Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay

Bài viết này nghiên cứu thực trạng quản lý nợ công ở VN từ năm 2006 đến nay bằng phương pháp định tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác quản lý nợ công ở VN đã thu được những

thành công nhất định. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn tại một số hạn

chế như khung thể chế luật pháp còn rườm rà chồng chéo; khâu đánh giá nợ

có độ trễ nhất định so với thực tế; và việc quản lý sử dụng nợ công chưa hợp

lý. Vì vậy, các giải pháp chính sẽ là hoàn thiện thể chế pháp luật và hệ thống

quản lý nợ công, hoàn thiện khâu đánh giá nợ công, và hoàn thiện quản lý

sử dụng nợ công.

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay trang 1

Trang 1

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay trang 2

Trang 2

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay trang 3

Trang 3

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay trang 4

Trang 4

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay trang 5

Trang 5

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 5380
Bạn đang xem tài liệu "Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay

Quản lý nợ công ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay
Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
91
thông lệ quốc tế và cần được sử 
dụng hết sức thận trọng. Hiện nay, 
Chính phủ và các cơ quan quản lý 
nhà nước đang nghiên cứu, học 
tập kinh nghiệm để tìm ra các biện 
pháp phù hợp nhằm kiểm soát và 
tăng cường quản lý nợ công thúc 
đẩy phát triển kinh tế. Xuất phát 
từ thực trạng trên, tôi thực hiện 
nghiên cứu “Quản lý nợ công ở 
VN từ năm 2006 đến nay” nhằm 
phân tích thực trạng quản lý nợ 
công, tìm ra những vấn đề còn tồn 
tại và đề xuất các giải pháp quản 
lý nợ công hiệu quả hơn trong thời 
gian tới.
2. Thực trạng nợ công ở Vn giai 
đoạn 2006 – 2012 
2.1. Tình trạng nợ công giai đoạn 
2006-2012
Bảng 1 cho thấy nợ công tăng 
nhanh về giá trị tuyệt đối cũng như 
mức nợ bình quân trên đầu người, 
tỷ lệ nợ công trên GDP. Theo số 
liệu Bộ Tài chính ta thấy năm 2006 
nợ công khoảng 24 tỷ USD chiếm 
44,5% GDP. Tuy nhiên, sau hơn 5 
năm vào năm 2011 mức nợ đã tăng 
lên gần 49 tỷ (tăng 2 lần) chiếm 
55,4% GDP. Mức nợ công trên đầu 
người năm 2006 là 291,68 USD/
người/năm và đến 2011 lên đến 
760 USD/người/năm (gấp hơn 2 
lần) so với năm 2006.
Nợ nước ngoài và nợ trong 
nước của Chính phủ có xu hướng 
gia tăng, việc phát hành trái phiếu 
chính phủ thành công cùng với 
việc thu hút vốn ODA từ nước 
ngoài làm cho tổng mức nợ nước 
ngoài của Chính phủ tăng lên 
trung bình đạt 30% GDP trong 
suốt giai đoạn 2006-2011 và sẽ 
tăng mạnh trong tương lai.
Trong bối cảnh lạm phát liên 
tục tăng cao, chính sách tiền tệ 
để ổn định ngoại hối sẽ khó khăn 
hơn khi phải đánh đổi giữa nghĩa 
vụ nợ tăng lên, hay bào mỏng 
Bài viết này nghiên cứu thực trạng quản lý nợ công ở VN từ năm 2006 đến nay bằng phương pháp định tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác quản lý nợ công ở VN đã thu được những 
thành công nhất định. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn tại một số hạn 
chế như khung thể chế luật pháp còn rườm rà chồng chéo; khâu đánh giá nợ 
có độ trễ nhất định so với thực tế; và việc quản lý sử dụng nợ công chưa hợp 
lý. Vì vậy, các giải pháp chính sẽ là hoàn thiện thể chế pháp luật và hệ thống 
quản lý nợ công, hoàn thiện khâu đánh giá nợ công, và hoàn thiện quản lý 
sử dụng nợ công.
Từ khóa: Nợ công, quản lý, VN
Quản lý nợ công ở Việt Nam 
từ năm 2006 đến nay
TS. PhAn ĐÌnh nguyên
Đại học Kỹ thuật Công nghệ TP. HCM
vẫn tồn tại tình trạng quản lý và sử 
dụng nguồn vốn ODA chưa hiệu 
quả, tỷ lệ giải ngân còn thấp, mức 
độ ưu đãi có xu hướng giảm dần và 
xa hơn là vấn đề trả nợ ODA. Đây 
chính là một trong những nguy cơ 
dẫn đến khủng hoảng nợ công mà 
một số nước đang trải qua. Sau vụ 
việc xẩy ra tại Vinashin và một vài 
tập đoàn kinh tế nhà nước gần đây, 
cũng như một số vấn đề về rủi ro 
tỷ giá, lạm phát... vấn đề quản lý 
nợ công ở VN đang trở thành chủ 
đề thời sự được nhiều người quan 
tâm. 
Từ năm 2001 đến 2012, nợ công 
của VN tăng lên đáng kể, chủ yếu 
là nợ nước ngoài. Tình hình như 
hiện nay, nếu không được quản lý 
hiệu quả thì nguy cơ khủng hoảng 
nợ công là rất cao. Chính phủ dự 
kiến nợ công của VN tính đến 2015 
sẽ tương đương 60-65%. Theo Ủy 
ban Kinh tế của Quốc hội, mức 
nợ này vượt ngưỡng an toàn theo 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Nghiên Cứu & Trao Đổi
92
dự trữ để can thiệp. Bởi, cùng 
với trách nhiệm trả nợ thì Chính 
phủ còn phải cân nhắc đến khả 
năng tăng thu ngân sách, khi mà 
tỷ trọng thu so với GDP đã cao 
và tình hình kinh tế trong ngắn 
hạn chưa cho thấy triển vọng 
phục hồi mạnh mẽ. Về cơ cấu 
nợ, 46,66% trong số 32,5 tỷ USD 
này là nợ song phương, 44,59% 
là nợ đa phương, còn lại là nợ do 
phát hành trái phiếu, nợ các ngân 
hàng thương mại và các chủ nợ 
tư nhân khác.
Khoản nợ này khiến ngân 
sách nhà nước phải chi trả nợ 
trong năm 2010 lên tới 1,67 tỷ 
USD, trong đó chỉ trả hơn 1 tỷ 
USD nợ gốc, số còn lại là lãi và 
phí. Mức dư nợ này được dự kiến 
trả từ năm nay đến hết năm 2026, 
với mức trả hàng năm cao nhất 
lên tới gần 2,4 tỷ USD (cả gốc 
lẫn lãi, phí) và năm thấp nhất gần 
1 tỷ USD. 
Theo Bộ Tài chính, tổng số nợ 
nước ngoài của VN (chỉ bao gồm 
nợ Chính phủ trung ương, địa 
phương và nợ do Chính phủ bảo 
lãnh) tính đến cuối năm 2010 đã 
vượt 32,5 tỷ USD, từ con số gần 
27,93 tỷ USD trong năm trước 
đó. Điều đó cũng có nghĩa, trong 
vòng 1 năm, khối nợ nước ngoài 
của VN đã gia tăng thêm gần 4,6 
tỷ USD. Trong khi đó, nếu tính 
cả khoản trả nợ gốc trong năm 
gần 1,06 tỷ USD, ước tính trong 
năm 2010, VN đã thông qua các 
hiệp định, hợp đồng vay nợ tổng 
cộng xấp xỉ 5,6 tỷ USD, tương 
đương khoảng 5,3% GDP cùng 
năm (theo ước tính của Tổng cục 
Thống kê vào khoảng 104,6 tỷ 
USD). Với ý nghĩa là khoản vay 
để bù đắp bội chi ngân sách, theo 
công bố của Bộ Tài chính ngày 
1/4/2013, là vào khoảng 5,6% 
GDP, thì vay nước ngoài năm 
2010 của VN có vẻ tiếp tục vượt 
trội so với vay trong nước. Con 
số dư nợ tăng trong mấy năm gần 
đây không theo tố ... 
3.2. Thực trạng về tuyên truyền và 
phổ biến pháp luật liên quan đến 
quản lý nợ công
 Về công khai thông tin về tài 
chính, đây là một nguyên tắc căn 
bản hàng đầu và phổ biến trên 
thế giới trong quản trị công nói 
chung, quản trị tài khóa và đặc 
biệt là trong quản trị nợ công. 
Theo Hướng dẫn quản lý nợ 
công của IMF (2003) cũng như 
Cẩm nang minh bạch tài khóa 
(2007). Tuy nhiên, thực tế công 
tác này chưa đạt yêu cầu. Thứ 
nhất, xác định rõ vai trò và trách 
nhiệm tài khóa của các cơ quan 
của chính phủ vẫn còn nhiều chỉ 
tiêu chưa rõ ràng. Đây là yêu cầu 
thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm 
giải trình trong việc hoạch định 
Bảng 2. Hệ số các chỉ số đánh giá nợ công VN 2006 – 2011
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Đánh giá
Nợ công/GDP 44,5% 47,0% 49,6% 49,4% 51,7% 54,9% Trong ngưỡng
Nợ nước ngoài/GDP 26,7% 28,2% 25,1% 29,3% 31,1% 41,5% CPIA < 3 (không gặp vấn đề về nợ)
Trả nợ NN/XK 4,0% 3,8% 3,3% 4,2% 3,4% 4,5% Trong ngưỡng
Trả nợ chính phủ/tổng thu NSNN 3,7% 3,6% 3,5% 5,1% 3,7% 3,9% Trong ngưỡng
Dự trữ NH/dư nợ ngắn hạn 6,380% 10,177% 2,808% 290% 187% 54,6% TỐT
Nợ dự phòng/NSNN 4,5% 4,6% 4,7% 4,3% 5,8% 6,2%
Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 7 của Bộ Tài chính
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Nghiên Cứu & Trao Đổi
94
và thực thi chính sách. Thứ hai, 
khu vực chính phủ chưa được 
tách bạch rõ ràng ra khỏi phần 
còn lại của khu vực công và phần 
còn lại của nền kinh tế; chính 
sách và vai trò quản lý của khu 
vực công chưa rõ ràng và công 
bố công khai. Thứ ba, về quản 
lý nợ, pháp luật quản lý nợ chưa 
giao trách nhiệm rõ ràng cho một 
cá nhân đứng đầu: Lựa chọn các 
công cụ cần thiết cho việc vay 
nợ; xây dựng chiến lược quản lý 
nợ; xác định giới hạn nợ luật 
không quy định rõ.
Về cải cách thủ tục hành 
chính, việc cải cách hành chính 
nhà nước chưa được thực hiện 
trên tất cả các nội dung: Thể 
chế; tổ chức bộ máy; xây dựng 
và nâng cao chất lượng đội ngũ 
cán bộ, công chức,... Trong đó, 
chưa có đủ cơ chế giám sát của 
nhân dân đối với hoạt động của 
cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm 
quyền, trách nhiệm của cơ quan 
hành chính trong giải quyết khiếu 
nại của nhân dân; thực hiện tốt 
việc tiếp nhận ý kiến, phản hồi 
của người dân. Bên cạnh đó, thủ 
tục hành chính còn phức tạp chưa 
được đơn giản hóa và thông tin 
công bố chưa đầy đủ trên cổng 
thông tin điện tử của bộ, địa 
phương. 
Về hiệu quả hoạt động kiểm 
toán nhà nước, hoạt động kiểm 
toán còn chưa mang tính chất độc 
lập và đáng tin cậy nhiều hoạt 
động chưa cụ thể vào các chỉ tiêu 
quan trọng các hoạt động quản 
lý nợ hàng năm, chưa thực hiện 
tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng 
và kiên quyết loại bỏ, thuyên 
chuyển sang bộ phận khác những 
cán bộ yếu về tư cách đạo đức, 
thiếu trung thực, những cán bộ 
tín dụng thiếu kiến thức chuyên 
môn nghiệp vụ. 
4. Đánh giá về quản lý nợ công 
ở Vn từ 2006 đến nay 
4.1. Những thành công trong 
công tác quản lý nợ công
Thứ nhất, văn bản quản lý nợ 
công ở VN không khác với thông 
lệ thế giới khuôn khổ pháp luật 
và thể chế quản lý cải tiến đáng 
kể, vai trò thiết chế chủ yếu như 
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng, 
Bộ Tài chính,.đều quy định 
cụ thể từ đầu trong khâu hoạch 
định quản lý nợ. Thứ hai, hoạt 
động vay nợ và huy động vốn 
khá lớn vào NSNN cho đầu tư 
phát triển, thành công trong vấn 
đề xử lý nợ cũ 1993-2000 (90% 
so với GDP) thành nước có an 
toàn đủ điều kiện vay nợ mới, 
năm 2007, tỷ lệ nợ công (bao 
gồm nợ chính phủ, nợ chính phủ 
bảo lãnh và nợ chính quyền địa 
phương) khoảng 40,7% GDP, 
năm 2010 nợ công đạt 56,7% 
GDP. Năm 2011 nợ công đạt 
57,1% GDP. Thứ ba, phát hành 
trái phiếu thành công, xây dựng 
thị trường trái phiếu chuyên 
biệt, tổng khối lượng niêm yết 
lên tới 2,227 tỷ trái phiếu trong 
năm 2010, (75% TPCP) đạt giá 
trị 167,495 tỷ đồng. Thứ tư, tính 
đến 31/12/2009 (Bộ Tài chính) 
tình trạng nợ nước ngoài trong 
giới hạn an toàn, tỷ lệ nợ nước 
ngoài của quốc gia và khu vực 
công so với GDP có xu hướng ổn 
định trong trung hạn. Thứ năm, 
hình thành thị trường trái phiếu 
chính phủ trong nước, TPCP góp 
phần làm tăng tính thanh khoản 
của thị trường trái phiếu chính 
phủ và phát triển thị trường vốn 
nói chung. Thứ sáu, trả nợ chính 
phủ trong và ngoài nước luôn 
thực hiện đầy đủ và đúng hạn, 
tích cực đàm phán xử lý nợ cũ 
với chủ nợ nước ngoài (Câu lạc 
bộ Paris, Câu lạc bộ Luân Đôn) 
giảm đáng kể nghĩa vụ nợ của 
VN.
4.2. Một số vấn đề tồn tại trong 
công tác quản lý nợ công ở VN
4.2.1 Tồn tại trong khung thể 
chế luật pháp và trong hệ thống 
quản lý nợ công
Có thể kể đến là Luật Ngân 
sách nhà nước năm 2002 có quy 
định quản lý nợ nước ngoài, 
quy chế quản lý vay trả nợ nước 
ngoài đưa ra quy định chi tiết về 
quản lý vay trả nợ, quy chế cấp 
quản lý bảo lãnh chính phủ đối 
với các khoản vay nước ngoài 
năm 2006 Đây được coi như 
là bất cập khá lớn, nó làm cho 
khung pháp lý trở nên rườm rà 
và chồng chéo, khó theo dõi thực 
hiện giảm hiệu quả của công tác 
quản lý nợ.
Hệ thống quản lý nợ công còn 
chưa hiệu quả và hoàn thiện. Mặc 
dù Bộ Tài chính là cơ quan trực 
tiếp quản lý. Tuy nhiên, trên thực 
tế thể hiện khá nhiều sự chồng 
chéo về chức năng nhiệm vụ của 
2 bộ ngành chủ chốt là Bộ Kế 
hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính. 
Đặc biệt qua khâu quản lý nợ 
nước ngoài của Chính phủ. Nó 
nói rõ hơn trong khi Bộ Tài chính 
lập kế hoạch vay và trả nợ thì bộ 
kế hoạch và đầu tư lập kế hoạch 
về nội dung về số tiền đi vay 
được. Việc tách quy trình ra làm 
hai mảng như vậy dẫn đến một 
số hoạt động của hai bộ bị trùng 
lặp. Mỗi cơ quan chuyên trách 
một mảng nhất định của quản lý 
để hoàn thành tốt chức năng của 
mình thì lại cần đến sự kết hợp 
thông tin liên lạc trong khi thực 
tế thì sự kết hợp giữa các bộ lại 
chưa được quyết định do vậy gây 
khó khăn cho quá trình thu thập 
Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
95
thông tin lập kế hoạch theo dõi, 
giám sát và đặc biệt là đánh giá 
kết quả sử dụng vốn vay.
Trong thực tế, vai trò của 
Ngân hàng Nhà nước chỉ đóng 
vai trò làm đại lý phát hành tín 
phiếu kho bạc cho Bộ Tài chính 
hỗ trợ việc huy động vốn cho 
Chính phủ thông qua việc thúc 
đẩy sự phát triển của thị trường 
trái phiếu chính phủ như tạo cầu 
trái phiếu, tăng tính thanh khoản 
của thị trường, thẩm định các 
dự án quan trọng quốc gia còn 
chức năng tham gia cùng bộ tài 
chính trong công tác quản lý nợ 
thể hiện không rõ. Vai trò quan 
trọng trong việc nâng cao hiệu 
quả của công tác quản lý từ khâu 
xây dựng chiến lược đến thực 
hiện chiến lược quản lý nợ đồng 
thời Ngân hàng Nhà nước vẫn 
chưa được thực hiện tốt, nhiệm 
vụ quan trọng hơn là đưa ra 
chính sách tiền tệ phù hợp với 
chính sách tài khoá của chính 
phủ nhằm ổn định nền kinh tế vĩ 
mô vẫn chưa đảm bảo.
4.2.2 Tồn tại trong khâu đánh 
giá nợ
Cho đến nay việc phân tích về 
nợ công mà các cơ quan chính 
phủ thực hiện chủ yếu dựa vào 
căn cứ là các hệ thống chỉ số nợ 
khác nhau. Những phân tích như 
vậy mới chỉ cho phép đánh giá 
mức độ nợ nần tại một thời điểm 
nhất định (trạng thái nợ tĩnh) chứ 
chưa đưa ra được những đánh 
giá trong một khoảng thời gian 
do vậy phân tích sẽ có độ trễ nhất 
định so với thực tế. Các ngưỡng 
nợ nước ngoài của VN thường lấy 
chuẩn của IMF, WB. Tuy nhiên, 
việc áp dụng các tiêu chuẩn này 
cần phải linh hoạt ở các quốc gia 
có tình hình kinh tế chính trị xã 
hội khác nhau. Do vậy áp dụng 
ngưỡng nợ để đánh giá nợ công 
là chưa chính xác.
Mặt khác, theo nguyên tắc tính 
nợ công của Ngân hàng Thế giới 
phần nợ trong nước cần phải tính 
cả nợ phải trả những người đã và 
sẽ về hưu, điều này VN không 
hề nhắc đến. Hiện nay Nhà nước 
đang phải chi trả cho khoảng 3 
triệu người về hưu và có công 
với cách mạng ngoài ra sẽ chi trả 
trong tương lai với những người 
đang làm trong khu vực nhà nước 
khoảng 3,1 triệu người nữa. Nếu 
như lương được trả đúng mức 
chắc chắn sẽ là gánh nặng lớn cho 
nền kinh tế quốc dân. Một tồn tại 
nữa trong công tác quản lý nợ 
công VN nổi cộm trong thời gian 
gần đây chính là việc quán xuyến 
các khoản “nợ ngầm” đó là các 
khoản bảo lãnh của Chính phủ 
không được công khai như các 
khoản nợ của VINASHIN, các 
khoản nợ của các doanh nghiệp 
cả DNNN và doanh nghiệp khác 
không có chính phủ bảo lãnh qua 
nợ trái phiếu, nợ qua hệ thống 
ngân hàng mà Chính phủ không 
quán xuyến được và kết quả là 
không được phản ánh trong nợ 
công.
4.2.3. Tồn tại trong quản lý sử 
dụng nợ công
Đối với vốn trái phiếu chính 
phủ, bên cạnh những thành tựu 
đạt được, mang lại hiệu quả thiết 
thực, thì công tác phát hành, quản 
lý và sử dụng TPCP vẫn còn thiếu 
sót, bất cập, làm giảm hiệu quả, 
trong đó đáng chú ý như: Các Bộ, 
ngành và địa phương đăng kí nhu 
cầu vốn, lập kế hoạch vốn TPCP 
còn nhièu hạn chế, xét duyệt 
thiếu chặt chẽ; công tác lập, thẩm 
định, phê duyệt dự án đầu tư sử 
dụng từ vốn TPCP còn nhiều sai 
sót, xác định tổng mức đầu tư, 
tổng dự toán sơ sài, thiếu chính 
xác, khi điều chỉnh phải thực 
hiện điều chỉnh nhiều lần, với 
mức tăng cao làm vỡ kế hoạch 
vốn. Đến năm 2009, đã giải ngân 
vượt mức tổng vốn TPCP của 
cả giai đoạn 2003 – 2010 nhưng 
chỉ có hơn 50% dự án đã hoàn 
thành, nhiều công trình, dự án đã 
hoàn thành, nhiều công trình, dự 
án để hoàn thành cần số vốn tăng 
2 – 3 lần so với mức đăng ký
Thêm vào đó, tình trạng sử dụng 
vốn không đúng nội dung, mục 
đích, bố trí ngoài danh mục dự 
án; không bố trí vốn đối ứng theo 
đúng cơ cấu vốn được duyệt, còn 
trông chờ hoàn toàn ào vốn TPCP 
diễn ra ở hầu hết các bộ, ngành, 
địa phương. Tình trạng này làm 
tăng thêm nhu cầu TPCP. Bên 
cạnh đó, công tác quản lý vốn 
đầu tư xây dựng từ vốn TPCP 
còn nhiều hạn chế, sai sót ở tất cả 
các khâu, từ lập, thầm định, phê 
duyệt dự án, phân bổ vốn cho tới 
thực hiện đầu tư, quyết định kế 
hoạch đầu tư không được chuẩn 
bị trước, thiếu căn cứ khoa học, 
thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch 
phát triển kinh tế - xã hội với quy 
hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô 
Cần gia tăng dự trữ ngoại hối vì đây là 
nguyên nhân gây nên mối quan ngại về sự 
ổn định của nền kinh tế VN trong tương lai.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Nghiên Cứu & Trao Đổi
96
thị diễn ra phổ biến. việc xử lý 
liên ngành, liên vùng và việc xử 
lý các phương án, các điều kiện 
thực hiện quy hoạch chưa được 
chỉ rõ; quy hoạch về tổ chức lãnh 
thổ ở nhiều nơi còn tình trạng 
chồng chéo, thiếu ăn khớp.
Đối với vốn ODA, thẩm 
định dự án ODA còn nhiều bất 
cập, công tác lập dự án còn yếu 
VN có ít hay chưa có khả năng 
về thẩm định và đánh giá công 
trình, dự án ODA nên đầu tư 
những dự án kém hiệu quả, cộng 
với những khó khăn trong thủ tục 
hành chính dẫn đến nhiều dự án 
chậm tiến độ, đình trệ trong việc 
thực hiện. Sự yếu kém từ khâu 
lập dự án ban đầu ảnh hưởng tới 
việc triển khai dự án, chậm giải 
ngân hiệu quả đầu tư thấp. Chưa 
có sự phối hợp hiệu quả giữa các 
cấp các ngành trong quản lý dự 
án đã làm cho việc hợp tác thực 
hiện chính sách trở nên phức tạp 
và không đảm bảo tính thông 
suốt từ trung ương đến cơ sở. Đó 
là chưa kể trong quản lý mỗi địa 
phương thực hiện theo một cách 
khác nhau khi chưa có mô hình 
tài chính nào quản lý nguồn vốn 
ODA chung cho các tỉnh, thành 
phố. Mặt khác, công tác giải ngân 
vốn cho các dự án còn chậm. 
Mức giải ngân ODA của VN vẫn 
còn ở mức dưới cam kết với các 
nhà tài trợ và thấp hơn nhiều so 
với mức giải ngân trung bình của 
khu vực. Các chương trình, dự án 
đầu tư ODA quy mô lớn một khi 
kéo dài tiến độ xây dựng có tỷ lệ 
giải ngân thấp dấn đến hiệu quả 
đầu tư không đảm bảo làm một 
số nhà tài trợ đã đang có ý định 
cắt vốn tài trợ như dự án vệ sinh 
môi trường nước TP.HCM, dự án 
thoát nước và vệ sinh Hạ Long, 
Quảng Ninh.
5. Kết luận và kiến nghị
Trong giai đoạn 2006-2012 
công tác quản lý nợ công ở VN 
đã thu được những thành công 
nhất định. Cụ thể như: Văn bản 
quản lý quy định cụ thể từ đầu 
trong khâu hoạch định quản lý 
nợ; phát hành trái phiếu chính 
phủ và xây dựng thị trường trái 
phiếu chuyên biệt hiệu quả; từng 
bước hình thành thị trường trái 
phiếu chính phủ trong nước góp 
phần làm tăng tính thanh khoản 
của thị trường trái phiếu chính 
phủ và phát triển thị trường vốn 
nói chung; và cuối cùng là thực 
hiện trả nợ chính phủ trong và 
ngoài nước đầy đủ và đúng hạn. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành 
công đã đạt được thì công tác 
quản lý nợ công ở VN vẫn còn 
tồn tại một số hạn chế như khung 
thể chế luật pháp còn rườm rà 
chồng chéo; khâu đánh giá nợ có 
độ trễ nhất định so với thực tế; 
và việc quản lý sử dụng nợ công 
chưa hợp lý. 
Để tăng cường hiệu quả trong 
công tác quản lý nợ công trong 
những năm tới chúng ta cần 
thực hiện một số giải pháp như 
hoàn thiện thể chế pháp luật và 
hệ thống quản lý nợ công, hoàn 
thiện khâu đánh giá nợ công, và 
hoàn thiện quản lý sử dụng nợ 
công. Cụ thể, chúng ta cần thực 
hiện các giải pháp chính như sau. 
Thứ nhất, việc nâng cao hiệu quả 
huy động, phân bổ và sử dụng 
vốn vay cần lưu ý như việc hoàn 
thiện công tác phát hành trái 
phiếu chính phủ; quản lý ODA 
hợp lý, đảm bảo luôn linh hoạt, 
minh bạch và trách nhiệm giải 
trình cao. Thứ hai, nâng cao khả 
năng kiểm soát và đánh giá việc 
sử dụng các khoản nợ nhằm đảm 
bảo một chính sách nợ công có 
hiệu quả cao nhất. Thứ ba, tăng 
cường tuyên truyền và phổ biến 
pháp luật về quản lý nợ công 
như: công khai, minh bạch về tài 
chính; cải cách hành chính; nâng 
cao hoạt động kiểm toán và cuối 
cùng là tăng cường thanh tra, 
kiểm tra và xử lý việc thực hiện 
quản lý nợ công. Thứ tư, cần gia 
tăng dự trữ ngoại hối vì đây là 
nguyên nhân gây nên mối quan 
ngại về sự ổn định của nền kinh 
tế VN trong tương lai; phải có 
chính sách tỷ giá phù hợp vì nó 
sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình 
hình kinh tế xã hội nói chung 
cũng như tình trạng nợ công nói 
riêng; bên cạnh đó cũng cần quan 
tâm đến vấn đề kiềm chế lạm 
phát, giảm lãi suất trên thị trường 
cả lãi suất huy động và cho vay; 
cải thiện môi trường đầu tư, cũng 
như các chỉ tiêu dùng để đánh 
giá tín nhiệm như nhóm chỉ tiêu 
đánh giá rủi ro chính trị l 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Das, U. S., M. Papapioannou, G. Pedras, F. 
Ahmaed and J. Surti (2010), Managing 
Public Debt and Its Financial Stability 
Implications, IMF Working Papers, 
WP/10/280.
Dương Thị Bình Minh và Sử Đình Thành 
(2008), “Phương pháp tiếp cận đánh giá 
hiệu quả quản lý nợ công”, Tạp chí Phát 
triển kinh tế, số 9.
Faini, R. (2006), “Fiscal Policy and Interest 
Rates in Europe”, Economic Policy 21, 
443-489.
Hoàng Sơn (2011), Lạm bàn về vấn đề nợ 
công của VN, Kỳ 3: Giải pháp nào cho 
quản lý nợ công hiện nay, Viettinhanh.
net.
Trần Văn Giao (2011), “Nợ công của VN: 
Thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí 
Kinh tế và dự báo số 2/2011. (Số 14).

File đính kèm:

  • pdfquan_ly_no_cong_o_viet_nam_tu_nam_2006_den_nay.pdf