Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay (1930 -2018) là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc Việt Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chứng tỏ được bản lĩnh, trí tuệ của mình trong trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng tạo

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 1

Trang 1

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 2

Trang 2

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 3

Trang 3

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 4

Trang 4

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 5

Trang 5

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 6

Trang 6

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 7

Trang 7

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 8

Trang 8

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 9

Trang 9

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trang 10

Trang 10

pdf 10 trang Trúc Khang 10/01/2024 4420
Bạn đang xem tài liệu "Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
53 
SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 
VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM 
 Nguyễn Thị Túy1 
TÓM TẮT 
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay (1930 -2018) là một đảng 
cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc Việt 
Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ cách 
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình 
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chứng tỏ được bản lĩnh, trí tuệ của mình trong 
trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ 
thể của Việt Nam, đưa cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng tạo 
1. Đặt vấn đề 
Đảng Cộng sản Việt Nam là người 
tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của 
cách mạng Việt Nam trên con đường 
đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ 
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là 
một thực tiễn lịch sử không ai có thể 
phủ nhận được. 
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản 
Việt Nam ra đời không chỉ chấm dứt sự 
khủng hoảng về đường lối cứu nước mà 
còn khẳng định vai trò quyết định về sự 
lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt 
Nam đối với cách mạng Việt Nam. 
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là 
sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin 
với phong trào công nhân và phong trào 
yêu nước Việt Nam. Với đường lối 
đúng đắn, dựa trên cơ sở lý luận của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với 
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt 
Nam và xu thế phát triển của lịch sử 
loài người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
quy tụ, đoàn kết, xây dựng nên lực 
lượng cách mạng to lớn, rộng khắp và 
tổ chức quần chúng đấu tranh không chỉ 
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân 
dân mà còn cả trong sự nghiệp đổi mới 
hiện nay. Trước những khó khăn, thách 
thức, những vấn đề mới chưa có tiền lệ 
trong lịch sử, bên cạnh nhiều điểm sáng 
tạo, trong quá trình lãnh đạo Đảng Cộng 
sản Việt Nam cũng không thể tránh 
khỏi những hạn chế, yếu kém, khuyết 
điểm, thậm chí có cả những sai lầm, 
nhưng Đảng ta đã sớm phát hiện ra 
những hạn chế, yếu kém, sai lầm, 
khuyết điểm, kịp thời đề ra những biện 
pháp sữa chữa đúng đắn. Vì vậy, Đảng 
ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là 
người lãnh đạo chân chính, duy nhất. 
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam 
đã chứng minh không có một tổ chức 
chính trị nào có thể thay thế được vai 
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt 
Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: phuongtuydhdongnai@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
54 
Nam; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là 
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của 
cách mạng Việt Nam. Quan điểm, 
đường lối, chủ trương của Đảng là nhất 
quán về mục tiêu độc lập dân tộc gắn 
liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định trên 
lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh; là sự kế thừa, 
phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng 
Việt Nam. 
Với vai trò lãnh đạo, định hướng, 
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn 
bám sát thực tiễn, bổ sung và phát triển 
nhiều luận điểm quan trọng. Trong 
khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ dừng 
lại việc chứng minh, phân tích hai điểm 
sáng tạo nổi bật, đó là: vận dụng và phát 
triển lý luận về Đảng Cộng sản, sáng 
lập Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố 
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự 
nghiệp giải phóng dân tộc và tiến lên 
xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự sáng tạo 
trong đường lối đối ngoại của Đảng 
Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới. 
2. Nội dung 
2.1. Vận dụng và phát triển lý luận 
về Đảng Cộng sản, sáng lập Đảng 
Cộng sản Việt Nam - nhân tố hàng 
đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp 
giải phóng dân tộc và tiến lên xây 
dựng chủ nghĩa xã hội 
Gần 90 năm qua, Đảng Cộng sản 
Việt Nam đã vận dụng sáng tạo và phát 
triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá 
trình đấu tranh giải phóng dân tộc và 
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam với những thắng lợi vô cùng 
to lớn. 
Quá trình vận dụng và phát triển lý 
luận về Đảng Cộng sản, sáng lập ra 
Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố 
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự 
nghiệp giải phóng dân tộc và tiến lên 
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một luận 
điểm sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh. 
Trong lúc đất nước ta đang bế tắc 
về đường lối chính trị, Nguyễn Ái Quốc 
đã tìm thấy con đường cứu nước cho 
cách mạng Việt Nam là con đường cách 
mạng vô sản. Hành trình đi tìm đường 
cứu nước, Người đã nghiên cứu nhiều 
cuộc cách mạng lớn trên thế giới như 
cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, 
nhưng chỉ có Cách mạng tháng Mười 
Nga là cuộc cách mạng triệt để nhất, 
giải phóng dân tộc và mang lại lợi ích 
cho người lao động. Người cho rằng 
cần phải nhận thức và hiểu đúng giá trị 
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để ...  phát triển sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng ngoại 
giao Hồ Chí Minh. Xét trên nhiều góc 
độ, đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng 
là sự trở lại với tư duy biện chứng duy 
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, 
với nhãn quan chiến lược và sách lược 
đối ngoại đúng đắn của Hồ Chí Minh. 
Những tinh hoa trong tư tưởng ngoại 
giao nhân văn, hòa bình, rộng mở, linh 
hoạt, mềm dẻo có nguyên tắc của Hồ 
Chí Minh trở thành nền tảng lý luận và 
ngọn cờ tư tưởng cho đối ngoại Việt 
Nam thời kỳ đổi mới. 
Có thể thấy, sự sáng tạo trong 
đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ 
đổi mới được thể hiện rõ nét trên nhiều 
mặt. Trước hết, Đảng ta chú trọng đổi 
mới việc nhận thức, đánh giá cục diện 
và xu thế phát triển của thế giới. 
Bước ngoặt mang tính đột phá sáng 
tạo đối với sự phát triển tư duy đối 
ngoại, cũng như nhận thức cục diện thế 
giới và xu thế thời đại, được mở ra từ 
Nghị quyết số 13/NQ-TW của Bộ 
Chính trị (5-1988) “Về nhiệm vụ và 
chính sách đối ngoại trong tình hình 
mới”. Nghị quyết đã thể hiện tư duy 
mới và cách nhìn mới về thế giới, đánh 
giá đúng bạn và thù, chuyển hướng chỉ 
đạo chiến lược đối ngoại nhằm giữ 
vững hòa bình, tranh thủ điều kiện quốc 
tế thuận lợi mới để phá thế bao vây, 
cấm vận, tăng cường hợp tác quốc tế. 
 Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính 
trị là Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI 
(3-1989) đã nâng tư duy đối ngoại của 
Đảng lên một tầm cao mới. Từ đây, 
Đảng xác định ưu tiên đối ngoại hàng 
đầu là giữ vững hòa bình và phát triển 
kinh tế, nhấn mạnh chính sách “thêm 
bạn bớt thù”, đa phương hóa quan hệ 
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc 
lập chủ quyền cùng có lợi, kiên quyết 
và chủ động chuyển sang đấu tranh và 
hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. 
Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI còn 
vạch rõ cần phải chuyển mạnh hoạt 
động ngoại giao từ quan hệ chính trị là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
58 
chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, 
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phục 
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc. Bước đột phá về tư duy đối ngoại 
nêu trên đã định hình những quan điểm 
cơ bản trong đường lối đối ngoại độc 
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa 
phương hóa của Đảng ta. 
Trong đổi mới tư duy về quan hệ 
quốc tế, điểm mấu chốt nhất là Đảng ta 
ngày càng nhận thức rõ sự chuyển dịch 
lớn trong quan hệ quốc tế, nhất là quan 
hệ giữa các nước lớn, từ tình trạng đối 
đầu gay gắt về chính trị - quân sự, khu 
biệt về kinh tế sang vừa đấu tranh, vừa 
hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. Do 
đó, Đảng có nhận thức ngày càng đúng 
đắn hơn, phù hợp hơn về vấn đề tập hợp 
lực lượng, về xử lý các vấn đề quốc tế 
liên quan trực tiếp đến nước ta. 
Bước sang năm 1991, trong bối 
cảnh tình hình khu vực và thế giới có 
nhiều biến động. Đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ VII (6/1991) đã tiếp tục 
thể hiện tư duy đổi mới trong lĩnh vực 
đối ngoại bằng khẳng định: “Chúng ta 
chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng 
có lợi với tất cả các nước, không phân 
biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau 
trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại 
hòa bình” [1, tr. 88]. Điều này cho thấy 
sự thay đổi về chất trong tư duy về đối 
ngoại đa phương của Đảng. Đó là chủ 
trương: vượt lên trên tư duy về “bạn”, 
“thù”, “đa phương hóa, đa dạng hóa, 
quan hệ quốc tế”. Tới Đại hội lần thứ 
IX (4/2001), lần đầu tiên, Đảng ta đưa 
ra khái niệm đối tác, đối tượng thay cho 
bạn và thù; đồng thời, xác định trong 
đối tác có đối tượng và trong đối tượng 
có đối tác. Do đó, chính sách đối ngoại 
chung của Việt Nam cần tránh cả hai 
khuynh hướng mất cảnh giác, tuyệt đối 
hóa đối tác hoặc đối tượng trong việc 
xử lý quan hệ cụ thể. Đại hội đã khẳng 
định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối 
tác tin cậy của các nước trong cộng 
đồng quốc tế, đẩy mạnh hoạt động tại 
các diễn đàn đa phương” [2, tr. 119]. 
Đây là bước chuyển biến quan trọng, là 
nội dung cốt lõi trong tư duy đối ngoại 
đa phương của Đảng ta và là cơ sở then 
chốt để Việt Nam triển khai đối ngoại 
đa phương trên thực tế. 
Tiếp tục phát triển và làm sâu sắc 
thêm tư tưởng chỉ đạo đối ngoại được 
nêu ra trong các nhiệm kỳ đại hội trước 
đó, Đại hội X khẳng định các quan điểm: 
“Thực hiện nhất quán đường lối đối 
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác 
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng 
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các 
quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực 
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở 
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực 
khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy 
của các nước trong cộng đồng quốc tế, 
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác 
quốc tế và khu vực” [3, tr. 38]. Quan 
điểm của Đại hội X được Đại hội XI kế 
thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn 
khi xác định: “Thực hiện nhất quán 
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa 
bình, hợp tác và phát triển; đa phương 
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và 
tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
59 
thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân 
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy 
và thành viên có trách nhiệm trong cộng 
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp 
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và 
tiến bộ xã hội trên thế giới” [4, tr. 83]. 
Với thế và lực mới của đất nước, tư 
tưởng chỉ đạo của Đảng nhấn mạnh 
không chỉ tính chủ động và tích cực 
trong quá trình hội nhập quốc tế, mà còn 
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của 
nước ta trong việc tham gia giải quyết 
các vấn đề khu vực và thế giới, đóng góp 
cho hòa bình, hợp tác và phát triển. 
Phù hợp với mục tiêu của đường lối 
đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp 
tác và phát triển của chính sách đối 
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng 
hóa, Đảng cũng luôn xác định một cách 
nhất quán nhiệm vụ đối ngoại cơ bản 
trong suốt thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ 
đó được tiếp tục khẳng định và phát 
triển tại Đại hội XII. Đó là: “Thực hiện 
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, 
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; 
đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan 
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội 
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy 
và thành viên có trách nhiệm trong cộng 
đồng quốc tế” [5, tr. 154]. 
Sự sáng tạo trong đường lối đối 
ngoại đổi mới của Đảng còn được thể 
hiện qua việc nêu ra và thực hiện tốt 
phương châm xử lý các vấn đề quốc tế. 
Đó là: Đảo đảm lợi ích dân tộc cao nhất 
là xây dựng thành công và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kết hợp 
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ 
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. 
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh 
trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy mặt hợp 
tác, đấu tranh để hợp tác, tránh trực diện 
đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập. Giữ 
vững độc lập tự chủ, đẩy mạnh đa dạng 
hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. 
Chú trọng hợp tác khu vực, đồng thời 
mở rộng quan hệ với tất cả các nước, 
trong đó đặt cao quan hệ với các nước 
lớn; chủ động tham gia các tổ chức đa 
phương trong khu vực và toàn cầu. 
Một điểm mới nữa trong tư duy đối 
ngoại đa phương của Đảng ta trong 
giai đoạn này là kết hợp chặt chẽ quá 
trình hội nhập quốc tế và đối ngoại đa 
phương với yêu cầu giữ vững an ninh 
quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền 
và an ninh đất nước. Triển khai đường 
lối đối ngoại đổi mới sáng tạo và đúng 
đắn, nước ta đã đạt được những thành 
tựu rất quan trọng, giữ vững môi 
trường hòa bình, quan hệ đối ngoại 
không ngừng được mở rộng, vị thế đất 
nước ngày càng được nâng cao trên 
trường quốc tế, đóng góp xứng đáng 
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc. Nước ta ngày càng chủ động và 
tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh 
vực, góp phần thúc đẩy, củng cố xu thế 
hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực 
và trên thế giới. 
Sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu 
quả giữa đối ngoại Đảng và đối ngoại 
nhân dân với ngoại giao nhà nước tạo 
nên diện mạo đa dạng với nội dung và 
hình thức phong phú của đối ngoại Việt 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
60 
Nam trong quá trình hội nhập. Đảng ta 
cũng chủ động mở rộng quan hệ với các 
đảng cầm quyền, nhất là với đảng cầm 
quyền ở các nước láng giềng và khu 
vực, góp phần tăng cường quan hệ 
ngoại giao nhà nước. Đối ngoại nhân 
dân tiếp tục đổi mới toàn diện với lực 
lượng tham gia ngày càng đông đảo, địa 
bàn hoạt động và đối tác ngày càng mở 
rộng. Công tác với các tổ chức phi 
chính phủ nước ngoài đã thu hút được 
các nguồn tài trợ, đóng góp thiết thực 
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của 
đất nước. Công tác vận động dư luận 
quốc tế và thông tin tuyên truyền đối 
ngoại ngày càng đổi mới cả về nội dung 
và hình thức. Việt Nam tranh thủ được 
sự ủng hộ của nhiều nước và nhiều tổ 
chức phi chính phủ trong đấu tranh dư 
luận xung quanh các vấn đề chính trị 
nhạy cảm, cũng như những áp đặt bất 
hợp lý đối với các doanh nghiệp Việt 
Nam trong quan hệ kinh tế - thương mại 
quốc tế thời gian qua. 
Hoạt động ngoại giao đa phương 
của nước ta có bước trưởng thành và 
phát triển nổi bật. Đây là bước chuyển 
lớn trong tư duy đối ngoại đa phương 
của Việt Nam ở tầm cao nhất, tiếp tục 
thể hiện tính tiếp nối, sẵn sàng và có 
trách nhiệm của Việt Nam tham gia vào 
sân chơi toàn cầu hóa. Có thể nói, chưa 
bao giờ quan hệ đối ngoại của Việt 
Nam lại rộng mở và phát triển như hiện 
nay. So với thời kỳ trước đổi mới, Việt 
Nam đã có những đột phá trong tư duy 
đối ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn” 
đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối 
tác tin cậy”, là “thành viên có trách 
nhiệm” là kết quả của sự sáng tạo đột 
phá trong tư duy đối ngoại của Việt 
Nam. Sự đột phá này không chỉ dẫn đến 
những thành tựu to lớn trong hoạt động 
đối ngoại của Việt Nam mà còn thể hiện 
một diện mạo mới của một quốc gia 
năng động, cởi mở như Việt Nam. Tất 
cả điều ấy đã góp phần vào việc giữ 
vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt 
nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát 
triển đất nước; đồng thời, vững tin vươn 
lên trưởng thành vượt bậc, tận dụng thời 
cơ, vượt qua thách thức, góp phần nâng 
tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. 
Những thành tựu đó là biểu hiện sinh 
động nhất về tính sáng tạo, đúng đắn 
trong đường lối đối ngoại đổi mới của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. 
3. Kết luận 
Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện 
nào, nếu chúng ta kiên định và vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin 
một cách phù hợp chính là điều kiện 
bảo đảm chắc chắn nhất để cách mạng 
giành thắng lợi; trái lại, nếu chúng ta xa 
rời lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, xem nhẹ hoặc giáo điều, rập 
khuôn, máy móc sách vở thì nhất định 
cách mạng sẽ mắc sai lầm và không thể 
tránh khỏi những tổn thất nặng nề, thậm 
chí phải trả giá đắt. Một trong những 
bài học lớn về sự thành công của Đảng 
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí 
Minh trong lãnh đạo cách mạng Việt 
Nam là bài học luôn kiên định lập 
trường, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin phù hợp với yêu cầu của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
61 
nước ta. Gần 90 năm qua, Đảng ta đã 
xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao 
vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của 
mình, đề ra đường lối đúng đắn mang 
lại lợi ích cho nhân dân, cho dân tộc, 
giành được nhiều thắng lợi cơ bản, 
được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Vận 
dụng và phát triển lý luận về Đảng 
Cộng sản, sáng lập Đảng Cộng sản Việt 
Nam - nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng 
lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và 
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự 
sáng tạo trong đường lối đối ngoại của 
Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi 
mới, đây là hai luận điểm trong nhiều 
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng 
mà tác giả muốn tập trung phân tích. 
Ngày nay, cách mạng Việt Nam đã 
chuyển sang một giai đoạn mới. Những 
mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt 
Nam do Đảng xác định từ những năm 
30 của thế kỷ XX đến nay đang được 
thực hiện từng bước. Đất nước đã được 
độc lập, nhân dân đã được tự do. Tuy 
nhiên, đời sống của nhân dân lao động 
vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế đất 
nước vẫn chưa phát triển mạnh, các nguy 
cơ đe dọa đất nước, chế độ vẫn còn rình 
rập. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam 
vẫn cần kiên định sứ mệnh lịch sử của 
mình, lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực 
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh 
quốc tế, khu vực có nhiều biến động 
phức tạp, đưa nước ta trở thành một 
nước giàu mạnh của khu vực và thế giới. 
Chỉ có như vậy, nền độc lập dân tộc, chủ 
quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa 
ở Việt Nam mới vững bền, sự nghiệp 
cách mạng của Đảng mới thành công 
trọn vẹn. 
Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng 
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng 
sản Việt Nam đã mang lại thắng lợi cho 
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp; có sứ mệnh và khả năng 
lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng 
thành công chế độ xã hội mới. Điều 4 
Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng 
Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của 
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu 
trung thành quyền lợi của giai cấp công 
nhân, nhân dân lao động và của cả dân 
tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh 
đạo Nhà nước và xã hội”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
62 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
THE CREATIONS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM IN 
THE PROCESS OF APPLYING MARXISM LENINISM TO THE 
PRACTICAL REVOLUTION IN VIETNAM 
ABSTRACT 
 The Communist Party of Vietnam was established in 1930. Up to now, the 
Communist Party of Vietnam has proven that the Party has been the most righteous 
revolutionary party seizing the largest convergence power of the Vietnamese. The 
Communist Party of Vietnam is an organizer as well as a leader of all glorious 
victories of both the national democratic revolution and the socialist revolution. In 
the process of leading the revolution, the Party has proven its bravery and 
intelligence for the application and development of principles of Marxism- Leninism 
to the specific conditions of Vietnam and they have brought successive victories to 
our country. 
Keywords: The Communist Party of Vietnam, creation 
(Received: 4/12/2018, Revised: 16/2/2019, Accepted for publication: 7/5/2019) 

File đính kèm:

  • pdfsang_tao_cua_dang_cong_san_viet_nam_trong_qua_trinh_van_dung.pdf