Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc

Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong lịch sử lập pháp của mọi quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, việc ban hành Hiến pháp mới năm 2013 và tham gia Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc đã thể hiện rõ là một trong những nước có trách nhiệm và luôn đề cao quyền con người. Đặc biệt, khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Việt Nam đã khẳng định sự hướng đến tôn trọng và đề cao quyền con người, các quyền cơ bản của công dân vào các quy định của pháp luật Việt Nam.

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 1

Trang 1

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 2

Trang 2

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 3

Trang 3

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 4

Trang 4

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 5

Trang 5

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 6

Trang 6

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 7

Trang 7

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 8

Trang 8

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 9

Trang 9

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang Trúc Khang 10/01/2024 4920
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc
 54 
Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về 
quyền con người theo Công ước chống Tra tấn 
của Liên Hợp Quốc 
Trương Đức Thuận1 
1
 Toà án quân sự Quân khu 1. 
Email: truongducthuan67@gmail.com 
Nhận ngày 15 tháng 1 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 3 năm 2019. 
Tóm tắt: Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong lịch sử lập pháp của mọi 
quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, việc ban hành Hiến pháp mới năm 
2013 và tham gia Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc đã thể hiện rõ là một trong những 
nước có trách nhiệm và luôn đề cao quyền con người. Đặc biệt, khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 
2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Việt Nam đã khẳng 
định sự hướng đến tôn trọng và đề cao quyền con người, các quyền cơ bản của công dân vào các 
quy định của pháp luật Việt Nam. 
Từ khóa: Quyền con người, Bộ luật Hình sự, Công ước chống Tra tấn, pháp luật. 
Phân loại ngành: Luật học 
Abstract: Ensuring human rights is a fundamental objective throughout the legislative history of all 
countries in general and of Vietnam in particular. In Vietnam, the enactment of a new Constitution in 
2013 and the country’s participation in the UN Convention against Torture has made clear that it is one 
of the countries taking responsibility for and always upholding human rights. In particular, when 
promulgating the 2015 Criminal Code, the 2015 Criminal Procedure Code and the 2017 Law on Mutual 
Legal Assistance, Vietnam concretised and affirmed its direction towards the respect for and upholding 
of human rights as well as basic civil rights in the provisions of the Vietnamese law. 
Keywords: Human rights, Criminal Code, Convention against Torture, law. 
Subject classification: Jurisprudence 
1. Đặt vấn đề 
Việt Nam tham gia Công ước chống Tra tấn 
và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn 
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người 
ngày 07/11/2013 là sự kiện quan trọng, thể 
hiện quyết tâm chính trị của nước ta trong 
ghi nhận và bảo đảm thực thi nhân quyền 
Trương Đức Thuận 
55 
theo các khuôn khổ pháp lý quốc tế. Việc 
ký kết này càng có ý nghĩa chính trị pháp lý 
quan trọng khi 11 ngày sau đó, ngày 
28/11/2013 bản Hiến pháp mới, mà quyền 
con người được đề cao đã được ban hành. 
Tiếp theo đó là ban hành Bộ luật Hình sự và 
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với xu 
hướng tôn trọng và đề cao quyền con 
người, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng 
hình sự. Bài viết này giới thiệu một số quy 
định mới trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 
đảm bảo quyền con người và việc thực hiện 
nghĩa vụ quốc gia trong việc nội luật hóa 
các quy định của Công ước chống Tra tấn 
của Liên Hợp Quốc. 
2. Một số quy định mới trong Bộ luật Hình 
sự Việt Nam đảm bảo quyền con người 
2.1. Sự cần thiết, mục tiêu 
Bộ luật Hình sự (BLHS) số100/2015/QH13 
được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 
thông qua ngày 27/11/2015, được sửa đổi 
bổ sung ngày 20/6/2017 và có hiệu lực thi 
hành từ ngày 01/01/2018. Việc ban hành 
BLHS năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng 
nhằm thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp 
của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, 
đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ 
chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền 
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và tổ 
chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã 
hội; bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng 
mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, 
chống tội phạm và tăng cường hội nhập 
quốc tế. 
Xây dựng BLHS có tính minh bạch, tính 
khả thi và tính dự báo cao hơn nhằm phát 
huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách 
là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong 
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều 
kiện mới; góp phần bảo vệ chế độ, bảo vệ 
các quyền con người, quyền công dân, bảo 
vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển đúng 
hướng, đấu tranh chống tham nhũng có hiệu 
quả, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi 
trường xã hội và môi trường sinh thái an 
toàn, lành mạnh cho mọi người dân; đồng 
thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của 
nước ta. 
2.2. Nội dung 
- Về tội phạm. 
a. Thay đổi quan điểm về chuẩn bị phạm tội 
(Điều 14 BLHS) 
 Khái niệm chuẩn bị phạm tội, không chỉ 
tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện, tạo 
ra điều kiện để thực hiện tội phạm; mà cả việc 
thành lập, tham gia nhóm tội phạm; 
 Chỉ chuẩn bị phạm những tội được quy 
định ở phần các tội phạm mới phải chịu trách 
nhiệm hình sự (4 nhóm tội là: tội xâm phạm 
an ninh quốc gia; tội xâm phạm tính mạng, 
sức khoẻ; tội xâm phạm sở hữu; tội xâm 
phạm an toàn công cộng); 
 Người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ 
phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi 
chuẩn bị phạm tội xâm phạm tính mạng, sức 
khoẻ của người khác và sở hữu; 
 Hình phạt được quyết định trong phạm vi 
khung hình phạt được quy định trong các 
điều luật cụ thể. 
b. Đã bổ su ...  lần của các quốc gia thành viên do 
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập. Hội 
nghị chỉ được tiến hành nếu có hai phần ba 
số quốc gia thành viên tham dự, những 
người được bầu vào Ủy ban là những người 
đạt số phiếu cao nhất và đạt đa số tuyệt đối 
số phiếu bầu của đại diện các quốc gia 
thành viên có mặt và bỏ phiếu. 
Thứ tư, lần bầu chọn đầu tiên sẽ được tổ 
chức trong vòng 6 tháng sau ngày Công 
ước này có hiệu lực. Tối thiểu 4 tháng trước 
ngày bầu chọn, Tổng thư ký Liên Hợp 
Quốc sẽ gửi thư đề nghị các quốc gia thành 
viên gửi các đề cử của mình trong thời hạn 
3 tháng. Tổng thư ký sẽ lập danh sách tất cả 
những người được đề cử theo thứ tự bảng 
chữ cái, có ghi rõ quốc gia thành viên đã đề 
cử và gửi danh sách đó cho các quốc gia 
thành viên. 
Thứ năm, những thành viên của Ủy ban 
sẽ được bầu chọn trong một nhiệm kỳ 4 
năm. Họ có thể được bầu lại nếu như được 
tái đề cử. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 5 thành 
viên được bầu chọn trong lần bầu chọn đầu 
tiên sẽ kết thúc vào cuối năm thứ hai; ngay 
sau lần bầu chọn đầu tiên, tên của 5 thành 
viên này sẽ được chọn bằng cách rút thăm 
Trương Đức Thuận 
65 
bởi Chủ tịch của hội nghị theo quy định tại 
khoản 3 Điều này. 
Thứ sáu, nếu một thành viên của Ủy ban 
bị chết hoặc từ chức hoặc do một nguyên 
nhân khác không thể tiếp tục thực hiện 
nhiệm vụ trong Ủy ban thì quốc gia thành 
viên đã đề cử người đó phải cử một chuyên 
gia khác là công dân của mình để tiếp tục 
công việc trong thời gian còn lại của nhiệm 
kỳ của thành viên đó và người này phải 
được sự chấp thuận của đa số các quốc gia 
thành viên. Việc đề cử sẽ được coi là được 
thông qua nếu trong vòng sáu tuần sau khi 
được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc thông 
báo về việc đề cử, một nửa hoặc hơn một 
nửa số quốc gia thành viên không phản đối. 
Thứ bảy, quốc gia thành viên phải chịu 
chi phí cho hoạt động của các thành viên 
của Ủy ban trong khi thực hiện nhiệm vụ 
của Ủy ban. Khoản 3 Điều 20 Công ước 
chống Tra tấn quy định cho quan chức của 
Uỷ ban chống tra tấn “có thể chỉ định một 
hay nhiều thành viên của Ủy ban tiến hành 
điều tra bí mật và khẩn trương báo cáo cho 
Ủy ban”. 
3.3. Nội luật hóa các quy định của Công 
ước chống Tra tấn trong lĩnh vực tố tụng 
hình sự 
Công ước chống Tra tấn đã quy định toàn 
diện, đầy đủ về trách nhiệm của quốc gia 
thành viên liên quan đến tố tụng hình sự; 
trong đó có các nội dung quan trọng như 
trách nhiệm về xác lập quyền tài phán, về 
biện pháp ngăn chặn, về thủ tục tố tụng và 
chứng minh và về hợp tác quốc tế trong tố 
tụng hình sự liên quan đến xử lý các tội 
phạm tra tấn. Từ góc độ tố tụng hình sự, 
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là 
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được ban 
hành đã cơ bản nội luật hóa các Điều ước 
quốc tế, các quy định của Công ước chống 
Tra tấn đề cao và đảm bảo quyền con 
người; các điều luật cơ bản phù hợp với 
Công ước, bao gồm việc xác định quyền tài 
phán, áp dụng biện pháp ngăn chặn, các thủ 
tục tố tụng và hợp tác quốc tế. 
- Quy định thẩm quyền tài phán. Theo 
quy định của Điều 2, Điều 170, Điều 171, 
Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự, mọi hoạt 
động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được 
tiến hành theo quy định của Bộ luật. Mọi 
tội phạm liên quan đến tra tấn theo pháp 
luật hình sự Việt Nam do bất kỳ ai thực 
hiện trên lãnh thổ Việt Nam hoặc do người 
Việt Nam thực hiện ở nước ngoài đều thuộc 
thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam. 
Các quy định này hoàn toàn phù hợp với 
Công ước. 
Về quyền tài phán, pháp luật Việt Nam 
chưa có quy định quyền tài phán đối với 
những hành vi phạm tội được thực hiện bất 
kỳ ở đâu, nhưng người bị tình nghi đang có 
mặt trên lãnh thổ Việt Nam và không dẫn độ 
người đó đến quốc gia có thẩm quyền. Tuy 
nhiên, Điều 28, Điều 30 Luật Tương trợ tư 
pháp, Việt Nam và quốc gia có hiệp định 
tương trợ tư pháp song phương có quyền đề 
nghị quốc gia đối tác truy cứu trách nhiệm 
hình sự nếu không dẫn độ người phạm tội 
cho quốc qua có quyền tài phán. 
- Quy định biện pháp ngăn chặn. Các quy 
định về biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật 
Tố tụng hình sự Việt Nam đã tương thích 
với quy định của Công ước về việc bắt, giam 
giữ người bị nghi phạm tội để truy cứu trách 
nhiệm hình sự hoặc để dẫn độ. 
- Quy định về chứng minh và thủ tục tố 
tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự Việt 
Nam đã quy định đầy đủ, cụ thể trình tự, 
thủ tục tố tụng để truy cứu một cách chính 
xác, khách quan các hành vi phạm tội liên 
quan đến tra tấn ở Việt Nam từ góc độ 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
66 
chứng cứ, chứng minh cũng như các trình 
tự, thủ tục tố tụng khác. 
Chương III Luật Tương trợ tư pháp của 
Việt Nam quy định tương đối đầy đủ về 
tương trợ, ủy thác tư pháp về hình sự giữa 
Việt Nam với các quốc gia khác với phạm 
vi rất rộng. 
- Quy định về hợp tác quốc tế trong tố 
tụng hình sự. Phần thứ tám của Bộ luật Tố 
tụng hình sự đã quy định cụ thể, chi tiết về 
hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng 
hình sự của Việt Nam với cơ quan có thẩm 
quyền của nước ngoài như nguyên tắc hợp 
tác quốc tế, thực hiện tương trợ tư pháp và 
dẫn độ, chuyển giao. Các quy định của Bộ 
luật Tố tụng hình sự được cụ thể hóa chi 
tiết trong Luật Tương trợ tư pháp về tương 
trợ, ủy thác tư pháp hình sự, về dẫn độ, 
chuyển giao. Các quy định của Bộ luật Tố 
tụng hình sự, của Luật Tương trợ tư pháp 
đã cơ bản thể hiện đầy đủ nội dung Công 
ước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hợp tác quốc 
tế có hai vấn đề chưa có sự giống nhau 
hoàn toàn trong pháp luật Việt Nam và 
Công ước là: (1) về việc từ chối dẫn độ theo 
điểm d Khoản 1 Điều 344 Bộ luật Tố tụng 
hình sự và điểm d Khoản 1 Điều 35 Luật 
Tương trợ tư pháp thì “Người bị yêu cầu 
dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam vì 
lý do có khả năng bị truy bức ở nước yêu 
cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, 
tôn giáo, giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành 
phần xã hội hoặc quan điểm chính trị”. 
Trong khi đó, Điều 3 Công ước lại quy định 
Quốc gia thành viên không được trục xuất, 
trả về hoặc dẫn độ một người cho một quốc 
gia khác, nếu có lý do thực tế để tin rằng 
người đó có nguy cơ bị tra tấn mà không 
gắn điều kiện chính trị vào quy định này; 
(2) theo Công ước thì quốc gia thành viên 
có thể coi Công ước này là cơ sở pháp lý 
cho việc dẫn độ đối với những hành vi 
phạm tội này nếu pháp luật quốc gia chưa 
có quy định (áp dụng trực tiếp Công ước). 
Còn theo Khoản 2, Điều 344 Bộ luật Tố 
tụng hình sự thì Việt Nam có thể từ chối 
dẫn độ nếu theo pháp luật hình sự Việt Nam 
hành vi đó không phải là tội phạm. 
3.4. Triển khai thực hành Công ước trong 
Quân đội nhân dân Việt Nam 
Thực hiện Quyết định số 364/QĐ-TTg ngày 
17/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc 
phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện 
Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc, 
Bộ Quốc phòng đã ban hành Đề án “Tuyên 
truyền, phổ biến nội dung Công ước của Liên 
Hợp Quốc về chống Tra tấn và các hình thức 
đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo 
hoặc hạ nhục con người; quy định của pháp 
luật Việt Nam về chống tra tấn trong Quân 
đội giai đoạn 2016 - 2020” (Ban hành kèm 
theo Quyết định số 1291/QĐ-BQP ngày 
05/4/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). 
- Mục tiêu. 
a) Mục tiêu chung. 
Nâng cao nhận thức, hiểu biết về Công ước 
chống Tra tấn, quy định của pháp luật Việt 
Nam về chống tra tấn; nghĩa vụ của Việt Nam 
trong việc thực hiện Công ước chống Tra tấn, 
từ đó giáo dục ý thức tôn trọng và trách nhiệm 
của cán bộ, chiến sĩ trong chấp hành Công ước 
chống Tra tấn, chấp hành pháp luật Việt Nam 
về chống tra tấn; bảo đảm thực hiện có hiệu 
quả quyền con người theo tinh thần của Hiến 
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam; hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của 
Quân đội trong thời kỳ mới. 
b) Mục tiêu cụ thể. 
Đến năm 2020, có 90% quân nhân, công 
nhân và viên chức quốc phòng nói chung và 
100% người trực tiếp làm công tác điều tra, 
được giao tiến hành một số hoạt động điều 
tra, người làm công tác kiểm sát, xét xử, tạm 
giữ, tạm giam, thi hành án và thực hiện hoạt 
Trương Đức Thuận 
67 
động xử lý vi phạm hành chính được phổ 
biến, nâng cao nhận thức về nội dung cơ bản 
của Công ước chống Tra tấn, pháp luật Việt 
Nam về chống tra tấn để tham mưu, triển 
khai thực hiện các nhiệm vụ được giao bảo 
đảm thực hiện đúng trong thực thi công vụ, 
không để xảy ra sai sót, vi phạm. 
Đến năm 2020, có 100% cán bộ làm công 
tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thông 
tin, bồi dưỡng, cung cấp tài liệu để tự bồi 
dưỡng nội dung cơ bản của Công ước chống 
Tra tấn, pháp luật Việt Nam về chống tra tấn, 
bảo đảm thực hiện có hiệu quả hoạt động phổ 
biến, giáo dục pháp luật về chống tra tấn đến 
cán bộ, chiến sĩ. 
 Đến năm 2020, có 100% các đối tượng 
trong Quân đội và có liên quan đến hoạt 
động quân sự, quốc phòng được tuyên 
truyền, phổ biến những nội dung cơ bản của 
Công ước chống Tra tấn, pháp luật Việt Nam 
về chống tra tấn; những quy định của Bộ 
Quốc phòng về chống hành vi quân phiệt, từ 
đó có hiểu biết đầy đủ và triển khai thực hiện 
tốt các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, 
phát hiện, giúp cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành 
vi vi phạm pháp luật. 
Thường xuyên nêu cao nhận thức, trách 
nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong chấp 
hành các quy định của Bộ Quốc phòng và 
các cơ quan chức năng về phòng, chống hành 
vi quân phiệt; phấn đấu đến hết năm 2020 
không còn tình trạng quân phiệt trong quản 
lý bộ đội, nhất là số cán bộ chỉ huy, quản lý ở 
đơn vị cơ sở. 
- Đối tượng tuyên truyền, phổ biến. Cán 
bộ, chiến sỹ trong toàn quân, nhất là những 
người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử, 
tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và 
hoạt động trong xử lý vi phạm hành chính; 
đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến giáo 
dục pháp luật; các lực lượng tham gia hoạt 
động quân sự, quốc phòng; nhân dân địa 
phương nơi các đơn vị đóng quân, chú trọng 
có nguy cơ bị xâm phạm quyền không bị tra 
tấn, đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo 
hoặc bị hạ nhục (người có hành vi vi phạm 
pháp luật; người bị phạt tù được hưởng án 
treo; người bị tạm giam, tạm giữ; người đang 
chấp hành hình phạt tù; người đang bị áp 
dụng biện pháp xử lý hành chính). 
- Nội dung phổ biến. Nội dung cơ bản và 
những quy định quan trọng của Công ước 
chống Tra tấn; quy định của pháp luật Việt 
Nam về chống tra tấn và các quy phạm pháp 
luật liên quan. Nội dung các quyền và quy 
định bảo đảm các quyền tố tụng của bị can, 
bị cáo, các quyền bồi thường của nạn nhân bị 
tra tấn, quyền được bảo vệ của nhân chứng 
và nạn nhân bị tra tấn. Các quy định, chính 
sách sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế; tình hình 
triển khai thực hiện Công ước chống Tra tấn, 
quy định của Bộ Quốc phòng về chống các 
hành vi quân phiệt. Những thành tựu đạt 
được của cả nước nói chung và trong Quân 
đội nói riêng về đảm bảo quyền không bị tra 
tấn, đối xử, trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo 
hoặc bị hạ nhục. 
- Hình thức, biện pháp tuyên truyền, phổ 
biến. Thực hiện tuyên truyền, phổ biến trên 
các phương tiện thông tin đại chúng; biên 
soạn, phát hành các tài liệu để tuyên truyền, 
phổ biến; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng 
chuyên sâu đối với những người trực tiếp 
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, 
thực thi pháp luật; bổ sung vào chương trình 
đào tạo trong các học viện, nhà trường trong 
Quân đội. 
- Tổ chức triển khai. Cục Tuyên huấn - 
Tổng cục Chính trị là cơ quan thường trực 
của Đề án có trách nhiệm chủ trì phối hợp 
với các cơ quan liên quan (Vụ Pháp chế Bộ 
Quốc phòng, cơ quan báo chí trong Quân 
đội, Cục Tài chính, Cục Nhà trường, Cục 
Điều tra hình sự, Tòa án quân sự Trung 
ương, Viện kiểm sát quân sự Trung ương, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
68 
Ban Thanh niên, Ban Phụ nữ Quân đội, Ban 
Công đoàn Quốc phòng, các cơ quan có chức 
năng xử lý vi phạm hành chính trong Quân 
đội và các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ 
Quốc phòng) tổ chức thực hiện Đề án. 
- Trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, cơ 
quan đoàn thể, đơn vị và trách nhiệm của 
quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng. 
Căn cứ vào nội dung Đề án, các cơ quan, đơn 
vị có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, hướng 
dẫn, tổ chức thực hiện nội dung của Đề án 
trong cơ quan, đơn vị mình; chú trọng quán 
triệt, phổ biến pháp luật về chống tra tấn, quy 
định của Bộ Quốc phòng về phòng, chống 
các hành vi quân phiệt, nhục hình cho những 
người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử, 
thi hành án, xử lý vi phạm hành chính và cán 
bộ quản lý, chỉ huy ở đơn vị cơ sở; phối hợp 
với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi đóng 
quân, nhất là các đơn vị đóng quân ở vùng 
sâu, vùng xa, biên giới hải đảo làm tốt công 
tác tuyên truyền, phổ biến Công ước chống 
Tra tấn, pháp luật Việt Nam về chống tra tấn 
trong Nhân dân; tổ chức sơ kết, báo cáo theo 
quy định. 
4. Kết luận 
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nhất là 
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Luật 
Tương trợ tư pháp cơ bản đã phù hợp với 
các nội dung của Công ước, với quy định 
của Hiến pháp mới. Tuy nhiên, trong thực 
tiễn phong phú sẽ không tránh khỏi vẫn còn 
một số quy định chưa phù hợp hoặc thiếu 
một số quy định để nội luật hóa các quy 
định của Công ước. Do đó, việc hoàn thiện 
pháp luật tố tụng hình sự, mà chủ yếu là Bộ 
luật Tố tụng hình sự và Luật Tương trợ tư 
pháp cần được thực hiện thường xuyên, liên 
tục và kịp thời (xác định chủ yếu là các nội 
dung về quyền tài phán đối với tội tra tấn, 
quy định về biện pháp ngăn chặn, quy định 
về thủ tục tố tụng và chứng minh, quy định 
về dẫn độ), được đặt trong bối cảnh về 
chính trị, kinh tế, an ninh, xã hội đặc thù 
của Việt Nam. 
Việc tham gia Công ước chống Tra tấn 
là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động 
và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, 
khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực 
và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, 
nâng cao đáng kể uy tín quốc tế của Việt 
Nam trên lĩnh vực nhân quyền và tạo ra 
những động lực, cơ sở mới để thúc đẩy hoạt 
động phòng, chống tra tấn ở nước ta hiện 
nay. Sự kiện Việt Nam tham gia Công ước 
chống Tra tấn và nội dung cơ bản của Công 
ước đã được phổ biến trên các phương tiện 
thông tin đại chúng. Tuy nhiên, để nội dung 
Công ước được phổ biến hơn và đi vào 
cuộc sống, thì mọi người, mọi cơ quan, tổ 
chức nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và 
các đơn vị trong Quân đội cần thực hiện có 
hiệu quả hơn nữa công tác tuyên truyền 
pháp luật. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Liên Hợp Quốc (1987), Công ước chống Tra 
tấn và Trừng phạt hoặc Đối xử tàn nhẫn, vô 
nhân đạo làm mất phẩm giá khác, New York 
(Bản dịch tiếng Việt). 
[2] Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội. 
[3] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội. 
[4] Quốc hội (2007), Luật Tương trợ tư pháp, Hà Nội. 
[5] Quốc hội (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số 
điều của Bộ luật Hình sự số100/2015/QH2013, 
Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfquy_dinh_cua_bo_luat_hinh_su_viet_nam_ve_quyen_con_nguoi_the.pdf