/âp” được phát âm như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
nhân dân [ɲə ̆n1] [zə̆n1] [ɲɐ̆ŋ1] [yɐ̆ŋ1] 
lâm [lə̆m1] [lɐ̆m1] 
nhất [ɲə ̆t5] [ɲɐ̆k5] 
tầng [tə̆ŋ2] [tɐ̆ŋ2] 
tập [tə̆p6] [tɐ̆p6] 
tất [tə̆t5] [tɐ̆k5] 
 [ə̆] sẽ được thể hiện thành [ɐ] khi kết hợp 
với bán nguyên âm [-u], [-y] 
 Nguyên âm “â” trong bối cảnh ngữ âm này có 
F1cao: 891 Hz và F2 là 1598 Hz (theo phát âm của 
nữ), quan sát biểu đồ nguyên âm chúng tôi thấy 
nguyên âm này nằm ở vị trí của [ɐ], phát âm với độ 
mở rộng. 
Hình 6. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết "đấu thầu” 
Vị trí của âm “â” và [ɐ] trên biểu đồ nguyên 
âm được thể hiện trùng nhau, ta có thể kết luận 
trong thổ ngữ Sơn Tịnh “â” sẽ được thể hiện thành 
[ɐ], và ở vị trí này, [ɐ] xuất hiện để thay thế cho [ə̆] 
vốn dĩ không tồn tại trong thổ ngữ vùng này. 
Người Sơn Tịnh phát âm các âm tiết có vần “âu, 
ây” như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
đấu thầu [də̆u ̯ 5] [thə̆u ̯ 2] [dɐu̯5] [thɐu̯ 2] 
sâu [ʂə̆u ̯ 1] [ʂɐu̯1] 
đây [də̆i ̯1] [dɐi̯1] 
hậu [hə̆u ̯ 6] [hɐu̯6] 
 [ə̆] sẽ được thể hiện thành [ɨ] khi kết hợp 
với phụ âm cuối [-ŋ] và [-t] 
Khi kết hợp với phụ âm cuối [-ŋ] và [-t], âm 
chính “â” sẽ được người Sơn Tịnh phát âm với độ 
mở hẹp, tần số F1 là 466,8 Hz (theo phát âm của 
nữ), tương đối thấp, thể hiện nguyên âm này có độ 
nâng cao, quan sát biểu đồ nguyên âm chúng tôi 
thấy rằng âm chính “â” nhích về vị trí của [ɨ]. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 140 
Hình 7. Dạng sóng âm và thanh phổ của âm tiết “tầng” 
Như vậy vị trí của âm “â” và [ɨ] trong 
trường hợp này phân bố gần nhau, điều này 
cho thấy [ə ̆] có biến thể là [ɨ] trong thổ ngữ 
Sơn Tịnh, điều này một lần nữa khẳng định [ə ̆] 
hoàn hoàn vắng bóng trong thổ ngữ này. 
Các vần “âng”, “ât” trong tiếng Sơn Tịnh sẽ 
được phát âm như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
tầng một [tə̆ŋ2] [mot6] [tɨŋ2] [mok6] 
chủ nhật [cu4] [ɲə̆t6] [cu3/4] [ɲɐ̆k6] 
thứ nhất [thɨ5] [ɲə̆t5] [thɨ5] [ɲɨk5] 
Như vậy, trong thổ ngữ Sơn Tịnh không tồn tại 
âm [ə̆] nữa mà đã được thay thế bằng các biến thể 
khác. 
Từ những sự biến đổi trên, chúng tôi đưa ra biểu 
đồ vị trí của các nguyên âm trong các vần có âm 
cuối (so sánh với nguyên âm trong âm tiết mở) của 
thổ ngữ Sơn Tịnh như sau (lưu ý : những âm tiết 
cùng nằm trong một hình bầu dục là những âm tiết 
có nguyên âm tương tự nhau): 
Hình 8. Biểu đồ vị trí của các nguyên âm trong các vần có âm cuối của thổ ngữ Sơn Tịnh 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 141 
3.2. Nguyên âm đôi 
 Nguyên âm đôi trong thổ ngữ Sơn Tịnh cũng 
có nhiều biến đổi, chúng được thể hiện tương đối 
phức tạp trong thổ ngữ này: 
3.2.1. Nguyên âm [iɐ͜] (chữ viết là “iê”, “yê”) sẽ 
được thể hiện thành nguyên âm đơn [i] cùng dòng 
khi kết hợp với phụ âm [-m], [-p] và bán nguyên âm 
cuối [-u]. 
Kết quả đo tần số formant của F1 và F2 
của 4 âm tiết “yêu”, “chiều”, “chiêm chiếp”, 
chúng tôi nhận thấy rằng âm chính “iê” và “yê”có 
F1 rất thấp, chỉ 535 Hz, trong khi đó F2 rất cao: 
2465 Hz (theo phát âm của nữ), nguyên âm phân bố 
ở trên và phía trái của biểu đồ nguyên âm, nằm ở vị 
trí của [i]. Do đó chúng ta có thể kết luận nguyên 
âm đôi “iê” và “yê” đã nhược hóa thành [i]. 
Hình 9. Vị trí của “iê” trong các vần có âm cuối (so sánh với “i” trong âm tiết mở) 
Như vậy, các vần “iêu”, “yêu”, “iêm”,“iêp” 
trong tiếng Sơn Tịnh được phát âm như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
yêu [ʔi ͜ɐu̯1] [ʔiu̯1] 
chiều [ci ͜ɐu̯2] [ciu ̯2] 
chiêm chiếp [ci ͜ɐm1] [ciɐp5] [cim1] [cip5] 
3.2.2. Nguyên âm [ɨ͜ɐ] (chữ viết là “ươ”) sẽ 
được thể hiện thành [ɨ] khi kết hợp với phụ âm cuối 
[-m], [-p] và bán nguyên âm cuối. 
Khi kết hợp với âm cuối [-i̯], âm chính “ươ” 
không những bị nhược hóa thành nguyên âm đơn [ɨ] 
mà còn làm cho bán nguyên âm [-i̯] mất đi, vần nửa 
mở sẽ chuyển thành vần mở. 
Kết quả đo F1, F2 của các âm chính trong các 
âm tiết “mướp”, “lượm”, “cướp”, “cười”, rượu”, 
“hươu” chúng tôi thấy rằng, F1 tương đối thấp, 
khoảng 546 Hz, F2 chỉ ở mức trung bình 1676 Hz 
(theo phát âm của nữ), biểu đồ nguyên thể hiện âm 
chính phân bố ở vị trí giữa và phía trên biểu đồ, 
thuộc vị trí của nguyên âm [ɨ]. Như vậy, nguyên âm 
đôi “ươ” đã nhược hóa thành [ɨ]. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 142 
Hình 10. Vị trí của “ươ” trong các vần có âm cuối (so sánh với “ư” trong âm tiết mở) 
Như vậy, trong tiếng Sơn Tịnh, các vần “ươi, 
ươu, ươm, ươp” sẽ được phát âm như sau : 
 Tiếng Việt toàn dân Tiếng Sơn Tịnh 
mướp [mɨ͜ɐp5] [mɨp5] 
lượm [lɨ͜ɐm6] [lɨm6] 
cướp [kɨ͜ɐp5] [kɨp5] 
cười [kɨ͜ɐj2] [kɨ2] 
rượu [zɨ͜ɐu ̯6] [ʐɨu ̯6] 
hươu [hɨ͜ɐu̯1] [hɨu̯1] 
Sự biến đổi này làm xuất hiện các từ đồng âm : 
“con hươu” – “về hưu”, “ốc bươu” – “bưu điện” 
v.v.. 
3.2.3. Nguyên âm [u͜ɐ] (chữ viết là “uô”) sẽ được 
thể hiện thành nguyên âm đơn cùng dòng [u] khi kết 
hợp với phụ âm cuối [-m] và bán nguyên âm cuối [-
i]. 
Hình 11. Vị trí của “uô” trong các vần có âm cuối (so sánh với “u” trong âm tiết mở) 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 143 
Quan sát trên biểu đồ nguyên âm chúng tôi nhận 
thấy rằng F1 và F2 đều có tần số thấp, F1 chỉ 454 
Hz và F2 chỉ 998 Hz (theo phát âm của nữ), vị trí 
phân bố của âm chính trong 4 âm tiết “buồm”, 
“nhuộm”, chuối”, “muỗi” tương đối gần nhau, 
vùng phân bố các nguyên âm nằm ở vị trí của 
nguyên âm [u]. Như vậy nguyên âm đôi “uô” trong 
tiếng Sơn Tịnh sẽ có biến thể là [u] khi kết hợp với 
âm cuối [m] và bán nguyên âm [i]. 
Các vần “uôm”, “uôi” trong tiếng Sơn Tịnh 
được phát âm như sau: 
 Tiếng Việt 
toàn dân 
Tiếng 
Sơn Tịnh 
cánh buồm [kaŋ5] [bu͜ɐm2] [kaɲ5] [bum2] 
nhuộm [ɲu ͜ɐm6] [ɲum6] 
chuối [cu ͜ɐi̯5] [cui ̯1] 
muối [mu͜ɐi̯5] [mui̯5] 
 Sự biến đổi này làm xuất hiện các từ đồng 
âm: chúi, chuối; cúi, cuối; mũi , muỗi v.v.. 
4. Hệ quả của sự biến đổi âm chính trong các 
vần có âm cuối 
4.1. Lý thuyết về vần 
Trong bài viết này chúng tôi sử dụng lý thuyết 
về vần cái theo quan niệm của Nguyễn Quang Hồng 
và Nguyễn Phương Trang, “vần cái là đơn vị ngữ 
âm cơ bản nằm trong thành phần cấu trúc âm tiết 
tiếng Việt, không kể đến âm đệm và được trừu xuất 
khỏi thanh điệu” [3, 3]. Dưới đây chúng tôi có đề 
cập đến hai khái niệm “vần nửa mở” và “vần phức 
khép”. 
“Hệ thống vần nửa mở bao gồm các vần có đặc 
trưng kết âm là bán nguyên âm tính”, còn “hệ thống 
vần khép bao gồm các vần có đặc trưng kết âm phụ 
âm tính” [3, 8]. 
4.2. Hệ quả của sự biến đổi 
 Sự biến đổi của âm chính trong các vần có 
âm cuối làm cho số lượng vần phức trong tiếng Sơn 
Tịnh giảm đáng kể. Cụ thể như sau: 
 Đối với vần nửa mở, tiếng Việt toàn dân có 
20 vần nửa mở thì trong thổ ngữ Sơn Tịnh chỉ còn 
10 vần, giảm một nửa so với tiếng Việt toàn dân. 
Chúng tôi tạm gọi đây là hiện tượng nhập vần. Đối 
với vần phức khép, hệ thống vần phức khép trong 
tiếng Sơn Tịnh chỉ còn 48 vần, trong khi đó tiếng 
Việt toàn dân là 92 vần. Như vậy vần phức khép 
trong tiếng Sơn Tịnh cũng giảm gần một nửa. Bên 
cạnh đó nhiều vần biên trong tiếng Việt toàn dân đã 
trở thành vần trung tâm trong tiếng Sơn Tịnh như: 
ưm, ưp, ưn, ưt, ơng, ơc, êng, êc, eng, ec. 
 Trong tiếng Sơn Tịnh, âm chính trong các 
vần có âm cuối có thể có một số biến đổi theo 
hướng trở thành một nguyên âm khác hoặc một số 
cặp nguyên âm hợp nhất lại thành một nguyên âm 
trong những điều kiện nhất định. 
Có thể khái quát quy luật những biến đổi của âm chính trong các vần có âm cuối như sau: 
e 
ɛ 
ɐ̆ 
→ e __ m, p} em/ep, êm/êp, ăm/ăp → êm/êp 
ɐ 
ɔ 
→ o__ m, p} am/ap, om/op → ôm/ôp 
ɔ → ɐ__ ŋ, k} ong/oc → ang/ac 
ɐ̆ → ɛ__ ŋ, k} ăng/ăc → eng/ec 
ə̆ 
 → ɐ̆__ m, n, ŋ , p, t, k} 
→ ɐ__ {u, y} 
→ ɨ __ {ŋ, t} 
ân/ât, âng/âc, âm/âp/ → ăng/ăc, ăm/ăp 
âu/ây → au/ay 
âng/ât→ ưng/ưt 
i ͜ɐ → i __ {m, p, u} iêm/iêp, iêu → im/ip, iu 
i ͜ɐ → ɨ __ {m, p} ươm/ươp → ưm/ưp 
u ͜ɐ → u __ {m, i} uôm/uôi → um/ui 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 144 
5. Kết luận 
Trên đây là bước đầu khảo sát về thổ ngữ Sơn 
Tịnh nói riêng và tiếng Quảng Ngãi nói chung. Ngữ 
âm của các thổ ngữ vùng này thoạt nhìn rất phức 
tạp nhưng thực tế sự biến đổi của chúng đều có quy 
luật, đặc biệt và biến đổi cùa các nguyên âm trong 
các vần có âm cuối. Hệ quả của việc biến đổi ngữ 
âm này là số lượng vần phức trong tiếng Sơn Tịnh 
giảm một nửa và làm âm chính [ə̆] (chữ viết là “â”) 
biến mất, thay vào đó là các âm [ɐ̆], [ɐ], [ɨ] tùy vào 
sự kết hợp với âm cuối. Bài viết sẽ là tài liệu tham 
khảo về nhóm thổ ngữ Nam-Ngãi, bên cạnh đó lí 
giải phần nào tính chất phức tạp của phương ngữ 
Nam Trung Bộ, góp phần bổ sung vào bức tranh 
muôn màu của phương ngữ Việt. 
Main vowel variations in syllablesm with 
final consonants and final semi-consonants 
of Son Tinh local dialect in Quang Ngai 
 Nguyen Thi Thanh Truyen 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
This paper reports a problem related 
dialects, which is main vowel variations in 
syllables with final consonants and semi-
consonants of Son Tinh local dialect in Quang 
Ngai. We call it “local dialect” as its phonetics 
is somewhat different from Quang Ngai 
dialect’s. In the dialect of Son Tinh, with the 
same phoneme but when combined with 
different final consonants and semi-
consonants, it will produce different phonetic 
variations. It is said that the phonetics of local 
dialects along the coast lines of the South of 
the Central are very complicated but in fact 
they varied with fixed rules, typical of which 
was the case of Son Tinh local dialect in 
Quang Ngai which resulted in the lost of the 
main vowel [ə̆] (written as "â"); at the same 
time, mass-produced were homophones, 
making the number of complex syllables 
reduced in half, compared with the Vietnamese 
language. 
Keywords: Son Tinh, local dialect, main vowel, final consonant, semi-consonant, phonetics, 
phoneme, syllable 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hoàng Thị Châu (1989), Phương ngữ học 
tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[2]. Phạm Thị Thu Hà (2010), Hệ thống ngữ âm 
tiếng Hội An, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐH 
KHXH&NV. 
[3]. Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Phương Trang 
(2003), “Tổng quan về hệ thống vần cái tiếng 
Việt hiện đại, “Tạp chí Ngôn ngữ”, số 2. 
[4]. J. K. Chambers and Peter Trudgill (1998), 
Dialectology, Cambridge University Press. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 145 
[5]. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam 
Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[6]. Bùi Hồng Nhân (Chủ biên) (2001), Quảng 
Ngãi đất nước- con người- văn hóa, Sở Văn 
hóa Thông tin Quảng Ngãi. 
[7]. Peter Ladefoged (1982), A course in 
Phonetics, University of California, Los 
Angeles, United States of America. 
[8]. Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Huệ (1998), Cơ 
cấu ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[9]. Đoàn Thiện Thuật (2007), Ngữ âm tiếng Việt, 
NXB ĐHQG Hà Nội. 
[10]. Lê Đức Trọng (1993), Từ điển giải thích thuật 
ngữ ngôn ngữ học (Việt - Anh - Pháp - Nga), 
Nxb thành phố Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfsu_bien_doi_cua_am_chinh_trong_cac_van_co_am_cuoi_cua_tho_ng.pdf