Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Từ ngày 19/11/1997, Việt Nam kết nối

internet toàn cầu, kết nối thông tin với thế giới.

Việt Nam đã tận dụng được tối đa tính năng ưu

việt của Internet trong xây dựng, phát triển đất

nước và hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực xã

hội. Số lượng kết nối Internet của Việt Nam tăng

lên nhanh chóng, với hơn 200.000 người lúc đầu,

thì đến năm 2019, có 64 triệu người sử dụng

Internet, tăng đến 28% so với năm 2017. Theo số

liệu thống kê, đến đầu năm 2019 có tới 58 triệu

người dùng mạng xã hội trên thiết bị di động,

tăng đến 8 triệu người dùng so với cùng kỳ năm

trước. Cùng với sự phát triển của công nghệ, điện

thoại thông minh ngày càng giảm giá giúp cho

nhiều người có thể dễ dàng sở hữu và tiếp cận

với Internet. Mặc dù dân số chỉ đạt 96,96 triệu

người nhưng số thuê bao điện thoại đã được đăng

ký lên tới 143,3 triệu số. Điều này cho thấy phần

đông người dân Việt Nam đã tiếp cận với điện

thoại di động thông minh để phục vụ cho cuộc

sống, cũng như công việc1. Về cơ sở hạ tầng, tốc

độ truy cập Internet ở Việt Nam tăng trưởng

hàng năm.

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 1

Trang 1

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 2

Trang 2

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 3

Trang 3

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 4

Trang 4

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 5

Trang 5

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 6

Trang 6

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 7

Trang 7

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 8820
Bạn đang xem tài liệu "Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 
 1 
Original Article 
Digital Governance in Vietnam at the Present Day 
Bui Phuong Dinh1, , Vu Thai Hanh2 
1Institute of Sociology and Development, Ho Chi Minh National Academy of Politics, 
 135 Nguyen Phong Sac, Nghia Tan, Hanoi, Vietnam 
2Academy of Politics Region III, 215 Nguyen Cong Tru, An Hai Bac, Son Tra, Da Nang, Vietnam 
Received 21 August 2020 
Revised 15 September 2020; Accepted 16 September 2020 
Abstract: Digitization has become an irreversible practice in socio-economic and governance 
processes. Executive management activities, whether within an organization and agency or on the 
national level, are showing a digital trend. The article reviews the evolution and formation of the 
digital governance category; identifies and analyzes digitalized practices in lives and state 
management; on these bases, suggesting some policy implications on digital governance in the 
coming years in Vietnam. 
Keywords: Governance, digitization, public services. 
________ 
 Corresponding author. 
 Email address: bpdinh2010@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4256 
B.P. Dinh, V.T. Hanh / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 2 
Quản trị số hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 
Bùi Phương Đình1, , Vũ Thái Hạnh2 
1Viện Xã hội học và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 
135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2Học viện Chính trị Khu vực III, 215 Nguyễn Công Trứ, An Hải Bắc, Sơn Trà, Đà Nẵng, Việt Nam 
Nhận ngày 21 tháng 8 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 9 năm 2020 
Tóm tắt: Số hóa đã trở thành một thực tiễn không thể đảo ngược trong các tiến trình kinh tế - xã hội 
và quản trị. Các hoạt động quản lý điều hành, dù trong giới hạn một tổ chức và cơ quan hay trên 
bình diện của một đất nước, đều đang thể hiện khuynh hướng số hóa. Bài viết tổng quan lại sự tiến 
triển và hình thành phạm trù quản trị số hóa – Digital governance; nhận diện và phân tích thực tiễn 
số hóa trong cuộc sống và quản lý nhà nước; trên cơ sở đó, đưa ra một số gợi ý chính sách về quản 
trị số hóa trong thời gian tới ở Việt Nam. 
Từ khóa: Quản trị, số hóa, dịch vụ công. 
1. Mở đầu 
Từ ngày 19/11/1997, Việt Nam kết nối 
internet toàn cầu, kết nối thông tin với thế giới. 
Việt Nam đã tận dụng được tối đa tính năng ưu 
việt của Internet trong xây dựng, phát triển đất 
nước và hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực xã 
hội. Số lượng kết nối Internet của Việt Nam tăng 
lên nhanh chóng, với hơn 200.000 người lúc đầu, 
thì đến năm 2019, có 64 triệu người sử dụng 
Internet, tăng đến 28% so với năm 2017. Theo số 
liệu thống kê, đến đầu năm 2019 có tới 58 triệu 
người dùng mạng xã hội trên thiết bị di động, 
tăng đến 8 triệu người dùng so với cùng kỳ năm 
trước. Cùng với sự phát triển của công nghệ, điện 
thoại thông minh ngày càng giảm giá giúp cho 
nhiều người có thể dễ dàng sở hữu và tiếp cận 
với Internet. Mặc dù dân số chỉ đạt 96,96 triệu 
người nhưng số thuê bao điện thoại đã được đăng 
ký lên tới 143,3 triệu số. Điều này cho thấy phần 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: bpdinh2010@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4256 
1 https://vnetwork.vn/news/cac-so-lieu-thong-ke-internet-viet-nam-2019 
2 https://vovworld.vn/vi-VN/binh-luan/tu-do-internet-o-viet-nam-la-thuc-te-khong-the-phu-nhan-799546.vov 
đông người dân Việt Nam đã tiếp cận với điện 
thoại di động thông minh để phục vụ cho cuộc 
sống, cũng như công việc1. Về cơ sở hạ tầng, tốc 
độ truy cập Internet ở Việt Nam tăng trưởng 
hàng năm. Hiện nay, Việt Nam nằm trong số các 
quốc gia có tỷ lệ người dùng internet cao nhất 
châu Á, đứng thứ 12/20 quốc gia dẫn đầu thế giới 
về số người dùng Internet2. Người dân có thể tự 
do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân 
thông qua internet, nhất là qua các trang web, 
mạng xã hội; nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ 
thống chính trị từ Trung ương đến địa phương sử 
dụng internet, mạng xã hội để làm việc, giải 
quyết các thủ tục hành chính và liên hệ trực tiếp 
với người dân, Nền tảng công nghệ và số 
người sử dụng internet gia tăng cho phép Việt 
Nam tận dụng cơ hội trong phát triển, ứng dụng 
chính phủ điện tử, quản trị số trong cung cấp các 
dịch vụ công, nâng cao tính minh bạch, sự tham 
B.P. Dinh, V.T. Hanh / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 3 
gia của người dân vào giải quyết các công việc 
chung, mở rộng dân chủ theo phương châm: dân 
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ 
hưởng. 
Kể từ khi có sự xuất hiện của internet, các 
biểu hiện hỗn loạn trong không gian số tác động 
đến cuộc sống thực đặt ra yêu cầu quản trị số 
nhằm mục đích kiềm chế và xác định rõ vai trò, 
trách nhiệm của sự phát triển  ... 
6 
tu/Thang-62020-100-van-ban-dien-tu-duoc-gui-nhan-o-ca-
4-cap-chinh-quyen/392128.vgp 
Chính phủ điện tử luôn đặt người dân ở trung 
tâm, quan tâm đến sự thuận tiện, hài lòng của 
người dân và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau. 
Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện vai 
trò là cơ quan điều phối thống nhất toàn quốc về 
Chính phủ điện tử, tổng hợp chiến lược, kế 
hoạch, các dự án đầu tư, thuê dịch vụ công nghệ 
thông tin, kinh phí cho Chính phủ điện tử, Chính 
quyền điện tử của các Bộ, ngành, địa phương. Bộ 
Thông tin và Truyền thông tập trung xây dựng 
chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng 
tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định 
hướng đến năm 2030, trình Chính phủ trong 
tháng 12 năm 2020 và xây dựng Kế hoạch phát 
triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2021-2023 để 
cụ thể hoá chiến lược này, trình Thủ tướng Chính 
phủ trong tháng 01 năm 20216. Đây là lộ trình, 
chiến lược và định hướng về Chính phủ số, hoạt 
động hiệu quả trên môi trường số, dựa trên phân 
tích dữ liệu lớn để ra quyết định, cung cấp kịp 
thời các dịch vụ số mới đáp ứng nhu cầu của 
người dân, doanh nghiệp. Burak Erkut (2020) 
phân tích quá trình chuyển từ chính phủ số sang 
quản trị số cần có kiến thức cần thiết để ra quyết 
định, tính hợp pháp của các quyết định chính phủ 
và tác động của nó đến nền kinh tế liên quan đến 
dữ liệu lớn (big data). Tác giả nêu vấn đề quan 
trọng là bằng cách nào tạo ra cấu trúc quản trị tốt 
để khuyến khích người dân tham gia vào quá 
trình ra quyết định. Tính bền vững của quá trình 
chuyển đổi sang quản trị số là quá trình chuyển 
từ cấu trúc kỹ thuật sang các qui trình ở các cấp 
độ khác nhau và các qui trình này cũng có giới 
hạn của riêng nó7 [6]. 
Các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin trên 
các trang web, hay các cổng thông tin cho phép 
người dân truy cập thông tin và thực hiện các 
giao dịch trực tuyến, các cơ quan có thể kết nối 
công việc với nhau trực tuyến và kết nối giữa 
người dân, doanh nghiệp và chính quyền. Từ 
đây, cũng xuất hiện các công dân mạng. Yêu cầu 
7 Burak Erkut, Institute for Research in Economic and 
Fiscal Issues (IREF), 75017 Paris, France. From Digital 
Government to Digital Governance: Are We There Yet? 
Sustainability 2020, 12, 860; doi:10.3390/su12030860 
B.P. Dinh, V.T. Hanh / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 5 
đặt ra các ứng dụng phải tăng cường sự tin cậy 
của chính quyền, trách nhiệm giải trình của các 
cơ quan công quyền, và trách nhiệm công dân. 
Chính phủ cũng cần đảm bảo sự công bằng và 
chất lượng của các dịch vụ công trực tuyến, bên 
tư vấn thứ ba, hay bên trung gian cũng cần phải 
giám sát và điều tiết cẩn thận. Chúng ta chỉ tận 
dụng được tiềm năng của quản trị số khi chính 
phủ loại bỏ được các rào cản tiếp cận và triển 
khai phần mềm cho các tương tác dịch vụ đầy đủ 
, giảm thiểu sự trùng lắp và loại bỏ những thứ 
không hiệu quả, thừa thãi. 
5. Quản trị số trong thực tiễn pháp lý 
Việt Nam 
Các qui định luật pháp, qui chế hoạt động 
trên không gian số có vai trò quan trọng trong 
việc điều tiết hoạt động và các hành vi của các 
cá nhân, tổ chức trong môi trường này. Luật An 
ninh mạng chính thức có hiệu lực từ ngày 
1/1/2019 quy định về hoạt động bảo vệ an ninh 
quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên 
không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ 
chức, cá nhân có liên quan. Luật này ra đời, tạo 
cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, định 
hướng các hoạt động, tương tác trên không gian 
mạng, vốn phát triển nhanh chóng, đã có những 
biểu hiện lệch lạc xâm phạm đến uy tín, danh dự, 
quyền lợi của các cá nhân, tổ chức, hướng đến 
xây dựng không gian mạng lành mạnh, không 
gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an 
toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ 
quan, tổ chức, cá nhân. Chính phủ đã ban hành 
Nghị định 142/2016/NĐ-CP quy định nguyên 
tắc, nội dung, biện pháp, hợp tác quốc tế và trách 
nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt 
động ngăn chặn xung đột thông tin trên mạng tại 
Việt Nam. Đây là 1 trong 7 văn bản của Chính 
phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi 
hành Luật An toàn thông tin mạng. Nghị định 
________ 
8 https://moh.gov.vn/an-toan-thong-tin/-
/asset_publisher/Bw4QBWFuEE3k/content/luat-an-ninh-
mang-chinh-thuc-co-hieu-luc 
9 Xem thêm bài Việt Nam tăng tiếp 2 bậc về chỉ số phát 
triển Chính phủ điện tử tại 
nêu rõ 4 nội dung ngăn chặn xung đột thông tin 
trên mạng gồm: i) Giám sát, phát hiện, cảnh báo 
xung đột thông tin trên mạng; ii) Xác định nguồn 
gốc xung đột thông tin trên mạng; iii) Chặn lọc, 
khắc phục và loại trừ xung đột thông tin trên 
mạng; iv) Thông tin, tuyên truyền, giáo dục và 
hợp tác quốc tế về ngăn chặn xung đột thông tin 
trên mạng8. Trong đó, Nghị định yêu cầu hoạt 
động giám sát, phát hiện, cảnh báo xung đột 
thông tin trên mạng phải được cơ quan nghiệp vụ 
và chủ quản hệ thống thông tin thực hiện thường 
xuyên, liên tục. Các hệ thống thông tin quan 
trọng quốc gia, các cổng kết nối quốc tế phải 
được triển khai các giải pháp giám sát, phát hiện 
và cảnh báo xung đột thông tin trên mạng. Theo 
Nghị định, xung đột thông tin trên mạng phải 
được các cơ quan nghiệp vụ xác định nguồn gốc, 
thủ đoạn và tổn thất do xung đột thông tin gây ra 
để có biện pháp xử lý phù hợp. Nội dung xác 
định nguồn gốc xung đột thông tin trên mạng bao 
gồm xác định gói tin, thông tin, địa chỉ nguồn, 
địa chỉ đích, cổng dịch vụ và cách thức, thủ đoạn 
xung đột thông tin trên mạng; xác định đối 
tượng, mục đích và mức độ gây xung đột. 
6. Các thách thức trong quản trị số ở 
Việt Nam 
Mặc dù đã đạt được tiến bộ nhất định, việc 
xây dựng nền quản trị số ở Việt Nam phải đối 
mặt với một số hạn chế, "vị trí của Việt Nam 
trong Bảng xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ 
điện tử của Liên Hợp Quốc vẫn ở mức thấp trong 
nhóm cao của thế giới. Theo báo cáo mới nhất 
của Liên Hợp Quốc, trong giai đoạn 2014 – 
2020, Việt Nam liên tục thăng hạng từ vị trí thứ 
99 lên vị trí thứ 86 trong tổng số 193 quốc gia và 
lãnh thổ được đánh giá. Trong khu vực ASEAN, 
Việt Nam chỉ được xếp hạng khiêm tốn ở vị trí 
thứ 69. Kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về 
Chính phủ điện tử còn rất chậm và nhiều nơi thực 
https://ictnews.vietnamnet.vn/cuoc-song-so/viet-nam-tang-
tiep-2-bac-ve-chi-so-phat-trien-chinh-phu-dien-tu-
258516.html. Tải về ngày 3 tháng 8 năm 2020 
B.P. Dinh, V.T. Hanh / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 6 
hiện mang tính hình thức”10. Có thể nêu ra một 
số thách thức sau: 
Thứ nhất, điều kiện về hạ tầng kỹ thuật đang 
trong quá trình hoàn thiện, các nền tảng phần 
mềm và CNTT khác nhau được sử dụng trong 
chính phủ điện tử dẫn đến thiếu khả năng tương 
thích và giao tiếp, ảnh hưởng đến chất lượng và 
số lượng dịch vụ công, tiến độ xây dựng cơ sở 
dữ liệu quốc gia còn chậm, đặc biệt là dữ liệu dân 
số: Theo trang tin điện tử chính phủ thì “việc xây 
dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ 
tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ 
phát triển Chính phủ điện tử rất chậm so với tiến 
độ cần có; các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục 
bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ 
thống thông tin; chất lượng dữ liệu và thông tin 
chưa được cập nhật kịp thời, chính xác”. Những 
quốc gia gặp khó khăn về vấn đề này sẽ khó đáp 
ứng nền tảng cơ bản, đảm bảo cho phát triển dịch 
vụ công trực tuyến tốt. 
Thứ hai, năng lực, nhận thức, lợi ích, thói 
quen của cán bộ các cấp, doanh nghiệp và người 
dân trong cung ứng và sử dụng dịch vụ công trực 
tuyến. Có nhiều người ngại tiếp cận với hình 
thức cung cấp dịch vụ mới vẫn quen với cách làm 
cũ, thậm chí các yếu tố lợi ích bị ảnh hưởng 
khiến họ ứng dụng cầm chừng, việc sử dụng các 
dịch vụ công trực tuyến đã tăng lên nhưng nó vẫn 
có tỷ lệ sử dụng và hiệu quả hạn chế, cổng thông 
tin điện tử và hệ thống thông tin một cửa điện tử 
ở một số địa phương chưa đảm bảo chức năng 
của họ, trong khi phân bổ ngân sách cho việc xây 
dựng chính phủ điện tử vẫn còn khó khăn, “việc 
cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo 
số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực hiện dịch vụ 
công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ 
tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn 
mang nặng tính thủ công, giấy tờ”, thiếu gắn kết 
giữa ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách 
thủ tục hành chính và đổi mới lề lối, phương thức 
làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân, 
doanh nghiệp. Vấn đề nữa là có sự không đồng 
________ 
10 
huong-toi-chinh-phu-so-va-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-a-
NewsDetails-37599-14-186.html 
11 Mai Tiến Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, 
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ. 
đều, phân hóa trong các nhóm cư dân trong việc 
tiếp cận các dịch vụ của quản trị số như người 
dân nông thôn, vùng sâu vùng xa, người có trình 
độ học vấn thấp, người cao tuổi, 
Thứ ba, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện 
cũng ảnh hưởng lớn đến việc vận hành quản trị 
số, đặc biệt là các vấn đề mới, chúng ta chưa có 
nhận thức đầy đủ. Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm 
văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng còn những 
rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ 
thông tin gây khó khăn cho các doanh nghiệp 
trong triển khai các dự án. Điều này dẫn đến tình 
trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa 
phương còn chưa có đầy đủ thông tin dữ liệu số 
của các đối tượng mình quản lý, chúng ta còn 
thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng Chính 
phủ điện tử, thiếu quy định cụ thể về xác thực cá 
nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử cũng 
như các quy định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện 
tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao 
dịch hành chính và thanh toán. Cơ chế bảo đảm 
thực thi nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử 
chưa đủ mạnh cũng là nguyên nhân của việc thực 
hiện còn thiếu hiệu quả và mang nặng tính hình 
thức; chúng ta chưa phát huy tối đa sự tham gia 
của khu vực tư nhân trong xây dựng Chính phủ 
điện tử và thiếu cơ chế tài chính và đầu tư phù 
hợp với đặc thù dự án công nghệ thông tin. 
Thứ tư, yếu tố bảo mật, “nhiều hệ thống 
thông tin đã triển khai chưa bảo đảm an toàn, an 
ninh thông tin, mức độ tin cậy của quốc gia trong 
giao dịch điện tử thấp, thói quen cát cứ dữ liệu 
còn tồn tại ở nhiều cơ quan; việc bảo đảm an 
toàn, an ninh cho các hệ thống thông tin của các 
cơ quan Nhà nước còn chưa được quan tâm đúng 
mức”11 [7]. 
Thứ năm, thách thức lớn nhất trong quản trị 
số hóa ở Việt Nam là khoảng cách giữa mức độ 
sẵn sàng của bên cung cấp dịch vụ hành chính 
công trực tuyến với mức độ sử dụng thật sự của 
người dân. Đối với doanh nghiệp, việc thực hiện 
huong-toi-chinh-phu-so-va-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-a-
NewsDetails-37599-14-186.html 
B.P. Dinh, V.T. Hanh / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 7 
các dịch vụ công trực tuyến mang lại kết quả tiết 
kiệm rõ ràng về thời gian và chi phí sử dụng dịch 
vụ công trực tuyến tăng lên nhanh chóng qua các 
năm 2014: 46% đến năm 2016: 75% và giữ ổn 
định ở mức 74 – 75% trong 3 năm 2017 - 201912 
[8]. Trong khi các cơ quan nhà nước từ trung 
ương đến địa phương đang tăng tốc thực hiện số 
hóa việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, 
thì cách thức thu hút người dân sử dụng dịch vụ 
lại chưa thật sự thuyết phục. Báo cáo Chỉ số quản 
trị và hành chính công cấp tỉnh PAPI năm 2019 
cho thấy những con số đáng quan ngại về việc 
người dân sử dụng các dịch vụ này như thế nào? 
Trên cả 63 tỉnh và thành phố, tỷ lệ người dân trả 
lời đã lấy được đủ thông tin và biểu mẫu tử cổng 
thông tin điện tử địa phương về 3 thủ tục hành 
chính là: Chứng thực xác nhận, Cấp phép xây 
dựng; Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 
đều dưới 10%. Cá biệt có nhiều tỉnh con số này 
là 0% [9]. 
Biểu 1. Mức độ người dân sử dụng một số dịch vụ công trực tuyến ở 64 tỉnh và thành phố. 
Nguồn: Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính cấp tỉnh – PAPI 2019 
Với những khó khăn, bất cập nêu trên, có 
thể thấy việc xây dựng và phát triển nền quản trị 
số, chuyển từ chính phủ điện tử sang quản trị số 
ở Việt Nam còn nhiều gian nan, thách thức về 
mặt kỹ thuật, hoàn thiện hành lang pháp lý, ý 
thức, trách nhiệm của cả các cơ quan nhà nước 
và người dân trong việc ứng dụng, tận dụng các 
lợi ích to lớn của nền quản trị số cũng như đóng 
góp ý kiến, trí tuệ vào các quá trình ra quyết định 
chính sách, giải quyết các vấn đề xã hội nổi cộm. 
Việc chuyển từ chính phủ điện tử sang quản trị 
số là quá trình còn nhiểu khó khăn nhưng là xu 
hướng tất yếu trong phát triển kinh tế số và cách 
mạng công nghệ hiện nay. 
________ 
12 Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2020). Báo cáo 
chỉ số thương mại điện tử năm 2020. 
Tài liệu tham khảo 
[1] M.E. Milakovich, Digital Governance: New 
technologies for Improving Public Service and 
Participation, Google Scholar, 2012. 
[2] K. Chang, Digital Governance: New technologies 
for Improving Public Service and Participation, 
Routledge, New York, 2012, pp.376. 
[3] L. Welchman, The Basics of Digital Governance in 
Managing Chaos: Digital Governance by Design, 
Rosenfield Media, New York, 2015, pp.11-18. 
[4] H. Garg, Digital Governance, International Journal 
of Humanities and Management Sciences (IJHMS) 
4 (4) 2016, ISSN 2320–4044. 
,000%
2,000%
4,000%
6,000%
8,000%
10,000%
1 4 7 10 13 16 19 22 25 28 31 34 37 40 43 46 49 52 55 58 61
Tỷ lệ người trả lời về thông tin và biểu mẫu từ cổng thông tin 
điện tử địa phương
Chứng thực, xác nhận (%) 0%-100%
Thủ tục cấp phép xây dựng (%) 0%-100%
Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (%) 0%-100%
B.P. Dinh, V.T. Hanh / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-8 8 
[5] S. Dharmaraj, Vietnam to accelerate e-government 
development. 
https://www.opengovasia.com/vietnam-to-
accelerate-e-government-development/, 2019 
(accessed 25 July 2020) 
[6] B. Erkut, Institute for Research in Economic and 
Fiscal Issues (IREF), 75017 Paris, France, From 
Digital Government to Digital Governance: Are 
We There Yet? Sustainability 12 (2020) 860 
doi:10.3390/su12030860 
[7] M.T. Dung, Building an e-Government towards 
digital government and digital economy in 
Vietnam (in Vietnamese), 
dien-tu-huong-toi-chinh-phu-so-va-nen-kinh-te-
so-o-viet-nam-a-NewsDetails-37599-14-186.html 
(accessed 25 July 2020). 
[8] Vietnam E-Commerce Association, E-commerce 
index report 2020 (in Vietnamese), 2020. 
[9] UNDP - United Nations Development Programme, 
Performance index of governance and provincial 
public administration in Vietnam in 2019 (in 
Vietnamese), 2020.  (accessed 
25 July 2020).

File đính kèm:

  • pdfquan_tri_so_hoa_o_viet_nam_trong_giai_doan_hien_nay.pdf