Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới

Chương trình MTQG xây dựng NTM

giai đoạn 2010-2020, được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-

TTg ngày 04/6/2010, xác định cộng đồng

cư dân nông thôn có vai trò chủ đạo trong

xây dựng NTM. Vai trò này được thể hiện

trong việc cộng đồng dân cư nông thôn có

quyền tham gia thảo luận, quyết định nội

dung ưu tiên, tự nguyện đóng góp (tiền,

đất, vật chất, lao động.) và giám sát quá

trình xây dựng NTM, hưởng lợi từ quá trình

xây dựng NTM. Theo báo cáo năm 2015

của Văn phòng Điều phối NTM Trung ương,

trong giai đoạn 2011-2014 cộng đồng dân

cư đóng góp khoảng 11,63% tổng vốn xây

dựng NTM. Nghiên cứu của Viện Chính sách

và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông

thôn (2014) cũng cho thấy người dân nông

thôn đóng góp nhiều khoản phục vụ xây

dựng NTM, theo nhiều nội dung khác nhau

bao gồm cả xây dựng cơ sở hạ tầng, các quỹ

phát triển. Phần lớn các khoản tiền huy

động của cộng đồng được chủ yếu sử dụng

cho các công trình cấp thôn/bản hoặc các

hoạt động phục vụ cộng đồng thôn/bản

trực tiếp tác động đến người dân đóng góp.

Tuy nhiên, phần lớn các khoản đóng góp

của người dân được huy động cho xây dựng

từng công trình, từng hoạt động cụ thể.

Các địa phương thiếu một nguồn vốn được

duy trì thường xuyên để thực hiện các hoạt

động theo nhu cầu của địa phương, ví dụ

như duy tu, bảo dưỡng công trình hạ tầng

sau đầu tư. Để giải quyết vấn đề này, một

số quỹ phát triển cộng đồng đã cho phép

sử dụng nguồn vốn của Quỹ vào duy tu bảo

dưỡng công trình cấp thôn bản.

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới trang 1

Trang 1

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới trang 2

Trang 2

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới trang 3

Trang 3

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới trang 4

Trang 4

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới trang 5

Trang 5

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 11580
Bạn đang xem tài liệu "Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới

Quỹ phát triển cộng đồng - Bài học cho quỹ xây dựng nông thôn mới
1. BỐI CẢNH
Chương trình MTQG xây dựng NTM 
giai đoạn 2010-2020, được Thủ tướng Chính 
phủ phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-
TTg ngày 04/6/2010, xác định cộng đồng 
cư dân nông thôn có vai trò chủ đạo trong 
xây dựng NTM. Vai trò này được thể hiện 
trong việc cộng đồng dân cư nông thôn có 
quyền tham gia thảo luận, quyết định nội 
dung ưu tiên, tự nguyện đóng góp (tiền, 
đất, vật chất, lao động...) và giám sát quá 
trình xây dựng NTM, hưởng lợi từ quá trình 
xây dựng NTM. Theo báo cáo năm 2015 
của Văn phòng Điều phối NTM Trung ương, 
trong giai đoạn 2011-2014 cộng đồng dân 
cư đóng góp khoảng 11,63% tổng vốn xây 
dựng NTM. Nghiên cứu của Viện Chính sách 
và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông 
thôn (2014) cũng cho thấy người dân nông 
thôn đóng góp nhiều khoản phục vụ xây 
dựng NTM, theo nhiều nội dung khác nhau 
bao gồm cả xây dựng cơ sở hạ tầng, các quỹ 
phát triển... Phần lớn các khoản tiền huy 
động của cộng đồng được chủ yếu sử dụng 
cho các công trình cấp thôn/bản hoặc các 
hoạt động phục vụ cộng đồng thôn/bản 
trực tiếp tác động đến người dân đóng góp. 
Tuy nhiên, phần lớn các khoản đóng góp 
của người dân được huy động cho xây dựng 
từng công trình, từng hoạt động cụ thể. 
Các địa phương thiếu một nguồn vốn được 
duy trì thường xuyên để thực hiện các hoạt 
động theo nhu cầu của địa phương, ví dụ 
như duy tu, bảo dưỡng công trình hạ tầng 
sau đầu tư. Để giải quyết vấn đề này, một 
số quỹ phát triển cộng đồng đã cho phép 
sử dụng nguồn vốn của Quỹ vào duy tu bảo 
dưỡng công trình cấp thôn bản.
QUỸ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG - BÀI HỌC CHO QUỸ XÂY 
DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TS HOÀNG VŨ QUANG
Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
294
295
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
Thực tiễn hiện nay cho thấy nhiều quỹ 
phát triển cộng đồng (PTCĐ, tiếng Anh là 
Community Development Fund – CDF) đã 
được triển khai trong nhiều chương trình, dự 
án ở nhiều địa phương khác nhau (hầu hết 
là thuộc các Chương trình, dự án do các tổ 
chức quốc tế tài trợ). Các quỹ có mô hình tổ 
chức, nội dung hoạt động khác nhau nhưng 
đều nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của cộng 
đồng dân cư là người hưởng lợi trực tiếp và 
đã chứng minh tính hiệu quả của Quỹ, đáp 
ứng nhu cầu cấp thiết của cộng đồng, quản 
lý và sử dụng vốn hiệu quả, huy động được 
sự đóng góp và tham gia của cộng đồng, từ 
nhiều nguồn vốn khác nhau và nâng cao 
năng lực của cộng đồng dân cư trong phát 
triển nông thôn. Một số địa phương đã có 
chủ trương áp dụng các quỹ phát triển cộng 
đồng trên diện rộng như các tỉnh Hà Giang, 
Hoà Bình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn thiếu một 
khung thể chế ở cấp Trung ương quy định 
hoạt động của các quỹ PTCĐ này để tạo 
hành lang pháp lý cho các địa phương triển 
khai diện rộng trên phạm vi cả nước. 
 Nhằm tăng cường huy động vốn cho 
xây dựng NTM, nâng cao hiệu quả sử dụng 
vốn, giảm lãng phí, thất thoát, tăng hiệu 
quả sử dụng công trình và đặc biệt là hình 
thành cơ chế xây dựng NTM bền vững, huy 
động sự tham gia chủ động, tích cực của 
cộng đồng cư dân nông thôn, Thủ tướng 
Chính phủ đã có Chỉ thị số 18/CT-TTg yêu 
cầu “Nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính 
phủ ban hành quy định về lập và sử dụng 
quỹ xây dựng nông thôn mới ở các địa 
phương”1, phục vụ cho Chương trình MTQG 
xây dựng NTM. Đề án này đề xuất mô hình 
Quỹ xây dựng NTM nhằm thử nghiệm trong 
giai đoạn 2016-2018 để hoàn thiện mô hình 
tổ chức Quỹ xây dựng NTM và cơ chế chính 
1 Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 15/07/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình 
MTQG về xây dựng NTM.
sách nhằm áp dụng Quỹ xây dựng NTM trên 
phạm vi cả nước.
Bài viết này tổng kết lại những bài học 
kinh nghiệm hay trong xây dựng và vận 
hành quỹ phát triển cộng đồng tại một số 
tỉnh trên các khía cạnh môi trường thể chế, 
tổ chức bộ máy quản lý, nội dung và cơ chế 
hoạt động, nguồn vốn của quỹ và nâng cao 
năng lực quản lý quỹ. Những bài học này 
có thể giúp ích cho việc phát triển quỹ xây 
dựng nông thôn mới.
Việc tổng kết kinh nghiệm của các quỹ 
phát triển cộng đồng dựa trên kết quả khảo 
sát 15 mô hình quỹ phát triển cộng đồng 
thuộc các tỉnh Hòa Bình, Hà Giang, Quang 
Trị và Quảng Ngãi năm 2016. Các quỹ khảo 
sát đại diện cho các mô hình được thành lập 
và hỗ trợ phát triển bởi chính quyền, các dự 
án phát triển, tổ chức phi chính phủ.
Thông tin thu thập dựa trên thảo luận 
nhóm với các thành viên quản lý quỹ. Ngoài 
ra, thông tin thu thập thông qua trao đổi với 
ban quản lý dự án, chính quyền địa phương, 
các tổ chức phi chính phủ và nghiên cứu các 
tài liệu thứ cấp của tổ chức, dự án.
Kết quả trình bày trong bài viết chủ 
yếu dựa trên mô hình điển hình của 2 tỉnh 
Hòa Bình và Hà Giang.
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC 
QUỸ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
2.1. Môi trường thể chế cho Quỹ PTCĐ 
hoạt động
Mặc dù có nhiều quỹ PTCĐ đã được 
thành lập và hoạt động tại nhiều địa 
phương, nhất là trong các dự án hỗ trợ phát 
triển địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân 
tộc thiểu số và địa bàn nghèo. Tuy nhiên, 
hiện chưa có các quy định pháp lý cụ thể ở 
296
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
cấp Trung ương cho hoạt động của các quỹ 
phát triển cộng đồng này. Cụ thể, chưa có 
quy định về tổ chức bộ máy quản lý, nguồn 
vốn, nội dung hoạt động và cơ chế kiểm 
tra của quỹ. Dù vậy, nhận thức được tầm 
quan trọng của quỹ phát triển cộng đồng, 
một số tỉnh ban hành hướng dẫn, quy định 
cho hoạt động của quỹ PTCĐ. Ví dụ, tỉnh 
Hòa Bình ban hành sổ tay hướng dẫn quản 
lý và sử dụng quỹ PTCĐ (Ủy ban nhân dân 
tỉnh Hòa Bình, 2011). Ủy ban nhân dân tỉnh 
Hà Giang ban hành quy định về quản lý và 
sử dụng quỹ PTCĐ (Ủy ban nhân dân tỉnh 
Hà Giang, 2015). Đó là các hướng dẫn, quy 
định về nguồn vốn của quỹ, nội dung hoạt 
động, tổ chức quản lý quỹ, tạo cơ sở pháp lý 
cho hoạt động của các quỹ phát triển cộng 
đồng, cung cấp hướng dẫn cho việc thành 
lập và vận hành của quỹ, tạo ra khung pháp 
lý để quản lý thống nhất trên địa bàn tỉnh. 
Việc ban hành các quy định, hướng dẫn 
hoạt động của quỹ phát triển cộng đồng 
cũng tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám 
sát, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước 
đối với Quỹ, tránh việc lạm dụng, sử dụng 
sai mục đích của quỹ.
2.2. Tổ chức bộ máy quản lý
Các Quỹ phát triển cộng đồng đã được 
thành lập và hoạt động ở Việt Nam với nhiều 
tên gọi khác nhau như Quỹ phát triển cộng 
đồng, Quỹ phát triển thôn bản, Quỹ tiết 
kiệm Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của 
các quỹ khác nhau, có thể được phân chia 
thành 4 nhóm sau: i) Quỹ PTCĐ được quản 
lý bởi Ủy ban nhân dân (UBND) xã; ii) Quỹ 
do tổ chức chính trị xã hội cấp xã quản lý. 
Các quỹ này thường có số vốn ít, do một tổ 
chức chính trị xã hội trực quản lý và phục vụ 
thành viên của đoàn thể; iii) Quỹ PTCĐ do 
thôn quản lý quỹ; iv) Quỹ do tổ nhóm đồng 
sở thích quản lý. Đây là các quỹ tự nguyện 
của các nhóm đồng sở thích.
Điển hình cho mô hình quỹ PTCĐ do 
UBND xã trực tiếp quản lý là các Quỹ phát 
triển xã ở tỉnh Hòa Bình và Quỹ sáng kiến 
được thành lập trong khuôn khổ dự án thúc 
đẩy quản lý cộng đồng tại Việt Nam (PCM) 
giai đoạn II tại 03 huyện tỉnh Quảng Bình và 
06 huyện tỉnh Thái Nguyên. Quỹ do UBND 
xã trực tiếp quản lý với Ban quản lý giúp 
việc gồm lãnh đạo UBND xã, đại diện các tổ 
chức chính trị xã hội của xã (Hội nông dân, 
hội Phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến 
binh,..), cán bộ nông nghiệp, đất đai và kế 
toán của xã và các trưởng thôn. Tham gia 
BQL Quỹ sáng kiến còn có cả đại diện nông 
dân là các cá nhân nòng cốt. UBND xã mở tài 
khoản ký gửi của xã tại Ngân hàng nhà nước 
để quản lý vốn của Quỹ. Mô hình tổ chức 
quản lý này có thuận lợi là việc huy động 
cán bộ kế toán và chuyên môn (có kiến thức, 
kinh nghiệm) của xã vào quản lý Quỹ giúp 
cho Quỹ giảm rủi ro mất vốn, thuận lợi cho 
quản lý tài chính, giảm thời gian và công sức 
đào tạo cán bộ quản lý quỹ, giảm chi phí 
quản lý Quỹ. Ngoài ra, UBND xã có thể định 
hướng các hoạt động Quỹ hỗ trợ phù hợp 
với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của 
xã. Tuy nhiên, mô hình tổ chức Quỹ ở cấp xã 
có hạn chế là khó huy động sự đóng góp tự 
nguyện của người dân hơn so với các Quỹ 
có quy mô ở cấp thôn/bản.
Quỹ phát triển cộng đồng thôn ở Hà 
Giang là một mô hình điển hình của Quỹ ở 
cấp thôn bản. Quỹ do Ban phát triển thôn, 
gồm 5 thành viên, quản lý và điều hành. 
Các thành viên do thôn lựa chọn. UBND xã 
phê duyệt thành viên Ban phát triển thôn 
và quy chế hoạt động của Quỹ phát triển 
cộng đồng thôn. Quy chế nêu rõ việc sử 
dụng quỹ, tỷ lệ Quỹ được trích dành cho 
công tác quản lý,Mô hình tổ chức quản lý 
Quỹ PTCĐ ở cấp thôn có ưu điểm là quy mô 
nhỏ, tính cộng đồng cao nên thuận lợi cho 
quản lý và huy động sự tham gia, đóng góp 
297
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
của người dân. Tuy nhiên, một hạn chế của 
mô hình này cần mất nhiều thời gian để đào 
tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý 
Quỹ. Hơn nữa, Quỹ không có tư cách pháp 
nhân, nên có khó khăn trong việc thanh 
quyết toán, vẫn phải thông qua xã.
2.3. Nguồn vốn của Quỹ
Một điểm chung của các quỹ PTCĐ là 
đều được cung cấp một nguồn vốn mồi ban 
đầu từ các dự án phát triển (ví dụ Quỹ phát 
triển xã ở Hòa Bình do Dự án “Chương trình 
cải thiện cung cấp dịch vụ công trong nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hòa 
Bình” - PSARD HB) hỗ trợ, Quỹ sáng kiện của 
cơ quan Hợp tác phát triển Thụy Sỹ (SDC) 
hoặc từ chính quyền (Quỹ PTCĐ thôn ở Hà 
Giang). Mức hỗ trợ vốn ban đầu rất khác 
nhau từ vài chục triệu (Quỹ PTCĐ thôn ở Hà 
Giang) đến 800 triệu đồng (Quỹ sáng kiến 
của SDC). Các quỹ có những cách huy động 
khác nhau để tăng nguồn vốn của Quỹ như 
huy động sự đóng góp của người dân, của 
các nhà tài trợ, ... 
Điển hình cho cách thức huy động để 
tăng nguồn vốn của Quỹ là Quỹ PTCĐ thôn 
ở Hà Giang. Kết quả khảo sát cho thấy các 
quỹ PTCĐ thôn ở Hà Giang tăng vốn của 
quỹ thông qua một hoặc một số trong các 
nguồn thu sau, tùy thuộc vào điều kiện thực 
tế tại thôn: Tiền tiết kiệm được do thực hiện 
các hoạt động xây dựng cơ bản của thôn; 
Nguồn đóng góp của các tổ chức cá nhân; 
Nguồn từ quỹ phát triển cộng đồng xã giao 
cho thôn quản lý như: nguồn từ quỹ dự án 
ODA, các tổ chức phi chính phủ đã kết thúc 
hoặc đang triển khai thực hiện có nội dung 
phù hợp với qui định về quản lý, sử dụng; 
Nguồn từ vốn sự nghiệp của chương trình 
xây dựng nông thôn mới, chương trình 30a, 
135; Từ thu lãi tiền cho vay, lãi tiền gửi 
tại các tổ chức tín dụng; Kinh phí UBND xã 
giao khoán cho thôn thực hiện các duy tu, 
bảo dưỡng công trình cơ sở hạ tầng sau đầu 
tư (ví dụ chương trình MTQG giảm nghèo); 
Nguồn từ kinh phí cấp bù cho miễn thu 
thủy lợi phí; Nguồn từ kinh phí sự nghiệp 
giao thông (thuộc nhiệm vụ đảm bảo ngân 
sách xã); Nguồn kinh phí khoanh nuôi, bảo 
vệ rừng và dịch vụ môi trường rừng đối với 
diện tích rừng do cộng đồng bảo vệ (bàn 
bạc thống nhất với người dân thu vào quỹ 
tối thiểu 50%).
Kết quả khảo sát ở Hà Giang cho 
thấy các quỹ PTCĐ thôn không những bảo 
toàn mà còn tăng lượng vốn lên rất nhanh. 
Nhiều quỹ với số vốn được nhà nước hỗ trợ 
ban đầu 30 triệu, chỉ sau chưa đầy 2 năm đã 
có số vốn lên đến 300 triệu đồng. Điều đó 
minh chứng cho khả năng của cộng đồng 
dân cư trong việc quản lý, vận hành và phát 
triển quỹ.
2.4. Nội dung hoạt động của quỹ 
PTCĐ
Hoạt động của các quỹ PTCĐ rất đa 
dạng, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của địa 
phương và dự án, nhưng có thể thuộc các 
nhóm sau: 
i) Phát triển cơ sở hạ tầng: Vốn của 
quỹ được sử dụng để đầu tư cho các công 
trình hạ tầng nhỏ, đơn giản cấp thôn như 
đường nội đồng, đường giao thông, xây 
dựng nhà văn hóa, bể nước sạch, công trình 
vệ sinh,). Khi đầu tư cho các nội dung này, 
thường có huy động thêm sự đóng góp của 
người dân như đóng góp đất, ngày công 
lao động, vật tư và cả tiền. Ngoài ra nguồn 
vốn của quỹ cũng có thể được sử dụng cho 
việc duy tu, bảo dưỡng các công trình giao 
thông, thủy lợi, kênh mương và bảo vệ rừng. 
ii) Hỗ trợ phát triển sản xuất. Đây là 
hoạt động ưu tiên của nhiều quỹ. Quỹ hỗ trợ 
phát triển sản xuất của người dân thông qua 
chi phí cho các khóa đào tạo tập huấn, phát 
298
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
triển dịch vụ nông nghiệp, hỗ trợ cây con 
giống cho nông dân. Một số quỹ còn cung 
cấp tín dụng nhỏ để hỗ trợ nông dân phát 
triển sản xuất. Việc cung cấp tín dụng vừa hỗ 
trợ người dân, vừa bảo toàn vốn của quỹ.
iii) Hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực 
cán bộ xã, thôn. Đây không phải là hoạt 
động phổ biến ở tất cả các quỹ hiện nay 
mặc dù trong điều lệ của nhiều quỹ có quy 
định về nội dung này. Một lí do là hoạt động 
đào tạo, nâng cao kỹ năng đã được hỗ trợ 
bởi dự án trong quá trình xây dựng các quỹ.
Cơ chế xác định nội dung quỹ hỗ trợ 
thường căn cứ vào nhu cầu cấp thiết của địa 
phương và tính khả thi của dự án quỹ hỗ trợ. 
Thông thường các thôn, hộ khó khăn được 
ưu tiên. Một số quỹ áp dụng cơ chế cạnh 
tranh trong việc nhận được sự hỗ trợ của 
quỹ. Theo đó, các thôn gửi đề xuất cho Ban 
quản lý quỹ. Ban quản lý quỹ lựa chọn dự án 
quỹ hỗ trợ dựa trên các tiêu chí của quỹ và 
được các thành viên ban quản lý quỹ biểu 
quyết. Quỹ sáng kiến của SDC áp dụng các 
tiêu chí sau trong lựa chọn dự án hỗ trợ: (i) 
Mức độ khó khăn của thôn: ưu tiên thôn đặc 
biệt khó khăn, cách xa trung tâm; (ii) hoạt 
động đề xuất hỗ trợ phù hợp với nhu cầu 
người dân và định hướng phát triển của xã; 
(iii) Dự án có hình thúc tổ chức triển khai tốt; 
iv) Mức độ huy động đóng góp các nguồn 
khác ngoài Quỹ (của cộng đồng, của các tổ 
chức, cá nhân khác,) vào thực hiện dự án. 
Dự án huy động được đóng góp nhiều được 
ưu tiên cao hơn.
2.5. Nâng cao năng lực cho cán bộ 
quản lý
Một trong các khó khăn cho quản lý 
các quỹ PTCĐ là năng lực của thành viên 
Ban quản lý quỹ, đặc biệt là quỹ PTCĐ thôn. 
Để giúp Ban quản lý có thể tự quản lý quỹ, 
thông thường các dự án phải tổ chức các 
khóa đào tạo, tập huấn và hướng dẫn thực 
hiện thông qua cách thức „cầm tay chỉ việc“. 
Kinh nghiệm từ các dự án do cơ quan hợp 
tác phát triển Thụy Sỹ cho thấy cần khoảng 
2 năm để đào tạo, hướng dẫn cán bộ làm 
quen với công tác quản lý quỹ. Ngoài ra, đào 
tạo tập huấn cho cán bộ thôn cũng cần thiết 
để thôn có thể viết được dự án đề nghị quỹ 
hỗ trợ, nắm được cách thức tổ chức triển khai 
và huy động sự tham gia của người dân vào 
dự án của thôn và cách thức xác định các ưu 
tiên của thôn. Công tác ghi chép, quản lý tài 
chính của quỹ cũng là một nội dung cần đào 
tạo, tập huấn cho ban quản lý quỹ.
2.6. Vai trò hỗ trợ từ bên ngoài
Vai trò hỗ trợ từ bên ngoài là rất quan 
trọng với các quỹ PTCĐ. Phần lớn các quỹ 
PTCĐ được thành lập, quản lý và vận hành 
với sự hỗ trợ từ các dự án, các tổ chức phi 
chính phủ. Hỗ trợ từ bên ngoài cho quỹ 
PTCĐ bao gồm: i) Hỗ trợ nguồn vốn cho 
quỹ; ii) Hỗ trợ xây dựng quy chế quản lý 
quỹ và các công cụ quản lý quỹ; iii) Hỗ trợ 
việc quản lý và vận hành quỹ; iv) Hỗ trợ đào 
tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ 
quản lý quỹ.
Sự hỗ trợ từ bên ngoài không chỉ về tài 
chính, công cụ quản lý, nâng cao năng lực 
mà còn đảm bảo niềm tin của cộng đồng 
đối với hoạt động minh bạch của quỹ, nhất 
là trong giai đoạn quỹ bắt đầu xây dựng và 
vận hành.
3. KIẾN NGHỊ
3.1. Để cho quỹ PTCĐ phát triển thuận 
lợi, hoạt động hiệu quả và có đóng góp 
tích cực vào phát triển kinh tế xã hội nông 
thôn, nhất là trong công tác xóa đói giảm 
nghèo thì cần ban hành một văn bản pháp 
lý, quy định hướng dẫn cho việc tổ chức 
và vận hành các quỹ PTCĐ, đảm bảo quỹ 
299
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
hỗ trợ hiệu quả, phù hợp với định hướng 
phát triển kinh tế xã hội của địa phương và 
chính quyền có căn cứ để giám sát, hỗ trợ 
các quỹ PTCĐ hoạt động.
3.2. Kiến nghị thử nghiệm mô hình 
quỹ xây dựng NTM cấp xã, cấp thôn dựa 
trên kinh nghiệm, cách tiếp cận của quỹ 
phát triển cộng đồng. Trước mắt ưu tiên 
thử nghiệm quỹ xây dựng NTM cấp xã, với 
các lí do sau:
- Xã là cấp nhận và quản lý ngân sách. 
Việc tổ chức Quỹ xây dựng NTM cấp xã phù 
hợp với quy định hiện hành về quản lý ngân 
sách xã.
- UBND xã có nguồn nhân lực có trình 
độ, kinh nghiệm quản lý và chuyên môn, có 
kế toán chuyên trách. Có thể sử dụng cán 
bộ UBND xã và các đoàn thể tham gia kiêm 
nhiệm quản lý hoạt động của Quỹ, vừa đảm 
bảo bộ máy của Quỹ có đủ năng lực, kinh 
nghiệm trong quản lý Quỹ và giảm chi phí 
quản lý Quỹ.
- Việc quản lý Quỹ, nhất là tài chính, kế 
toán phức tạp và có rủi ro. Cấp xã quản lý sẽ 
giảm rủi ro. 
- Nếu Quỹ ở cấp thôn thì phải đào tạo 
cán bộ quản lý Quỹ ở thôn. Quá trình này 
đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, chuyên 
gia và kinh phí. Kinh nghiệm tù các chương 
trình dự án có hỗ trợ xây dựng Quỹ PTCCĐ 
cấp thôn cho thấy cần phải hỗ trợ nâng cao 
năng lực (đào tạo, tập huấn, cử cán bộ hướng 
dẫn, làm cùng) cho cán bộ thôn trong nhiều 
năm mà nhiều thôn vẫn không quản lý được 
theo đúng yêu cầu do năng lực cán bộ thôn 
quá hạn chế và đã xảy ra trường hợp khó 
thu hồi vốn cho Quỹ.
- Quỹ tổ chức và quản lý ở cấp xã 
nhưng hoạt động chủ yếu ở cấp thôn và sự 
tham gia của đại diện thôn trong Ban quản 
lý quỹ nên hình thành được kinh nghiệm tổ 
chức quản lý Quỹ cho cán bộ cấp thôn bản, 
tiến tới tổ chức Quỹ xây dựng NTM ở cấp 
thôn/bản. 
3.3. Một số điểm chủ yếu với mô hình 
quỹ xây dựng NTM cấp xã
- Nguồn vốn: Quỹ phải đảm bảo 
nguyên tắc bảo tồn vốn. Nguồn vốn đến 
từ nhiều nguồn khác nhau: vốn xây dựng 
NTM, từ các chương trình/dự án, vốn tài trợ, 
vốn góp,...
- Quỹ phục vụ cho phát triển kinh tế; 
xây dựng, bảo tồn, duy tu cơ sở hạ tầng cấp 
thôn; nâng cao năng lực cho cộng đồng 
dân cư; các hoạt động tập thể của thôn; 
các sáng kiến phát triển kinh tế xã hội của 
người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Vũ Quang (2016): Đóng góp của hộ nông 
thôn vào phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tạp chí 
kinh tế và phát triển, số 232 (II):50-56
2. Thủ tướng Chính phủ (2010): Quyết định số 800/
QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê 
duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông 
thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
3. Thủ tướng Chính phủ (2014): Chỉ thị số 18/CT-
TTg, ngày 15/07/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc 
tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc 
gia về xây dựng nông thôn mới.
4. Thủ tướng Chính phủ (2016): Quyết định số 1722/
QĐ-TTg ngày 02 tháng 9 năm 2016 phê duyệt chương 
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 
2016 - 2020
5. UBND tỉnh Hà Giang (2015): Quyết định số 
25/2015/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hà Giang về quản lý 
và sử dụng Quỹ PTCĐ.
6. UBND tỉnh Hòa Bình (2011): Quyết định số 2071/
QĐ-UBND ngày 28/10/2011 của Uy ban nhân dân tỉnh 
Hòa Bình về việc ban hành sổ tay hướng dẫn quản lý và 
sử dụng quỹ CDF tại Hòa Bình.

File đính kèm:

  • pdfquy_phat_trien_cong_dong_bai_hoc_cho_quy_xay_dung_nong_thon.pdf