Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam

Hoạt động quản lý nhà nước ở xã Trà

Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam

những năm qua đã đạt một số thành tựu nhất

định như: đã xây dựng được nhà nội trú cho

trường Tiểu học xã Trà Tập góp phần ổn

định nơi ăn ở cho học sinh; tổ chức đợt tập

huấn cho các cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã

cách sử dụng phần mềm quản lý hộ tịch để

hỗ trợ trong việc cập nhật, sửa đổi, trích xuất

tất cả thông tin về hộ tịch, hộ khẩu của mọi

người dân trong phạm vi quản lý của địa

phương; công tác tổ chức, xây dựng Đảng

được chú trọng với việc quy hoạch cán bộ, rà

soát, sắp xếp tổ chức bộ máy; các cán bộ xã

được bồi dưỡng chính trị, tổ chức lớp tập

huấn nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo.

Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại một số1

bất cập như công tác tuyên truyền, phổ biến

chủ trương của Đảng và các chính sách pháp

luật nhà nước gặp không ít khó khăn ở những

địa phương vùng sâu, vùng xa; công tác thực

hiện các hệ thống chính sách hiện nay còn

dàn trải và chồng chéo; việc kiểm tra, đôn

đốc công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo chưa được thường xuyên, dẫn

đến hiệu quả chưa cao Vì vậy cần có

những giải pháp để hoàn thiện công tác này

trong thời gian đến.

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 1

Trang 1

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 2

Trang 2

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 3

Trang 3

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 4

Trang 4

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 5

Trang 5

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 6

Trang 6

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 4960
Bạn đang xem tài liệu "Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc: Từ thực tiễn xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
28 
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC: TỪ THỰC TIỄN 
XÃ TRÀ TẬP, HUYỆN NAM TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM 
STATE MANAGEMENT OF ETHNIC MINORITIES AFFAIRS: FROM THE PRATICE OF 
TRA TAP COMMUNE, NAM TRA MY DISTRICT, QUANG NAM PROVINCE 
Ngày nhận bài: 27/07/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 31/08/2020 
Trương Thị Thu Hiền, Lê Thị Xuân, Phạm Thị Lan Phương, Hà Hồng Dương 
TÓM TẮT 
Ở Việt Nam, chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc được xem nhiệm vụ của toàn 
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Vì tầm quan 
trọng đó, quản lý nhà nước về dân tộc đã, đang và sẽ là một trong những lĩnh vực được các nhà 
nghiên cứu rất quan tâm. Nghiên cứu này nhằm làm giàu hơn và bổ sung thêm cho các kết quả 
nghiên cứu đã có về lĩnh vực này bằng việc cụ thể hóa vào điều kiện của xã Trà Tập- một xã miền 
núi còn nhiều khó khăn của huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam và gắn chặt với ba nội dung cơ 
bản nhất của công tác quản lý nhà nước về dân tộc tại chính quyền địa phương cấp xã. 
Từ khóa: Quản lý nhà nước; công tác dân tộc; chính sách dân tộc; tuyên truyền; khiếu nại. 
ABSTRACT 
In Vietnam, the ethnic policy and the implementation of the ethnic policies are considered the tasks 
of the entire Party, the entire people, the entire army, of all levels, branches, of the entire political 
system. Because of that importance, the state management of ethnic affairs were, are and will be 
one of the areas that researchers are very interested in. This study aims to enrich and supplement 
the existing research results in this area by concretizing the conditions of Tra Tap commune- a 
difficult mountainous commune of Nam Tra My district, Quang Nam province and attaches closely 
to the three most basic contents of the state management of ethnic affairs at the commune level. 
Keywords: State management; ethnic affairs; ethnic policy; propaganda; complain. 
1. Giới thiệu 
Hoạt động quản lý nhà nước ở xã Trà 
Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam 
những năm qua đã đạt một số thành tựu nhất 
định như: đã xây dựng được nhà nội trú cho 
trường Tiểu học xã Trà Tập góp phần ổn 
định nơi ăn ở cho học sinh; tổ chức đợt tập 
huấn cho các cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã 
cách sử dụng phần mềm quản lý hộ tịch để 
hỗ trợ trong việc cập nhật, sửa đổi, trích xuất 
tất cả thông tin về hộ tịch, hộ khẩu của mọi 
người dân trong phạm vi quản lý của địa 
phương; công tác tổ chức, xây dựng Đảng 
được chú trọng với việc quy hoạch cán bộ, rà 
soát, sắp xếp tổ chức bộ máy; các cán bộ xã 
được bồi dưỡng chính trị, tổ chức lớp tập 
huấn nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết 
khiếu nại, tố cáo. 
Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại một số1 
bất cập như công tác tuyên truyền, phổ biến 
chủ trương của Đảng và các chính sách pháp 
luật nhà nước gặp không ít khó khăn ở những 
địa phương vùng sâu, vùng xa; công tác thực 
hiện các hệ thống chính sách hiện nay còn 
dàn trải và chồng chéo; việc kiểm tra, đôn 
đốc công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu 
nại, tố cáo chưa được thường xuyên,dẫn 
đến hiệu quả chưa cao Vì vậy cần có 
những giải pháp để hoàn thiện công tác này 
trong thời gian đến. 
Trương Thị Thu Hiền, Lê Thị Xuân, Phạm Thị 
Lan Phương, Hà Hồng Dương, Trường Đại học 
Kinh tế - Đại học Đà Nẵng. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
29 
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp 
nghiên cứu 
2.1. Cơ sở lý thuyết 
2.1.1. Lý thuyết 1.1: Khái niệm dân tộc 
Dân tộc là một khái niệm được hiểu theo 
nhiều nghĩa, trong đó có hai nghĩa chính: 
nghĩa rộng và nghĩa hẹp (nghĩa khoa học, 
hiện đại). Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái 
niệm dùng để chỉ hầu như tất cả các hình 
thức cộng đồng người trong lịch sử như bộ 
lạc, bộ tộc (tộc người). Theo nghĩa khoa 
học, hiện đại (nghĩa quốc gia dân tộc), dân 
tộc là khái niệm dùng để chỉ hình thức cộng 
đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, 
có những đặc trưng phân biệt với những hình 
thức cộng đồng người trước đó như bộ tộc, 
bộ lạc [1, tr. 453]. Nghiên cứu này, nhóm 
nghiên cứu tiếp cận quan niệm dân tộc theo 
nghĩa rộng (tộc người). 
2.1.2. Lý thuyết 1.2: Quan niệm quản lý nhà 
nước về dân tộc 
Quản lý nhà nước về dân tộc là một phần 
quan trọng của quản lý nhà nước, đó là “hoạt 
động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc 
nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào 
các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo 
sự tôn trọng , đảm bảo quyền lợi và lợi ích 
hợp pháp của công dân” (Khoản 1, Điều 4, 
Nghị định Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 
14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về 
công tác dân tộc) 
2.1.3. Lý thuyết 1.3: Nội dung cơ bản của 
quản lý nhà nước về công tác dân tộc 
Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về 
dân tộc bao gồm 11 nội dung (Điều 21, Nghị 
định Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 
tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công 
tác dân tộc). Trong nghiên cứu này, để gắn 
với đặc thù từ thực tiễn xã Trà Tập, nhóm tập 
trung làm rõ ba nội dung cơ b ... 
(iii) Công tác y tế còn nhiều thiếu thốn về 
nhiều mặt. Cơ sở y tế ở đây tồn tại các thực 
trạng: không có bác sĩ, trang thiết bị y tế thô 
sơ, đội ngũ y tế yếu về năng lực chuyên môn, 
cộng tác viên y tế, dân số thôn, bản thì hoạt 
động kém hiệu quả vì thiếu kiến thức, chính 
sách hỗ trợ hoạt động quá hạn hẹp. Với trên 
90% người dân là đồng bào dân tộc thiểu số, 
tỉ lệ hộ đói nghèo chiếm đến phần lớn, địa 
hình phức tạp, dân cư phân bố theo thôn, nóc 
rộng khắp, có nơi đi đến trung tâm y tế huyện 
phải mất cả ngày đường, vì vậy, hoạt động y 
tế cơ sở và hưởng lợi từ y tế của người dân 
địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Trang 
thiết bị thông thường và thuốc thiết yếu vẫn 
còn thiếu như: thiết bị cân sơ sinh, thiết bị 
khử trùng, dụng cụ khám thai thuốc chống 
sốc dị ứng; thuốc chống co thắt phế quản, 
chống động kinh Cán bộ y tế thôn, bản 
đảm bảo số lượng hoạt động nhưng trình độ 
còn rất nhiều hạn chế. Tỉ lệ bao phủ bảo 
hiểm y tế cao tuy nhiên tỉ lệ khám, chữa bệnh 
còn thấp gây ra hạn chế trong việc cải thiện 
chất lượng y tế địa phương. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
31 
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến 
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật 
của Nhà nước về công tác dân tộc còn gặp 
nhiều khó khăn. Ở những thôn, bản vùng đặc 
biệt khó khăn, công tác tuyên truyền, phổ 
biến chủ trương của Đảng và các chính sách 
pháp luật nhà nước gặp không ít khó khăn 
bởi nhiều lý do như đường giao thông cách 
trở; điện lưới, sóng điện thoại chưa có; nhiều 
nơi được đầu tư loa phát, đầu thu nhưng hỏng 
nên việc tiếp cận thông tin của người dân còn 
hạn chế. Vì thế, việc đưa các chủ trương, 
chính sách đến với người dân còn hạn chế, 
việc nắm bắt được các thông tin chưa nhiều. 
Đội ngũ tuyên truyền viên hay thay đổi, 
trong khi ít được tập huấn về kỹ năng tuyên 
truyền. Việc biên soạn tài liệu tuyên truyền phổ 
biến giáo dục pháp luật cũng như chế độ cho 
các tuyên truyền viên không thực hiện được. 
Ba là, công tác kiểm tra, thanh tra chưa 
hoạt động thực sự hiệu quả. Việc kiểm tra, 
đôn đốc công tác tiếp công dân, giải quyết 
khiếu nại, tố cáo chưa được thường xuyên; 
vẫn còn đơn thư khiếu nại vượt cấp lên cấp 
trên. Ở một số nơi, công tác tuyên truyền phổ 
biến giáo dục pháp luật về thanh tra, tiếp dân, 
khiếu nại, tố cáo còn hạn chế, chưa thường 
xuyên và sâu rộng đến cơ sở. 
Việc thực hiện kế hoạch thanh tra còn 
chậm, có cuộc thanh tra còn kéo dài so với 
thời gian quy định. Đặc biệt, một số kết luận 
thanh tra phát hiện sai phạm về kinh tế có giá 
trị lớn nhưng kết quả xử lý kỷ luật đối với tập 
thể và cá nhân có liên quan đến sai phạm thì 
không nhiều, đồng thời chưa nêu đích danh 
tập thể, cá nhân phải được xem xét xử lý do 
có liên quan đến những sai phạm. 
Về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại 
và tố cáo, chính quyền vẫn thực hiện chưa 
đầy đủ. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ, công 
chức làm công tác tiếp công dân, xử lý, tham 
mưu giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tại 
một số đơn vị, địa phương chưa được quan 
tâm, chưa được bồi dưỡng về nghiệp vụ tiếp 
công dân làm ảnh hưởng đến chất lượng, 
hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết 
khiếu nại, tố cáo của công dân; chất lượng 
giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn những 
hạn chế nhất định. 
3.1.2. Một số giải pháp 
Để giải quyết những bất cập nêu trên, góp 
phần hoàn thiện công tác quản lý nhà nước 
về dân tộc trên địa bàn xã Trà Tập, chính 
quyền địa phương xã Trà Tập cần nghiên 
cứu, tổ chức thực hiện đồng bộ nhiều giải 
pháp. Cụ thể: 
Giải pháp thứ nhất: Về công tác tổ chức 
thực hiện chính sách dân tộc: 
Một là, khắc phục tình trạng tảo hôn, 
hứa hôn và hôn nhân cận huyết thống. Cần 
tăng cường giáo dục ở trường, tổ chức các 
hoạt động ngoại khóa, trò chơi để cung cấp 
kiến thức về hậu quả nghiêm trọng của tảo 
hôn, hôn nhân cận huyết thống. Đẩy mạnh 
giáo dục giới tính trong trường học, phát 
huy vai trò của Đoàn Thanh niên trong các 
hoạt động ngoài giờ cho các em học sinh. 
Công tác truyền thông về vấn đề này cần nỗ 
lực nhiều hơn nữa, cần đa dạng về hình thức 
và nội dung. 
Cần chỉ đạo làm sao để đưa tiêu chí 
không tảo hôn, hứa hôn, hôn nhân cận huyết 
thống vào quy định hương ước các dòng họ 
và quy ước thôn bản. Ngành y tế,dân số, kế 
hoạch hóa gia đình cần tích cực can thiệp, 
lồng ghép các hoạt động truyền thông về 
phòng chống tình trạng này và thực hiện 
chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa 
gia đình, góp phần tích cực vào xây dựng 
đời sống văn hóa, cải thiện chất lượng và 
điều kiện sống ở Trà Tập. Trong quản lý nhà 
nước cần đặc biệt chú trọng việc thực thi 
nghiêm minh theo pháp luật của các cấp 
chính quyền, cơ quan, phải khắc phục tình 
trạng né tránh,bao che hoặc thiếu gương mẫu 
trong bộ phận cán bộ, Đảng viên. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
32 
Chính quyền cần phối hợp với ban quản 
lý về dân số để nắm bắt về thông tin các hộ 
gia đình trong xã có con em đang đến độ tuổi 
dễ tảo hôn nhằm chú ý, ngăn chặn kịp thời 
các trường hợp tảo hôn xảy ra và chú trọng 
tuyên truyền đến những hộ gia đình đó. Nếu 
nghe tin về việc con cái ở các hộ gia đình sắp 
tảo hôn thì cần cử cán bộ đến tận nhà và tích 
cực tuyên truyền, thuyết phục gia đình để họ 
hiểu rõ về những hậu quả của tảo hôn, hôn 
nhân cận huyết thống. 
Hai là, quan tâm hơn đến công tác tổ 
chức thực hiện chính sách giáo dục. Chính 
quyền cần quan tâm đến việc đào tạo nghề 
đối với học sinh tốt nghiệp trung học phổ 
thông trung học cơ sở và trung học phổ thông 
là vấn đề cốt lõi trong công tác phát triển 
giáo dục ở đồng bào vùng dân tôc thiểu số 
hiện nay. Trong đào tạo giảng dạy, giáo viên 
không chỉ nói lí thuyết, cần kết hợp thực 
hành phù hợp. Nhà trường nên yêu cầu cần 
có hoạt động ngoại khóa thường xuyên hơn. 
Trang bị tài liệu học tập, nhân rộng mô 
hình song ngữ. Đồng thời đào tạo giáo viên 
biết cả tiếng dân tộc để tích cực hỗ trợ các 
em trong phát triển ngôn ngữ. Ưu tiên đào 
tạo giáo viên người dân tộc để họ hiểu được 
tâm lí và có thể giao lưu tốt với các em. Chú 
trọng đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới 
kiểm tra, đánh giá để nâng cao chất lượng 
dạy học. Thường xuyên tổ chức các hoạt 
động cho giáo viên nhằm nâng cao năng lực, 
bồi dưỡng tinh thần dạy học và tinh thần yêu 
thương, giúp đỡ các em đồng bào dân tộc 
thiểu số. 
Về phía phụ huynh, chính quyền nên tăng 
cường vận động để họ có nhận thức đúng 
đắn, chuẩn bị tâm lí tốt cho con đi học vì học 
sinh miền núi thường có tâm lí nhút nhát, hay 
sợ hãi, ngại giao tiếp. Chính quyền xã nên bổ 
sung thêm chỉ tiêu các hộ gia đình có tất cả 
con em được đi học vào chỉ tiêu xét cấp hộ 
nghèo, cận nghèo hoặc được hỗ trợ để người 
dân ưu tiên cho con em đi học với phương 
châm “có học mới thoát được nghèo”. 
Khai thác toàn bộ chế độ ưu đãi cho giáo 
viên, có chế độ thưởng cho giáo viên khi 
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dạy học và 
nhiệm vụ tuyên truyền, truyền cảm hứng cho 
học sinh vùng thiểu số. Thường xuyên quan 
tâm, động viên giáo viên tận tâm với nghề. 
Trang bị cơ sở vật chất còn khó khăn nhưng 
quan trọng là có tinh thần dạy và học tốt. 
Tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng 
giáo dục và chất lượng phòng học, trường 
học; giám sát việc đầu tư cơ sở vật chất cho 
trường học trên địa bàn xã. 
Ba là, quan tâm hơn đến công tác tổ chức 
thực hiện chính sách y tế. Tình trạng không 
có bác sĩ, trang thiết bị y tế thô sơ, đội ngũ y 
tế yếu năng lực chuyên môn, hoạt động kém 
hiệu quả vì thiếu kiến thức, chính sách hỗ trợ 
hoạt động quá hạn hẹp phổ biến ở các vùng 
dân tộc miền núi. Các cấp chính quyền cần 
triển khai, thực hiện nhiều chính sách nhằm 
thu hút nguồn nhân lực cho ngành y tế, chú 
trọng đảm bảo nguồn lực tại chỗ. Việc này 
cần yêu cầu lên tỉnh ưu tiên phân công bác sĩ 
công tác tại địa phương, phân công nguồn 
lực hợp lý. Cần có chế độ thích hợp cho 
những bác sĩ, y tá hoạt động tốt ở các vùng 
khó khăn như xã Trà Tập. 
Quan tâm đến công tác đào tạo, tự đào 
tạo và cho bác sĩ, y tá đi học, bồi dưỡng để 
nâng cao năng lực chuyên môn; liên kết, hỗ 
trợ, hợp tác với các xã lân cận và bệnh viện 
huyện, tỉnh để hoạt động hiệu quả hơn. Vì 
địa hình phức tạp, dân cư phân bố theo 
thôn, nóc rộng khắp, đi đến trung tâm y tế 
xa nên các tổ chức y tế cần thường xuyên 
tổ chức các hoạt động khám bệnh lưu động 
đến từng nơi sâu, xa để kịp thời phát hiện 
bệnh và phổ biến cho nhân dân hiểu rõ về 
các nguồn bệnh. Kiểm tra cơ sở vật chất 
của cơ sở y tế xã nhằm kịp thời bổ sung 
thuốc thang đầy đủ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
33 
Công tác tuyên truyền cần đẩy mạnh, sử 
dụng các loa phát thanh của xã để phổ biến 
về các đợt dịch bệnh có nguy cơ gặp phải 
theo từng mùa, đồng thời chỉ ra nguyên nhân 
và nêu giải pháp khắc phục, làm cho người 
dân hiểu rõ “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, 
nếu có bệnh cần nhanh chóng đến cơ sở y tế 
để phát hiện và thăm khám kịp thời. 
Giải pháp thứ hai: Về công tác tuyên 
truyền, phổ biến chính sách pháp luật: Chú 
trọng đầu tư đảm bảo cơ sở vật chất cho việc 
tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật. 
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, phổ biến 
chính sách pháp luật vướng phải khó khăn 
khi số người dân nắm được thông tin chưa 
nhiều, người dân thường chỉ quan tâm tới 
pháp luật khi bản thân họ rơi vào tình thế 
dính líu tới pháp luật. Đo lường, kiểm tra 
mức độ nhận thức của người dân về pháp luật 
ra sao để truyền tải thông tin phù hợp đến với 
họ không thiếu và cũng không bị quá tải. 
Sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền 
phong phú, sát thực tế, sử dụng kết hợp ngôn 
ngữ địa phương, bám địa bàn, bám dân, bám 
đối tượng; đồng thời cùng ăn ở, sinh hoạt, 
cùng nói tiếng địa phương để hiểu rõ nhu cầu 
nhằm thực hiện công tác tuyên truyền, phổ 
biến pháp luật tốt hơn. Về nội dung tuyên 
truyền cần phù hợp với trình độ nhận thức 
của người dân, tuyên truyền phù hợp với 
đúng lứa tuổi, tình hình cụ thể, từng đối 
tượng đặc thù, đối tượng dễ vi phạm pháp 
luật. Tập trung phổ biến pháp luật về dân tộc, 
tôn giáo, an ninh chính trị, hôn nhân, gia 
đình, kinh tế, xã hội,.. 
Nâng cao năng lực của đội ngũ tuyên 
truyền viên xã, đào tạo đội hình tuyên truyền, 
phổ biến pháp luật năng động, nhiệt huyết, 
sáng tạo, tuyên truyền viên biết tiếng dân tộc, 
đội ngũ tuyên truyền viên phải được tập huấn 
về kĩ năng tuyên truyền. Trước khi đi tuyên 
truyền cho người dân thì cần phải biên soạn 
tài liệu phù hợp, đo lường trước những rủi ro 
gặp phải và tìm cách xử lí trước. Tăng cường 
tần suất tuyên truyền, phổ biến chính sách 
pháp luật cho người dân, tổ chức một số hoạt 
động hoặc cuộc thi tìm hiểu về pháp luật cho 
đồng bào dân tộc. 
Giải pháp thứ ba: Về công tác kiểm tra 
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về 
công tác dân tộc: Xây dựng tổ chức và đội 
ngũ cán bộ tăng cường cho lực lượng thanh 
tra hành chính với những cán bộ có đủ phẩm 
chất và năng lực, trình độ công tác. Bên cạnh 
đó cần phải theo dõi, kiểm tra việc thực hiện 
kế hoạch thanh tra của xã có đúng tiến độ, 
quy trình hay không để kịp thời có những 
hướng dẫn, chỉ đạo những vấn đề vướng mắc 
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của công 
tác thanh tra, kiểm tra của địa phương. 
Củng cố tổ chức, lực lượng làm công tác 
thanh tra, phát triển hệ thống lý luận nghiệp 
vụ. Đổi mới phương pháp, hình thức thanh 
tra, kiểm tra phù hợp theo tình hình từng năm 
của địa phương. Kiên quyết đấu tranh, xử lý 
các hành vi vi phạm pháp luật, thoái hóa về 
phẩm chất đạo đức. Yêu cầu đội ngũ thanh 
tra, kiểm tra phải có phẩm chất đạo đức, trình 
độ chính trị, pháp luật, nghiệp vụ chuyên 
ngành, đồng thời phải nhạy bén về kinh tế, 
văn hóa, đặc biệt phải am hiểu sâu sắc về 
lĩnh vực an ninh trật tự và có kinh nghiệm 
giải quyết tốt các mối quan hệ phát sinh 
trong quá trình tiến hành thanh tra. 
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác 
tiếp dân về kĩ năng xử lí và giao tiếp thấu 
tình đạt lý với người dân, trân trọng lắng 
nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân. Trân 
trọng và bảo vệ người khiếu nại, tố cáo có 
tâm huyết, trách nhiệm đã dũng cảm phản 
ánh với chính quyền những khuyết điểm, 
sai phạm của cơ quan, cán bộ, đảng viên, 
công chức, viên chức. Thực hiện công khai, 
minh bạch về xử lí các đơn từ của nhân 
dân, mở rộng kênh tiếp nhận thông tin kiến 
nghị, phản ánh như đặt các hộp thư kín, 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
34 
để phát huy tối đa việc tiếp nhận và giải 
quyết khiếu nại, tố cáo. 
3.2. Đánh giá 
Nghiên cứu này có những đóng góp nhất 
định về mặt thực tiễn so với các nghiên cứu 
cùng lĩnh vực trước đây khi tập trung vào ba 
nội dung quan trọng nhất của công tác quản 
lý nhà nước về dân tộc của một chính quyền 
địa phương cấp xã gồm: (1) công tác tổ chức 
thực hiện chính sách dân tộc; (2) công tác 
tuyên truyền phổ biến chủ trương của Đảng, 
chính sách pháp luật của nhà nước về công 
tác dân tộc và (3) công tác kiểm tra, thanh 
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác 
dân tộc theo thẩm quyền. 
Thông qua việc nghiên cứu gắn với thực 
tiễn tại một chính quyền địa phương cấp xã 
cụ thể, nghiên cứu đã chỉ ra sự dàn trải và 
chồng chéo trong công tác tổ chức thực hiện 
chính sách dân tộc; những khó khăn trong 
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách 
pháp luật đến người dân địa phương và sự 
chưa hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm 
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm 
quyền. Trên cơ sở đó, ba nhóm giải pháp đã 
được chỉ ra nhằm tăng cường công tác quản 
lý nhà nước về dân tộc tại xã Trà Tập. 
4. Kết luận 
Trên cơ sở hệ thống lý thuyết về công tác 
dân tộc, quản lý nhà nước về dân tộc, cùng 
những thông tin sơ cấp, thứ cấp thu thập 
được giai đoạn 2015-2019 về thực trạng công 
tác quản lý nhà nước về dân tộc tại xã Trà 
Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, 
nghiên cứu đã chỉ ra những bất cập và đề 
xuất những giải pháp hoàn thiện công tác này 
đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Từ thực tiễn 
tại xã Trà Tập, kết quả nghiên cứu sẽ góp 
phần mang lại những ý nghĩa nhất định đóng 
góp vào mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả 
công tác quản lý nhà nước về dân tộc nói 
riêng, công tác quản lý nhà nước nói chung, 
xa hơn, góp phần cải thiện hơn nữa đời sống 
đồng bào các dân tộc Việt Nam tại xã Trà 
Tập và phát triển kinh tế huyện miền núi 
Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên 
cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội. 
Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc. 
Lê Văn Lợi (2019), Giải quyết những vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp 
chí Tổ chức nhà nước. 
Thành tựu về công tác dân tộc của Quảng Nam sau 20 năm tái lập tỉnh 
ve-cong-tac-dan-toc-cua-quang-nam-sau-2-nam-tai-lap-tinh 
Quảng Nam, vấn nạn tảo hôn ở những huyện miền núi, 

File đính kèm:

  • pdfquan_ly_nha_nuoc_ve_cong_tac_dan_toc_tu_thuc_tien_xa_tra_tap.pdf