So sánh ngôn ngữ học biến đổi - Tạo sinh của Chomsky và ngôn ngữ học chức năng của Halliday
Noam Chomsky và Michael Halliday là hai trong số những nhà ngôn ngữ học lớn của thời đại chúng ta. Lý thuyết ngôn ngữ học của hai ông đều có ảnh hưởng sâu rộng trong giới ngôn ngữ học lý thuyết và ngônngữ học ứng dụng, mặc dù đó là hai trường phái lý thuyết khác nhau do chúng được dựa trên hai cơ sở triết học khác nhau. Chomsky chịu ảnh hưởng của triết học Descartes cho rằng ý thức và vật chất không có bất cứ mối liên hệ gì với nhau còn Halliday chịu ảnh hưởng của thuyết tiến hóa của Darwin rằng ngôn ngữ và ý thức tuân theo những quy luật của mọi vấn đề trong đời sống hiện thực.
Bài viết này trình bày những nội dung chính, những luận điểm quan trọng trong lý thuyết của hai nhà ngôn ngữ học vĩ đại này. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến kết luận rằng lý thuyết của hai ông thực chất không loại trừ nhau mà nằm trên một thể liên tục. Đồng thời tác giả cũng lập luận rằng cả lý thuyết ngữ pháp tâm lý của Chomsky và ngữ pháp chức năng-hệ thống của Halliday đều là ngữ pháp tra cứu chứ không thể trở thành ngữ pháp nhà trường được do chúng quá phức tạp và rối rắm mặc dù mỗi trường phái đều có những ứng dụng riêng. Bài viết cũng đưa ra một số gợi ý về vấn đề dạy ngữ pháp trong giáo dục ngoại ngữ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh ngôn ngữ học biến đổi - Tạo sinh của Chomsky và ngôn ngữ học chức năng của Halliday
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 27 (2011) 163-175 163 So sánh ngôn ngữ học biến đổi - tạo sinh của Chomsky và ngôn ngữ học chức năng của Halliday Lê Văn Canh* Phòng Hợp tác Quốc tế, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 06 tháng 8 năm 2010 Tóm tắt. Noam Chomsky và Michael Halliday là hai trong số những nhà ngôn ngữ học lớn của thời đại chúng ta. Lý thuyết ngôn ngữ học của hai ông đều có ảnh hưởng sâu rộng trong giới ngôn ngữ học lý thuyết và ngôn ngữ học ứng dụng, mặc dù đó là hai trường phái lý thuyết khác nhau do chúng được dựa trên hai cơ sở triết học khác nhau. Chomsky chịu ảnh hưởng của triết học Descartes cho rằng ý thức và vật chất không có bất cứ mối liên hệ gì với nhau còn Halliday chịu ảnh hưởng của thuyết tiến hóa của Darwin rằng ngôn ngữ và ý thức tuân theo những quy luật của mọi vấn đề trong đời sống hiện thực. Bài viết này trình bày những nội dung chính, những luận điểm quan trọng trong lý thuyết của hai nhà ngôn ngữ học vĩ đại này. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến kết luận rằng lý thuyết của hai ông thực chất không loại trừ nhau mà nằm trên một thể liên tục. Đồng thời tác giả cũng lập luận rằng cả lý thuyết ngữ pháp tâm lý của Chomsky và ngữ pháp chức năng-hệ thống của Halliday đều là ngữ pháp tra cứu chứ không thể trở thành ngữ pháp nhà trường được do chúng quá phức tạp và rối rắm mặc dù mỗi trường phái đều có những ứng dụng riêng. Bài viết cũng đưa ra một số gợi ý về vấn đề dạy ngữ pháp trong giáo dục ngoại ngữ. Từ khóa: Ngữ pháp biến đổi-tạo sinh, ngữ pháp chức năng-hệ thống, ngữ năng, ngữ hiện, dạy ngữ pháp. *Có một sự trùng lặp thú vị là hai trong số những nhà ngôn ngữ học lớn của thời đại chúng ta - Noam Chomsky và Michael Halliday - đều sinh năm 1928 tại hai quốc gia ở hai bờ Đại Tây Dương, một người sinh ở Hoa Kỳ, còn người kia sinh ở nước Anh. Cả hai đều là những nhà ngữ học vĩ đại với hai trường phái lý thuyết ngôn ngữ học rất khác nhau. Một người nghiên cứu ngôn ngữ theo quan điểm sinh học, còn người kia theo quan điểm xã hội học. Vậy đó có phải là hai trường phái ngôn ngữ học đối lập nhau? Trên cơ sở phân tích sự khác biệt giữa hai trường phái ngôn ngữ học mà hai ông là đại diện, bài viết đi ______ * ĐT: 84-913563126. E-mail: levancanhvnu@gmail.com đến kết luận là hai trường phái ngôn ngữ học này không loại trừ lẫn nhau mà bổ sung cho nhau và nằm trong một thể liên tục (continuum). Nhân đây, chúng tôi cũng đưa ra một vài gợi ý mang tính nguyên tắc cho việc dạy ngữ pháp trong lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ. Noam Chomsky Sinh ra ở bang Philadelphia (Hoa Kỳ), Chomsky theo học ngành toán, triết học và ngôn ngữ tại Đại học Pennsylvania. Sau khi bảo vệ luận án tiến sỹ ngành ngôn ngữ học vào năm 1955, ông tham gia giảng dạy tại Viện Công nghệ Massachussetts từ năm 1955 đến nay và được L.V. Canh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 27 (2011) 163-175 164 phong là Giáo sư của Viện vào năm 1976. Sự đóng góp của Chomsky cho ngành ngôn ngữ học là hết sức to lớn. Lý thuyết ngôn ngữ của ông có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu, cả trên bình diện lý thuyết lẫn bình diện ứng dụng. Lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky có sức lôi cuốn to lớn đối với nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới trong thập kỷ 70 vì lý thuyết này hứa hẹn một phương pháp tư duy khoa học. John Lyons [1:iii], trong phần giới thiệu cuốn Chomsky xuất bản năm 1970 cho rằng cuốn sách này dành cho những người không phải là các nhà ngôn ngữ học chuyên nghiệp. Trong suốt 10 trang đầu của cuốn sách này, Lyons nhiều lần dùng từ “khoa học” để giới thiệu về Chomsky nhằm mục đích phân biệt lý thuyết của Chomsky với lý thuyết của các nhà ngôn ngữ học khác mà Lyons hàm ý cho là “không có cơ sở khoa học”. Rutherford (1998) [2:2] cũng khẳng định rằng “ngôn ngữ học tạo sinh đưa ra cơ sở lý thuyết được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất cho việc nghiên cứu ngữ pháp”. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì lý thuyết của Chomsky mang tính giả định khoa học nhiều hơn nên không thể kiểm chứng được. Là người theo học triết học, Chomsky chịu ảnh hưởng nhiều của triết học cố điển Hy-La và chủ nghĩa duy lý Pháp, nhất là lý thuyết về tính lưỡng phân giữa trí não và cơ thể (mind-body duality) của Descarter và quan niệm về các phạm trù ngữ pháp của Aristotle. Chomsky là người sáng lập ra trường phái ngữ pháp biến đối-tạo sinh (transformational- generative grammar). Sau này, lý thuyết của ông được trình bày dưới nhiều tên gọi khác nhau: ngữ pháp phổ quát (universal grammar), ngữ pháp biến đổi (transformational grammar), ngữ pháp tạo sinh (generative grammar), chương trình tối giản (minimalist program). Tác phẩm của ông “Cấu trúc cú pháp” (Syntactic Structures) xuất bản năm 1957 được đánh giá là một trong những thành tựu trí tuệ của thế kỷ XX. Trong cuốn sách này, Chomsky cho rằng mục đích của lý thuyết ngôn ngữ về cơ bản là miêu tả ... chỉ có vai trò giúp trẻ em cá biệt hóa ngữ pháp phổ quát đã có sẵn trong đầu khi sinh ra, còn Halliday tin rằng ngôn ngữ chỉ phát triển qua kinh nghiệm tiếp xúc với con người và thế giới quanh ta.Chomsky tin rằng có thể nghiên cứu hệ thống hình thức (âm vị, cú pháp và hình thái) của ngôn ngữ mà không liên hệ đến việc ngôn ngữ được sử dụng như thế nào, tức là bỏ qua các vấn đề như ngữ nghĩa, dụng học và diễn ngôn, Halliday tin rằng chỉ có thể nghiên cứu ngôn ngữ trong thực tế ngôn ngữ được sử dụng để hành chức về mặt xã hội. Chomsky đề cao năng lực ngôn ngữ còn Halliday đề cao năng lực dụng học, tức khả năng sử dụng ngôn ngữ phù hợp về mặt xã hội để đạt được mục tiêu hay ý định giao tiếp. Chomsky là người theo trường phái tối thiểu hóa (minimalist) còn Halliday theo trường phái tối đa hóa (maximalist). Chomsky chịu ảnh hưởng của triết học duy lý của Descarter còn Halliday chịu ảnh hưởng của thuyết tiến hóa của Darwin, tức là ngôn ngữ và trí não tuân thủ theo những quy luật tự nhiên giống như các bình diện khác của hiện thực khách quan. Vì vậy, lý thuyết của Chomsky mang tính siêu hình, duy lý còn lý thuyết của Halliday mang tính thực nghiệm (empirical). Dẫu có những khác biệt trên nhưng chúng tôi cho rằng hai trường phái lý thuyết ngôn ngữ trên không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau. Những khác biệt trên đây không mang tính đối kháng mà nằm trong một thể liên tục (continuum). Ở đầu này của thể liên tục đó là bản chất tâm lý và hệ thống các quy tắc cú pháp của ngôn ngữ, còn ở đầu kia là bản chất xã hội và hệ thống tiềm nghĩa của ngôn ngữ. Quay trở lại câu nói của Dell Hymes (1972) [6] trên đây “Có những quy tắc về cách sử dụng mà thiếu chúng thì những quy tắc ngữ pháp sẽ là vô dụng” (tr.45), chúng ta có thể đặt ngược lại vấn đề là “Có những quy tắc ngữ pháp mà thiếu chúng thì những quy tắc về cách sử dụng sẽ là vô dụng”. Lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky quan tâm đến khía cạnh hình thức (formal) của ngôn ngữ còn lý thuyết của Halliday nhấn mạnh khía cạnh ngữ nghĩa của ngôn ngữ trong thực tế sử dụng. Theo cách hiểu của tôi, thì Halliday chỉ quan tâm đến chức năng của ngôn ngữ mà không chú ý đến vấn đề cú pháp (syntax) của ngôn ngữ. Vấn đề đặt ra là liệu giữa cú pháp và ngữ nghĩa hay chức năng của ngôn ngữ có mối quan hệ nào không và nếu có thì mối quan hệ đó nên được miêu tả như thế nào? Một trong những vấn đề nan giải của ngôn ngữ học là làm thế nào để xử lý mối quan hệ giữa hình thái ngôn ngữ (form) và nghĩa (meaning) của hình thái đó. Saussure đưa ra một khái niệm cơ bản gọi là “ký hiệu ngôn ngữ” (linguistic sign). Ông cho rằng mỗi ký hiệu là một thể thống nhất của cái biểu thị (signifier) và cái được biểu thị (signified). Hai thành tố này thực chất là hình thái và nghĩa. Như vậy thì trong ngôn ngữ, hình thái và nghĩa quy định lẫn nhau như trong bất kỳ hệ thống tín hiệu nào. Về khía cạnh này, ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics) không tách bạch hình thái với nghĩa, cú pháp với chức năng mà coi cả hai là một thể thống nhất. Theo lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận thì ngữ pháp chính là nghĩa được khái quát hóa thành các khái niệm dựa trên kinh nghiệm của con người. Do vậy, chúng ta dựa vào kinh nghiệm chứ không phải dựa vào các nguyên tắc tổ chức của ngôn ngữ để hiểu nghĩa. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng hình thái ngôn ngữ (form) mang tính tri nhận vì nó xuất phát từ quan niệm hiện thực là sản phẩm của sự tri nhận (Robinson & Ellis, 2009) [7]. Hình thái ngôn ngữ cũng mang tính xã hội bởi lẽ nó là công cụ xã hội được dùng để truyền đạt kinh nghiệm từ ngưới này sang người khác. Hơn nữa, các thao tác nhận thức (nghĩa) được mã hóa bằng hình thái ngôn ngữ cũng mang tính xã hội. Vì thế, cùng một nghĩa hay nội dung thông báo nhưng các ngôn ngữ khác nhau có cách thể hiện khác nhau bằng các cấu trúc ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ người Việt Nam nói “ Chúng tôi thích ngữ pháp chức năng”. Trong câu này, “ngữ pháp chức năng” là khách thể hay đối tượng của “thích” còn “chúng tôi” là L.V. Canh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 27 (2011) 163-175 173 chủ thể hành động. Khái quát thành cấu trúc ta có Chủ thể hành động (Chúng tôi) + Biến (thích) + Khách thể (ngữ pháp chức năng). Người Anh cũng dùng cấu trúc này để diễn đạt nghĩa trên nhưng có thể các dân tộc khác lại sử dụng cấu trúc khác. Ví dụ người Nhật lại dùng cấu trúc Chủ thể hành động (Agent) + Khách thể (Object)+Biến (Process). Như vậy, hình thái và nghĩa hay cú pháp với chức năng là hai thành phần hữu cơ của ngôn ngữ và ngôn ngữ mang tính tri nhận còn sự tri nhận mang tính trải nghiệm và xã hội. Tomasello (1998) [16:486] nói rằng “Ngôn ngữ chỉ là tập hợp các quy ước xã hội mà con người sử dụng như một phương tiện để trao đổi với nhau về kinh nghiệm của mình.” Vấn đề dạy ngữ pháp trong giáo dục ngoại ngữ Swan (2011) [17:493] cho rằng “việc dạy ngoại ngữ không phụ thuộc nhiều vào những mô hình lý thuyết cụ thể cho nên chưa có trường hợp nào cho thấy những nỗ lực nhập khẩu các trường phái ngữ pháp cụ thể vào trong lớp học mang lại kết quả tốt đẹp.” Các nhà ngữ pháp lý thuyết luôn tìm cách đưa ra những quy tắc mang tính khái quát hóa tương đối trừu tượng để có thể áp dụng vào các thứ tiếng khác nhau hay ngôn ngữ theo nghĩa chung nhất. Tuy nhiên, đối tượng của việc dạy tiếng lại là những người đã có những kiến thức phi hiển ngôn (implicit) hay vô thức (sub- concious) về cơ chế hoạt động của ngôn ngữ nói chung. Ví dụ, khi bắt đầu học tiếng Anh như một ngoại ngữ, người học, qua kinh nghiệm sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ, đã ý thức được rằng ngôn ngữ được sử dụng để diễn đạt kinh nghiệm của con người về thế giới khách quan hay để giao tiếp giữa người này với người khác. Do vậy, điều mà họ quan tâm không phải là học cách lựa chọn giữa câu trần thuật, câu hỏi hay câu mệnh lệnh. Điều mà họ quan tâm là làm thế nào để nắm vững các hình thức ngôn ngữ (cấu trúc ngữ pháp, từ vựng, ngữ điệu) để thực hiện các chức năng giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa của cộng đồng nói thứ tiếng mà họ đang học. Một vấn đề đặt ra cho các nhà ngôn ngữ học ứng dụng là lựa chọn trường phái ngữ pháp nào để dạy cho học sinh trong chương trình dạy ngoại ngữ. Nắm vững các quy tắc ngữ pháp là rất quan trọng đối với người học nhưng quy tắc ngữ pháp là những gì mang tính khái quát hóa và không thể lý giải cho mọi trường hợp ngôn ngữ được sử dụng. Tại sao các quy tắc ngữ pháp lại mang tính co giãn như vậy? Tại sao rất nhiều các đơn vị từ vựng khi kết hợp với nhau lại từ chối mọi cố gắng của các nhà từ điển học đưa ra những định nghĩa về ngữ nghĩa một cách tường minh? Tại sao bối cảnh văn hóa-xã hội hiện tại lại có những ảnh hưởng to lớn đến ngữ nghĩa của từ vựng trong tương lai? Câu trả lời cho các câu hỏi trên đây nằm ở bản chất động của chính ngôn ngữ và trong hệ thống phức tạp của các mô thức luôn biến đổi không ngừng được mở rộng và biến đổi qua quá trình giao tiếp, trao đi đổi lại và phản hồi liên tục. Vì vậy, thách thức đặt ra cho những người dạy ngoại ngữ là phải lựa chọn một trường phái ngữ pháp tiện ích phục vụ cho việc sử dụng ngôn ngữ và mục đích giao tiếp chứ không phải ngữ pháp lý thuyết như cả hai trường phái ngữ pháp của Chomsky và Halliday. Nói chung, học sinh và giáo viên thích những những lý giải thực tế cho các vấn đề của ngôn ngữ dưới dạng những giải thích dễ hiểu và các phạm trù ngữ pháp rõ ràng được khái quát hóa thành các cấu trúc và phát ngôn tiện cho việc sử dụng. Tuy nhiên giáo viên cần lưu ý rằng quá coi trọng ngữ pháp trong lớp học có thể làm cho người học không ý thức được sự thay đổi liên tục của khẩu ngữ. Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ có những lúc chúng ta cần phải có một cách nhìn bao quát hơn về ngữ pháp bằng cách lưu ý xem xét ngôn ngữ được sử dụng trong thực tế như thế nào. Với cách nhìn như vậy chúng ta mới có thể lý giải được tại sao người bản ngữ lại nói những câu tiếng Anh mà ngữ pháp truyền thống không chấp nhận như: Does my broadband look big in this? hoặc I”m lovin” it. Ngôn ngữ của con người thay đổi không ngừng. Những yếu tố tưởng như không có ý nghĩa gì khi kết hợp lại với nhau lại tạo ra mối quan hệ nhân quả mà kết quả của mối quan hệ đó có khi lại không hề mang dấu ấn của nguyên nhân tạo ra nó. Trong vài thập kỷ gần đây, giới ngôn ngữ học gọi đây là “hiệu quả con bướm của L.V. Canh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 27 (2011) 163-175 174 lý thuyết hỗn độn” (butterfly effect of chaos theory) (xem thêm Hodge, 2003 [18]; Larsen- Freeman, 1997 [19]; Larsen-Freeman & Cameron, 2007 [20]. Vì vậy, ngôn ngữ không tự cho phép nó gắn với những sự phân tích cứng nhắc. Ngôn ngữ chịu sự chi phối của các quy tắc giản đơn nhưng nó lại phát triển trong qúa trình được sử dụng. Nói cách khác ngôn ngữ tuân theo những “luật chơi” riêng của nó nhưng những luật chơi đó mang tính phức hợp về bản chất nên mọi dự đoán đều không có kết quả. Vậy thì việc dạy ngữ pháp trong ngoại ngữ phải đặt trọng tâm vào khả năng sử dụng ngoại ngữ một cách sáng tạo của người học chứ không phải chỉ chú trọng vào việc thuộc lòng các quy tắc ngữ pháp. Larsen-Freeman (2003) [21] gọi ngữ pháp là kỹ năng thứ năm ngoài các kỹ năng ngôn ngữ khác như nói, nghe, đọc, viết. Kỹ năng thứ năm này là khả năng sử dụng các cấu trúc ngữ pháp chính xác, có chức năng giao tiếp và phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Như vậy ngữ pháp không chỉ là kiến thức về cú pháp và hình thái học mà quan trọng hơn là khả năng biết sử dụng ngôn ngữ hiệu quả. Dạy ngữ pháp theo đường hướng đó đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức về các trường phái ngữ pháp khác nhau để nhận thấy rằng sở dĩ có sự khác nhau đó là do ngôn ngữ được nhìn nhận từ các cơ sở triết học khác nhau. Kết luận Nếu lý thuyết ngữ pháp biến đổi-tạo sinh của Chomsky tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng trong ngành ngôn ngữ học lý thuyết, thì lý thuyết ngữ pháp chức năng-hệ thống của Halliday lại gây ra những tiếng vang lớn trong các ngành ngôn ngữ học ứng dụng. Tuy có những khác biệt về cơ sở triết học và cơ sở lý thuyết nhưng tôi cho rằng cả hai trường phái trên đều nằm trên một thể liên tục (continuum) đầu này là ngữ pháp biến đổi-tạo sinh (cấu trúc cú pháp) còn đầu kia là ngữ pháp chức năng (nghĩa). Với quan điểm hiện nay về vai trò của ngữ pháp trong lĩnh vực dạy ngoại ngữ, ngữ pháp được coi như một kỹ năng (grammaring) thì sự phân biệt giữa cấu trúc và chức năng trở nên không cần thiết. Quan niệm ngữ pháp là một kỹ năng yêu cầu người học phải biết vận dụng ngữ pháp vào các bối cảnh sử dụng khác nhau. Đó là khả năng khai thác nguồn kiến thức ngữ pháp để tạo nghĩa trong giao tiếp. Với quan niệm như vậy thì ranh giới giữa cấu trúc (cú pháp) và chức năng (nghĩa) sẽ trở nên lu mờ. Quan niệm này gần với quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, một lĩnh vực đang được giới ngôn ngữ học Việt Nam quan tâm trong những năm gần đây. Tài liệu tham khảo [1] J. Lyons, Chomsky, London: Collins, 1970. [2] W. Rutherford, A workbook in the structure of English.,Blackwell, Malden, MA & Oxford, 1998. [3] Lưu Nhuận Thanh, Các trường phái ngôn ngữ học phương Tây, 1998, Bản dịch tiếng Việt của Đào Hà Ninh, NXB Lao động, Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Hà Nội, 2004. [4] N. Chomsky, Aspects of the theory of syntax, The MIT Press, Cambridge, MA, 1965. [5] N. Chomsky, Rules and representations, Columbia University Press, New York, 1980. [6] D. Hymes, On communicative competence, In J. Pride and J. Holmes (eds.), Sociolinguistics, Penguin., Harmondsworth, 1972. [7] P. Robinson & N. C. Ellis, (Eds.), Handbook of cognitive linguistics and second language acquisition, Routledge, New York, 2009. [8] B. Bernstein, Pedagogy, symbolic control and identity: Theory, research, critique (Revised Ed.), Littlefield Publishers, Inc.Maryland, 2000. [9] N.Chomsky, Syntactic structures, The Hague, Mouton, 1957. [10] M.A.K. Halliday, Categories of the theory of grammar, Word, 17(3) (1961) 241. [11] M.A..K. Halliday & C.M.I.M. Matthiessen, Construing experience through meaning: A language-based approach to cognition, Cassell, London & New York, 1999. [12] M..A.K. Halliday, Learning how to mean, Edward Arnold, London, 1975. [13] M.A.K. Halliday, Explorations in the functions of language, Edward Arnold, London, 1973. [14] M.A.K. Halliday, Language as social semiotic: The social interpretation of language and meaning, Edward Arnold, Baltimore, MD, 1978. [15] M.A.K. Halliday, An introduction to functional grammar, Arnold, London, 1994. L.V. Canh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 27 (2011) 163-175 175 [16] M. Tomasello, Constructing a language: A usage- based theory of language acquisition, Harvard University Press, Cambridge, MA, 2003. [17] M. Swan, Exploring English grammar: From formal to functional, ELT Journal, 65(4), 491-495 [18] D. Larsen-Freeman, Chaos/complexity science and second language acquisition, Applied Linguitsics, 18(2) (1997) 141. [19] D. Larsen-Freeman, L. Cameron, Complex systems and applied linguistics,Oxford University Press, Oxford, 2007. [20] R. Hodge, Chaos theory: An introduction for TESOL practitioners, English Australia (EA) Journal, 21(1) (2003) 8. [21] D. Larsen-Freeman, Teaching language: From grammar to grammaring, Heinle, New York, 2003. A comparative study on Chomskyan transformational - generative grammar and Hallidayan systemic - functional grammar Le Van Canh International Co-operation Office, VNU University of Languages and International Studies, Pham Van Dong street, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Noam Chomsky and Michael Halliday are the two great linguists of our time. Both developed influential, but different, theories of language. The differences in their theory are rooted in the two different philosophies. Chomsky’s theory is Cartesian, that is mind exists separately from matter while Halliday’s ideas are Darwian, that is language and the mind obey the same laws as all other aspects of reality. This paper discusses the central points in the theories of these two great linguists and concludes that their theories are not exclusive, but of the same continuum. My concluding remark is that both mentalist and systemic-functional grammars, which are developed respectively by Chomsky and Halliday, are just reference grammars, rather than pedagogical grammar because of their respective messiness and complexity albeit their specific applicability.The paper also presents, from the author’s perspective, some suggestions on how grammar should be taught. Key Words: Transformational-generative grammar, systemic-functional grammar, linguistic competence, linguistic performance, grammar teaching.
File đính kèm:
- so_sanh_ngon_ngu_hoc_bien_doi_tao_sinh_cua_chomsky_va_ngon_n.pdf