Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam

Quyền TCTT KH&CN được nhận diện là một trong những

quyền cơ bản của công dân, cần được Nhà nước thừa nhận và bảo

đảm thực thi. Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội thông tin và nền kinh

tế tri thức, với vị trí và vai trò quan trọng của KH&CN trong phát

triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia thì TCTT KH&CN trở thành

một nhu cầu thiết yếu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và

đổi mới, phục vụ học tập, sản xuất, kinh doanh. Trên bình diện

pháp luật Việt Nam, quyền TCTT KH&CN chịu sự điều chỉnh của

nhiều pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật về quyền TCTT

được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Luật

TCTT 2016, pháp luật chuyên ngành đó là pháp luật về hoạt động

thông tin KH&CN và pháp luật khác có liên quan.

Trong nghiên cứu này, trên cơ sở khái quát hóa những vấn đề

cơ bản về quyền TCTT KH&CN của công dân, chúng tôi sử dụng

phương pháp nghiên cứu các quy định của pháp luật kết hợp với

phân tích đánh giá, tổng hợp, so sánh các nguồn số liệu thống kê

thu thập được nhằm nhận diện hiện trạng pháp luật về quyền TCTT

KH&CN ở Việt Nam; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ

thống pháp luật, đáp ứng nhu cầu TCTT KH&CN phục vụ nghiên

cứu khoa học và đổi mới của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp.

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 11600
Bạn đang xem tài liệu "Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam

Quyền tiếp cận thông tin khoa học công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam
5063(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Mở đầu
Quyền TCTT KH&CN được nhận diện là một trong những 
quyền cơ bản của công dân, cần được Nhà nước thừa nhận và bảo 
đảm thực thi. Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội thông tin và nền kinh 
tế tri thức, với vị trí và vai trò quan trọng của KH&CN trong phát 
triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia thì TCTT KH&CN trở thành 
một nhu cầu thiết yếu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và 
đổi mới, phục vụ học tập, sản xuất, kinh doanh. Trên bình diện 
pháp luật Việt Nam, quyền TCTT KH&CN chịu sự điều chỉnh của 
nhiều pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật về quyền TCTT 
được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Luật 
TCTT 2016, pháp luật chuyên ngành đó là pháp luật về hoạt động 
thông tin KH&CN và pháp luật khác có liên quan. 
Trong nghiên cứu này, trên cơ sở khái quát hóa những vấn đề 
cơ bản về quyền TCTT KH&CN của công dân, chúng tôi sử dụng 
phương pháp nghiên cứu các quy định của pháp luật kết hợp với 
phân tích đánh giá, tổng hợp, so sánh các nguồn số liệu thống kê 
thu thập được nhằm nhận diện hiện trạng pháp luật về quyền TCTT 
KH&CN ở Việt Nam; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ 
thống pháp luật, đáp ứng nhu cầu TCTT KH&CN phục vụ nghiên 
cứu khoa học và đổi mới của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. 
Cơ sở khoa học về quyền TCTT KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học 
và đổi mới 
Thông tin KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học và đổi mới
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin KH&CN, trong 
nghiên cứu này, thông tin KH&CN được định nghĩa là các dữ 
liệu, dữ kiện, số liệu, tin tức được tạo ra trong hoạt động khoa 
học, công nghệ và đổi mới [1, 2]. Trong định nghĩa này, hoạt động 
KH&CN được xác định bao gồm: hoạt động nghiên cứu và triển 
khai (R&D), hoạt động phát triển công nghệ gồm: mở rộng công 
nghệ, nâng cấp công nghệ, đổi mới công nghệ và hoạt động dịch 
vụ KH&CN [3]. 
Thuật ngữ nghiên cứu khoa học trong nghiên cứu này được 
hiểu là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật 
của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải 
pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn1.
Theo OECD, hoạt động đổi mới (cũng có thể hiểu là “đổi 
mới sáng tạo”) là “việc thực thi một sản phẩm (hàng hóa/dịch vụ) 
hay một quy trình mới hoặc cải tiến đáng kể, một phương pháp 
maketing mới hay một biện pháp mang tính tổ chức trong thực tiễn 
hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ bên ngoài”. 
Hoạt động đổi mới bao gồm: đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, 
đổi mới tiếp thị và đổi mới quản lý... [4]. 
Tại Việt Nam, Khoản 16 Điều 3 Luật KH&CN 2013 đã định 
nghĩa: “Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải 
pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả 
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị 
gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”.
Quyền tiếp cận thông tin KH&CN 
trong hoạt động nghiên cứu khoa học 
và đổi mới ở Việt Nam 
Lê Tùng Sơn1*, Thạch Thị Hoàng Yến2, Trần Văn Hồng3
1Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
2Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
2Trung tâm Văn hóa quận 6, TP Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài 30/12/2020; ngày chuyển phản biện 8/1/2021; ngày nhận phản biện 9/3/2021; ngày chấp nhận đăng 15/3/2021
Tóm tắt:
Thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) có vai trò quan trọng trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. Tiếp 
cận thông tin (TCTT) KH&CN phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học trở thành một nhu cầu thiết yếu và là 
yếu tố tác động đến chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, từ đó đặt ra vấn đề thiết lập 
khung pháp lý trong việc thừa nhận và bảo đảm thực thi quyền TCTT KH&CN. Nghiên cứu này, trên cơ sở nhận 
diện và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN, đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn 
thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc thực thi quyền TCTT KH&CN ở Việt Nam. 
Từ khóa: chính sách, pháp luật, thông tin KH&CN, tiếp cận thông tin. 
Chỉ số phân loại: 5.8
* Tác giả liên hệ: Email: tungson.hlu@gmail.com
1Luật KH&CN 2013, Khoản 4 Điều 3.
5163(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quyền TCTT KH&CN
Định nghĩa quyền TCTT KH&CN: để nhận diện quyền TCTT 
KH&CN, trước tiên cần nhận diện nội hàm của quyền TCTT. 
Quyền TCTT được thừa nhận trong 2 văn kiện quốc tế là Tuyên 
ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 [5] và 
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 [6] 
và các văn kiện quốc tế khác như: Công ước của Liên hợp quốc 
về phòng, chống tham nhũng năm 2003, Tuyên bố Rio về môi 
trường và phát triển năm 1992, Công ước UNECE về TCTT môi 
trường... [7].
Trong nghiên cứu về “Nguyên tắc bảo đảm quyền TCTT theo 
tinh thần của Luật TCTT năm 2016”, Phí Thị Thanh Tuyền đã chỉ 
ra nội hàm của quyền TCTT bao gồm: quyền tiếp nhận thông tin, 
quyền tìm kiếm thông tin, quyền phổ biến thông tin [8].
Trong nghiên cứu này, quyền TCTT được hiểu là quyền công 
dân được tạo ra thô ... ature, IEE Xplore, Proquest 
Central, ACS, Web of Science...
Song song với đó, hạ tầng công nghệ thông tin nói chung và 
mạng thông tin nghiên cứu đào tạo nói riêng đã có bước phát triển, 
trong đó phải kể đến sự ra đời của Mạng nghiên cứu và đào tạo Việt 
Nam (VinaREN) do Cục Thông tin KH&CN quốc gia phát triển. 
Các ứng dụng đã được triển khai trên mạng VinaREN bao gồm: 
VinaREN với dịch vụ Eduroam, VinaREN với dịch vụ E-Culture, 
VinaREN với dịch vụ E-Learning...
Bảo đảm về tài chính
Đây là một “điểm sáng” thể hiện sự hoàn thiện trong hệ thống 
pháp luật về bảo đảm thực thi quyền TCTT KH&CN đối với việc 
bảo đảm nguồn lực tài chính cho các thiết chế cung ứng thông tin 
KH&CN. Điều 20 của Nghị định 11 đã xác định nguồn kinh phí 
cho hoạt động thông tin KH&CN bao gồm: từ ngân sách nhà nước, 
nguồn thu từ hoạt động dịch vụ thông tin KH&CN và nguồn tài trợ 
của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Cùng với đó, Nghị 
định 11 đã quy định về nội dung chi ngân sách nhà nước cho hoạt 
động thông tin KH&CN, đồng thời xác định, ngân sách cho hoạt 
động thông tin KH&CN được ghi thành một mục chi riêng trong 
mục lục ngân sách nhà nước hàng năm cho KH&CN của bộ, ngành 
và địa phương. 
Ngoài ra, tại Điểm c Khoản 1 và Điểm i Khoản 2 Điều 4 Nghị định 
95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định về đầu 
tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN (Nghị định 95) 
đã xác định việc xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia 
và thống kê về KH&CN; tuyên truyền, phổ biến kiến thức, truyền 
thông, hoạt động thông tin KH&CN là những nội dung chi ngân 
sách nhà nước cho KH&CN. 
Đánh giá pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN 
Những điểm mạnh 
Pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN được xây dựng 
dựa trên nền tảng pháp lý cao nhất đó là Hiến pháp 2013 trên cơ 
sở thừa nhận và bảo đảm thực thi quyền TCTT như một quyền cơ 
bản của công dân phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam 
là thành viên. Hệ thống pháp luật về vấn đề này tương đối đầy đủ, 
bao gồm pháp luật chứa đựng nội dung chung (về quyền TCTT) 
và pháp luật chuyên ngành (về hoạt động thông tin KH&CN), loại 
hình văn bản phong phú, bao gồm: luật và các văn bản dưới luật 
hướng dẫn thi hành bảo đảm sự vững chắc cho việc thực thi các 
quy định của pháp luật về quyền TCTT KH&CN. 
Những điểm yếu
Pháp luật về quyền TCTT KH&CN ở Việt Nam còn dàn trải, 
thiếu tính đồng bộ, thống nhất, nội dung các quy phạm pháp luật 
còn chồng chéo, mâu thuẫn, một số quy định còn chưa phù hợp với 
thực tiễn hoạt động thông tin KH&CN, dẫn đến khó khăn trong 
quá trình triển khai thực thi pháp luật. Cụ thể: 
Thứ nhất, pháp luật về quyền TCTT KH&CN trong việc bảo đảm 
thực thi quyền TCTT còn dài trải, thiếu tính thống nhất. Pháp luật về 
quyền TCTT KH&CN được quy định tại nhiều văn bản khác nhau, 
5463(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
bao gồm cả pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành, dẫn đến 
việc vận dụng, áp dụng còn gặp nhiều khó khăn do tính đặc thù 
trong hoạt động thông tin KH&CN. Cụ thể, có thể nhận diện một 
số trường hợp: 
Các quy định của pháp luật về chuẩn hóa hoạt động thông tin 
KH&CN được quy định tập trung tại Chương II (từ Điều 5 đến 
Điều 12) của Nghị định 11, tuy nhiên nhiều nội dung hoạt động 
được nêu trong Nghị định lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành 
cụ thể đối với từng hoạt động nghiệp vụ, dẫn đến khó khăn trong 
vấn đề chuẩn hóa. 
Các quy định về thiết lập mạng lưới tổ chức thông tin KH&CN 
ngoài chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành về hoạt động 
thông tin KH&CN về mặt loại hình tổ chức (quy định tại Nghị định 
11), còn chịu sự điều chỉnh về mặt mô hình tổ chức theo các văn 
bản chuyên ngành chung (về KH&CN), văn bản chuyên ngành về 
nội vụ như Thông tư liên tịch 29; điều chỉnh về mặt cơ chế hoạt 
động (cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập) theo 
quy định tại Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính 
phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập. Đặc 
biệt, quy định về cơ chế tự chủ theo Nghị định 54 lại không phù 
hợp với đặc thù của hoạt động thông tin KH&CN hiện nay, dẫn 
đến sự biến đổi trong tính chất hoạt động của các tổ chức thông 
tin KH&CN.
Các quy định về bảo đảm các nguồn lực cho hoạt động thông 
tin KH&CN với 3 nguồn lực cơ bản đó là: nguồn nhân lực, nguồn 
lực về cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin, và nguồn lực 
tài chính được quy định tản mát tại nhiều văn bản khác nhau, bao 
gồm chuyên ngành KH&CN và chuyên ngành liên quan đến nhân 
lực hoặc tài chính; chưa có quy định đặc thù cho chuyên ngành 
thông tin KH&CN. Đơn cử, vấn đề về nhân lực, chủ yếu chịu sự 
điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành về nội vụ (với các quy định 
về tiêu chuẩn chức danh chung trong lĩnh vực KH&CN, mà chưa 
có quy định về tiêu chuẩn chức danh viên chức hoạt động thông 
tin KH&CN); vấn đề về cơ chế tài chính, chủ yếu được điều chỉnh 
bởi quy định về cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN nói chung 
(quy định tại Nghị định 95) mà chưa có tính đặc thù cho hoạt động 
thông tin KH&CN. 
Thứ hai, pháp luật về quyền TCTT KH&CN có sự mâu thuẫn, 
chồng chéo giữa các hệ thống văn bản pháp luật, giữa việc thừa 
nhận với bảo đảm quyền TCTT KH&CN. Sự mâu thuẫn, chồng 
chéo này được thể hiện trong các quy định của pháp luật về việc 
thừa nhận quyền TCTT KH&CN của tổ chức, cá nhân, đó là sự 
mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật chung (được quy định tại 
Luật TCTT) và pháp luật chuyên ngành (quy định tại Nghị định 
11). Cụ thể: theo quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 32 Nghị định 11, 
tổ chức, cá nhân khai thác thông tin KH&CN “(1) Được yêu cầu 
cung cấp thông tin KH&CN nhằm phục vụ nhu cầu hợp pháp của 
mình; (2) Được TCTT KH&CN tạo ra bằng ngân sách nhà nước 
phù hợp với quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 6 
của Luật TCTT quy định về thông tin công dân không được tiếp 
cận lại bao gồm “thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực 
KH&CN” nhưng lại không quy định cụ thể tiêu chí để xác định 
thế nào là “thông tin có nội dung quan trọng”. Hơn nữa, Khoản 1 
Điều 6 Nghị định 13/2018/NĐ-CP ngày 23/1/2018 của Chính phủ 
quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật TCTT (Nghị định 13) 
quy định về việc lập danh mục, phân loại, cập nhật thông tin lại 
quy định về việc lập danh mục thông tin phải được công khai, và 
danh mục tiếp cận có điều kiện thay vì lập danh mục thông tin 
không được tiếp cận, điều này đã làm thu hẹp phạm vi tiếp cận 
và không thể xác định được giới hạn việc TCTT KH&CN của tổ 
chức, cá nhân; việc tiếp cận này phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước 
trong việc xác định thông tin nào phải được công khai và thông tin 
tiếp cận có điều kiện. Nội dung này hoàn toàn mâu thuẫn với quy 
định tại Khoản 1 và 2 Điều 32 Nghị định 11. Cần nói thêm rằng, 
thông tin KH&CN được tạo ra bằng ngân sách nhà nước hoàn toàn 
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TCTT. 
Thứ ba, nội dung quy định về quyền TCTT KH&CN và những 
biện pháp bảo đảm thực thi được quy định tại pháp luật chuyên 
ngành còn nhiều điểm bất cập, dẫn đến khó khăn trong thực hiện. 
Pháp luật chuyên ngành về quyền TCTT được ban hành dưới hình 
thức nghị định (Nghị định 11), nhưng lại có các quy định về quyền 
và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân (quy định tại Điều 31, 32, 33 của 
Nghị định 11) dẫn đến hiệu lực của văn bản không cao, bởi quyền, 
nghĩa vụ của công dân thông thường được thừa nhận và ban hành 
dưới dạng văn bản là luật. Hơn nữa, do tồn tại dưới hình thức văn 
bản là nghị định, nên không có các quy định về những hành vi bị 
cấm - một trong những chế định quan trọng để giới hạn các quyền 
của tổ chức, cá nhân, bởi lẽ, theo quy định của Hiến pháp, quyền 
con người, quyền của công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định 
của luật. Chính vì vậy, xét trên bình diện pháp luật chuyên ngành, 
quyền TCTT KH&CN của tổ chức, cá nhân lại chưa thực sự được 
thừa nhận một cách vững chắc. 
Đề xuất hoàn thiện pháp luật về quyền TCTT KH&CN 
Những yêu cầu trong hoàn thiện hệ thống pháp luật về 
quyền TCTT KH&CN 
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về quyền TCTT KH&CN 
phải gắn với việc tích hợp các quy phạm pháp luật trong hệ thống 
pháp luật chuyên ngành về thông tin KH&CN, đồng thời việc thừa 
nhận quyền TCTT KH&CN phải được thừa nhận và bảo đảm thực 
thi tại văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao (đó là 
luật). 
Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật về quyền TCTT KH&CN 
phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa hệ thống pháp luật 
chung và pháp luật chuyên ngành, trong đó chế định về quyền 
TCTT và những biện pháp bảo đảm quyền TCTT phải thống nhất, 
tương thích và gắn với việc thừa nhận, bảo đảm quyền TCTT 
KH&CN trong pháp luật chuyên ngành. 
Thứ ba, các quy định về thừa nhận và bảo đảm quyền TCTT 
KH&CN phải gắn với việc xác định giới hạn quyền. Theo đó, 
quyền TCTT KH&CN chỉ bị giới hạn bởi lý do quốc phòng, an 
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe 
cộng đồng. Ngoài ra, quyền này được quy định cụ thể hơn trong 
pháp luật về sở hữu trí tuệ. Các quy định về chuẩn hóa hoạt động 
5563(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
thông tin KH&CN, thiết lập mạng lưới tổ chức thông tin KH&CN, 
bảo đảm các nguồn lực cho hoạt động thông tin KH&CN được xây 
dựng dựa trên nền tảng bảo đảm quyền TCTT của tổ chức cá nhân. 
Khuyến nghị 
Xuất phát từ yêu cầu trong hoàn thiện hệ thống pháp luật về 
quyền TCTT KH&CN được nêu ở trên, chúng tôi đưa ra khuyến 
nghị cần sửa đổi và bổ sung các quy định về pháp luật bảo đảm 
quyền TCTT KH&CN. Việc sửa đổi và bổ sung các quy định được 
thực hiện theo hướng: 
Thứ nhất, mở rộng phạm vi điều chỉnh trong quan hệ pháp luật 
về TCTT. Theo đó, luật không chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa 
công dân với cơ quan nhà nước, mà cần điều chỉnh quan hệ giữa 
công dân với các thiết chế cung ứng thông tin với vai trò là các 
đơn vị sự nghiệp công lập; giữa công dân với các dịch vụ cung ứng 
thông tin ngoài công lập; trong đó Nhà nước không chỉ giữ vai trò 
là một thiết chế cung ứng thông tin đặc biệt, mà còn giữ vai trò 
điều tiết, bảo đảm quyền TCTT thông qua các quy định của pháp 
luật chuyên ngành về hoạt động của các thiết chế cung ứng dịch vụ 
hỗ trợ người dân TCTT. 
Thứ hai, sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục quyền TCTT 
của công dân; bổ sung các quy định cụ thể nhằm xác định giới hạn 
trong quyền TCTT, và việc cung ứng thông tin phải dựa trên những 
giới hạn này, thay vì chỉ cung ứng các thông tin được phép công 
khai, hoặc tiếp cận có điều kiện như theo pháp luật hiện hành, từ 
đó tạo ra sự tương thích giữa hệ thống pháp luật chung và pháp 
luật chuyên ngành trong việc thừa nhận và bảo đảm thực thi quyền 
TCTT KH&CN. 
Thứ ba, xác định nội dung về quyền TCTT KH&CN, bảo đảm 
sự tương thích với quyền TCTT được quy định tại pháp luật chung, 
đồng thời xác định những giới hạn trong TCTT KH&CN theo 
hướng: quyền TCTT KH&CN chỉ bị giới hạn vì lý do quốc phòng, 
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe 
cộng đồng; ngoài ra, việc TCTT KH&CN phải tuân thủ pháp luật 
về sở hữu trí tuệ và pháp luật khác có liên quan. 
Thứ tư, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm cụ thể 
hóa các quy định về các biện pháp bảo đảm quyền TCTT KH&CN 
như: chuẩn hóa hoạt động thông tin KH&CN, thiết lập mạng lưới 
tổ chức thông tin KH&CN và bảo đảm các nguồn lực cho hoạt 
động thông tin KH&CN. 
Kết luận 
Trên cơ sở đưa ra những khái luận cơ bản về quyền TCTT 
KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học và đổi mới, bài viết đã đi 
sâu phân tích pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN ở Việt 
Nam trên hai bình diện: hệ thống pháp luật chung và pháp luật 
chuyên ngành về quyền TCTT KH&CN, từ đó nhận diện và đánh 
giá nội dung, tính thống nhất, sự tương thích giữa các hệ thống 
pháp luật, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện 
pháp luật về quyền TCTT KH&CN phục vụ các tổ chức, cá nhân 
và doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới. 
Do hạn chế về khuôn khổ của một bài báo và tính phức tạp 
trong nội dung của pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN, 
vì vậy bài viết chưa đi sâu phân tích hiện trạng thực thi pháp luật 
về quyền TCTT KH&CN của tổ chức, cá nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Chính phủ (2014), Nghị định 11/2014/NĐ-CP ngày 18/2/2014 của Chính phủ 
quy định về hoạt động thông tin KH&CN. 
[2] Đoàn Phan Tân (2006), Thông tin học, giáo trình dành cho sinh viên ngành 
thông tin - thư viện và quản trị thông tin, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Vũ Cao Đàm (2009), Tuyển tập các công trình công bố: lý luận và phương 
pháp nghiên cứu khoa học, Tập 1, Nhà xuất bản Thế giới.
[4] OECD (2005), Handbook on Economic Globalisation Indicators. 
[5] Liên hợp quốc (1948), Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền. 
[6] Liên hợp quốc (1966), Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và 
chính trị. 
[7] Thái Anh Hùng (2015), Pháp luật quốc tế về quyền TCTT, 
nghien-cuu-trao-doi/201505/phap-luat-quoc-te-ve-quyen-tiep-can-thong-tin-297557/ 
(truy cập ngày 15/6/2020). 
[8] Phí Thị Thanh Tuyền (2019), “Nguyên tắc bảo đảm quyền TCTT theo tinh thần 
của Luật TCTT năm 2016”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 17, tr.12-16. 
[9] Tường Duy Kiên, Hoàng Mai Hương, Chu Thúy Hằng (2006), “Tìm hiểu pháp 
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền TCTT”, Hội thảo “Tiếp cận thông 
tin - quy định quốc tế, kinh nghiệm Việt Nam và Đan Mạch”. 
[10] Nguyễn Quỳnh Liên (2009), “Quyền TCTT trong các văn kiện quốc tế”, Tạp 
chí Nghiên cứu Lập pháp, 17, tr.9-13.
[11] Nguyễn Minh Thuyết (2016), Báo cáo đề tài Những vấn đề lý luận và thực 
tiễn về quyền TCTT ở nước ta hiện nay thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp 
nhà nước KX.03/11-15. 
[12] Chính sách thông tin quốc gia (1999), Tài liệu hướng dẫn của UNESCO về 
việc xây dựng, phê duyệt, thực hiện và vận hành chính sách thông tin quốc gia.
[13] Adrian Rozengardt, Alenjandra Davidziuk, Daniel Finquelievich (2009), 
National information soiety policy: a template, UNESCO Information for All 
Programme.
[14] Mercedes Caridad Sebastian, Eva Maria Mendez Rodriguez, David Rodriguez 
Mateos (2001), “Information policies in Spain: towards the new information society”, 
Libri, 51, pp.49-60. 
[15] Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế 
về quyền con người, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội. 
[16] Ủy ban nhân quyền (1995), Các nguyên tắc Johannesburg về an ninh quốc 
gia, tự do biểu đạt và TCTT. 
[17] 
nang-dau-moi-thong-tin-khoa-hoc-va-cong-nghe-2.html (truy cập ngày 23/5/2020). 
[18] Cục Thông tin KH&CN quốc gia (2017), “Tổng quan về hiện trạng và định 
hướng hoạt động thông tin, thống kê KH&CN”, Kỷ yếu Hội nghị toàn quốc về hoạt 
động thông tin, thống kê KH&CN.
[19] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2015-2018), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch 
phát triển ngành thư viện Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
[20] Bộ KH&CN (2018), Sách KH&CN năm 2018, Nhà xuất bản Khoa học và 
Kỹ thuật.

File đính kèm:

  • pdfquyen_tiep_can_thong_tin_khoa_hoc_cong_nghe_trong_hoat_dong.pdf