Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

Cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng cuả chiến lược

phát triển kinh tế giai đoạn 2020-2030. Trong vòng ba năm trở lại đây, để đẩy nhanh tiến trình cổ

phần hoá và thoái vốn nhà nước, Chính phủ đã và đang hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt

động này. Một trong những điểm mới nổi bật là những quy định về việc áp dụng phương thức

dựng sổ khi chào bán cổ phần Nhà nước trong cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước năm 2018. Dựng

sổ là một cơ chế xác định giá chứng khoán hiệu quả trên thị trường sơ cấp và được khuyến nghị

áp dụng tại hầu hết các thị trường. Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, thống kê của Sở Giao Dịch

chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy trong vòng bốn tháng sau khi văn bản hướng dẫn áp dụng

phương thức dựng sổ trong chào bán cổ phần nhà nước được ban hành, 17 thông báo chào bán

cổ phần lần đầu hoặc thoái vốn nhà nước đều thực hiện dưới hình thức đấu giá theo lô hoặc chào

bán cạnh tranh. Điều này cho thấy, đấu giá cổ phần hoặc ấn định giá cố định là những phương

thức chào bán cổ phần phổ biến tại Việt Nam. Đồng thời, áp dụng PTDS trong thực tiễn đòi hỏi sự

điều chỉnh nhất định so với lý thuyết. Bài viết này làm rõ những ưu và nhược điểm của PTDS so với

hai phương thức chào bán cổ phần còn lại, kinh nghiệm áp dụng PTDS tại một số quốc gia và đưa

ra một số kiến nghị về việc áp dụng PTDS vào cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước tại Việt Nam. Với

kỳ vọng PTDS sẽ tạo ra một cơ chế xác định giá minh bạch, hiệu quả, nâng cao khả năng thành

công của thương vụ chào bán cổ phần nhà nước, bài viết chỉ ra những điểm cần làm rõ hoặc điều

chỉnh trong những quy định hiện hành về PTDS của Chính phủ, bao gồm (i) giá khởi điểm và biên

độ giá; (ii) thời gian công bố thông tin và mở sổ lệnh; (iii) mục tiêu của đợt chào bán; (iv) huỷ kết

quả dựng sổ; (v) lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành.

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 10680
Bạn đang xem tài liệu "Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):777-785
Open Access Full Text Article Bài Tổng quan
Học viện Tài chính Hà Nội, Việt Nam
Liên hệ
Trần Thanh Thu, Học viện Tài chính Hà Nội,
Việt Nam
Email: tranthanhthu308@gmail.com
Lịch sử
 Ngày nhận: 13/09/2019
 Ngày chấp nhận: 20/11/2019
 Ngày đăng: 07/7/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i3.634
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Trần Thanh Thu*, Đào Hồng Nhung
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng cuả chiến lược
phát triển kinh tế giai đoạn 2020-2030. Trong vòng ba năm trở lại đây, để đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hoá và thoái vốn nhà nước, Chính phủ đã và đang hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt
động này. Một trong những điểm mới nổi bật là những quy định về việc áp dụng phương thức
dựng sổ khi chào bán cổ phầnNhà nước trong cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước năm2018. Dựng
sổ là một cơ chế xác định giá chứng khoán hiệu quả trên thị trường sơ cấp và được khuyến nghị
áp dụng tại hầu hết các thị trường. Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, thống kê của Sở Giao Dịch
chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy trong vòng bốn tháng sau khi văn bản hướng dẫn áp dụng
phương thức dựng sổ trong chào bán cổ phần nhà nước được ban hành, 17 thông báo chào bán
cổ phần lần đầu hoặc thoái vốn nhà nước đều thực hiện dưới hình thức đấu giá theo lô hoặc chào
bán cạnh tranh. Điều này cho thấy, đấu giá cổ phần hoặc ấn định giá cố định là những phương
thức chào bán cổ phần phổ biến tại Việt Nam. Đồng thời, áp dụng PTDS trong thực tiễn đòi hỏi sự
điều chỉnh nhất định so với lý thuyết. Bài viết này làm rõ những ưu và nhược điểm của PTDS so với
hai phương thức chào bán cổ phần còn lại, kinh nghiệm áp dụng PTDS tại một số quốc gia và đưa
ra một số kiến nghị về việc áp dụng PTDS vào cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước tại Việt Nam. Với
kỳ vọng PTDS sẽ tạo ra một cơ chế xác định giá minh bạch, hiệu quả, nâng cao khả năng thành
công của thương vụ chào bán cổ phần nhà nước, bài viết chỉ ra những điểm cần làm rõ hoặc điều
chỉnh trong những quy định hiện hành về PTDS của Chính phủ, bao gồm (i) giá khởi điểm và biên
độ giá; (ii) thời gian công bố thông tin và mở sổ lệnh; (iii) mục tiêu của đợt chào bán; (iv) huỷ kết
quả dựng sổ; (v) lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành.
Từ khoá: Cổ phần hoá, Doanh nghiệp nhà nước, Phương thức dựng sổ, Đấu giá cổ phần, Việt Nam
GIỚI THIỆU VẤNĐỀ NGHIÊN CỨU
Theo Ritter & Welch khi chào bán cổ phiếu lần đầu
ra công chúng, có ba phương pháp xác định giá là
đấu giá, chào bán với mức giá cố định, và phương
thức dựng sổ1. Trước năm 1990, phương pháp giá
cố định được sử dụng phổ biến tại các quốc gia ngoài
Mỹ. Tuy nhiên, trong vòng hai thập kỷ gần đây, PTDS
đang dần trở nên phổ biến. Sự phổ biến của PTDS so
với hai phương thức định giá IPO còn lại xuất phát
từ nhiều lý do song quan trọng nhất vẫn là tính chính
xác trong xác định giá cổ phần và lợi ích dài hạnmang
lại cho công ty chào bán. Tuy nhiên, phương thức
dựng sổ cũng chứa đựng những hạn chế nhất định
như tình trạng hạ giá cổ phần hay hành vi trục lợi của
tổ chức bảo lãnh phát hành, đặc biệt trong điều kiện
thị trường chứng khoán chưa phát triển.
Sherman & Jagannathan tiến hành cuộc điều tra toàn
cầu về xu hướng sử dụng các phương pháp định giá
khi IPO và chỉ ra rằng 20/45 quốc gia trong mẫu sử
dụng đấu giá IPO 2. Ngoại trừ Pháp, Israel, Đài Loan,
và Mỹ, đấu giá IPO bị cấm hoàn toàn ở các quốc gia
trong mẫu. Tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương,
theo Jagannathan, Jirnyi, Sherman, Úc là quốc gia đầu
tiên áp dụng PTDS vào năm 1993, tiếp đó là Hong
Kong và Thái Lan năm 1994, Nhật Bản, Hàn Quốc,
New Zealand năm 1997. Trong khu vực ASEAN, tính
đến năm 2012, chỉ có duy nhất Việt Nam là chưa áp
dụng PTDS khi IPO3.
Phương thức dựng sổ chính thức được luật hoá và có
hiệu lực ở Việt Nam ngày 01/01/2018 sau khi Chính
phủ ban hành nghị định 126/2017/NĐ-CP về chuyển
doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ thành công ty cổ phần. Hướng dẫn chi tiết về
PTDS được quy định trongThông tư số 21/2019/TT-
BTC ban hành ngày 11/04/2019. Như vậy, việc áp
dụng PTDS tại Việt Nam gắn liền với hoạt động cổ
phần hoá và thoái vốn nhà nước. Sau quyết định số
58/2016/QĐ-TTg củaThủ tướng chính phủ ban hành
danh mục doanh nghiệp phải thoái vốn nhà nước
tính đến 2020, hoạt động cổ phần hoá và thoái vốn
nhà nước tại Việt Nam thực sự có bước chuyển mình.
Trích dẫn bài báo này: Thu T T, Nhung D H. Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ
phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam . Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.;
4(3):777-7 ... nước theo phương thức dựng sổ” đã
đưa ra những hướng dẫn chi tiết về phương thức này.
Việc giới thiệu về PTDS có ý nghĩa lớn đối với tiến
trình cổ phần hoá DNNN và thoái vốn nhà nước tại
Việt Nam bởi những lý do sau:
Thứ nhất, thông qua việc giới thiệu PTDS, kết hợp
quan điểm của doanh nghiệp phát hành, tổ chức bảo
lãnh phát hành, và nhà đầu tư, mức giá IPO trở nên
khách quan và chính xác hơn. Việc công bố thông tin
doanh nghiệp rộng rãi và tuân thủ quy trình dựng sổ
rõ ràng tạo môi trường đầu tư minh bạch và hiệu quả
trong dài hạn bởi cả tổ chức bảo lãnh phát hành và
nhà đầu tư đều chịu sự giám sát của thị trường.
Thứhai, PTDS cung cấp cho nhà đầu tư tổ chức nhiều
sức mạnh hơn trong việc định giá IPO, khuyến khích
sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược vào thương vụ
chào bán cổ phần.
Thứ ba, áp dụng PTDS tuân theo một quy trình dựng
sổ chuyên nghiệp đòi hỏi sự chuyên nghiệp của nhà
bảo lãnh phát hành từ quản trị nội bộ, nguồn khách
hàng, kênh phân phối và năng lựcmarketing trong dài
hạn. Đây chính là những yếu tố then chốt giúp tăng
cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức bảo lãnh
phát hành tại Việt Nam, đưa thị trường chứng khoán
trở thành kênh huy động vốn hiệu quả của doanh
nghiệp.
Những kỳ vọng về tác động tích cực của PTDS đối
với sự thành công của các đợt chào bán cổ phần
lần đầu khi CPH các DNNN tại Việt Nam là hoàn
toàn phù hợp về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, do
Thông tư 21/2019/TT-BTC chính thức có hiệu lực từ
03/06/2019, chưa có đủ số liệu cụ thể để đánh giá
chính xác tác động của PTDS. Những kiến nghị sau
đây của nhóm tác giả dựa trên sự kết hợp những kinh
nghiệm quốc tế với các quy định về PTDS hiện hành
của Việt Nam. Với những điều kiện (i) thị trường vốn
chủ sở hữu chưa phát triển, vốn vay chiếm 70% thị
trường vốn; (ii) rủi ro vĩ mô cao và tính thanh khoản
của thị trường thấp; (iii) tính minh bạch và tuân thủ
của các công ty thấp; (iv) sự can thiệp của Nhà nước
vào thị trường cao; (v) quy mô thị trường nhỏ, áp
dụng PTDS trong chào bán cổ phần lần đầu khi CPH
cácDNNN cần có những điều chỉnh nhất định vềmặt
chính sách, cụ thể là:
Thứ nhất, những quy định hiện hành về PTDS khi
chào bán cổ phần lần đầu chưa có những hướng dẫn
782
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):777-785
chi tiết về mức giá khởi điểm, giá mở sổ, biên độ giá
và giá phân phối. Một trong những khó khăn lớn nhất
của các DNNN khi xây dựng phương án cổ phần hoá
là xác định giá trị doanh nghiệp và định giá bán khởi
điểm cổ phần. Với nguyên tắc bảo toàn vốn nhà nước,
giá trị doanh nghiệp phải được xác định đầy đủ và
chính xác trên cơ sở kết hợp các phương pháp định
giá khác nhau với sự tham gia của các tổ chức định
giá chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định giá khởi
điểm từ góc nhìn của DNNN và các tổ chức định giá
có thể sai khác với đánh giá từ phía thị trường. Đồng
thời, việc quy định biên độ giá dựng sổ không quá
20% giá khởi điểm tạo ra giới hạn trên về giá dựng sổ
dễ dẫn đến tình trạng hạ giá cổ phần khi các tổ chức
bảo lãnh phát hành chọn mức giá dựng sổ thấp hơn
mức giá mà thị trường sẵn sàng chi trả. Trong trường
hợp này, có thể đưa ra quy định về phiên dựng sổ sơ
bộ nhằm có được những đánh giá tốt hơn về phản ứng
thị trường trước khi đưa ra phiên dựng sổ chính thức.
Bên cạnh đó cần có doanh nghiệp so sánh làm căn cứ
để đưa ra mức giá khởi điểm phù hợp. Để tránh thất
thoát vốn nhà nước trong bán cổ phần lần đầu, cần có
quy định về cận dưới của giá dựng sổ. Cần tăng cường
vai trò của tổ chức bảo lãnh phát hành trong việc định
giá chào bán cổ phần cuối cùng.
Thứ hai, về việc giới thiệu đợt chào bán, công bố
thông tin và thời gian mở sổ lệnh. Đây là một trong
những nội dung quan trọng quyết định sự thành công
của một đợt chào bán cổ phần do bất cân xứng về
thông tin trên thị trường. Theo quy định hiện hành,
thời gian mở sổ lệnh là 05 phiên giao dịch, từ 9h30
đến 11h30 mỗi phiên. Như vậy, tính từ thời điểm
mở sổ, nhà đầu tư có thể đặt lệnh trong 5 ngày làm
việc. Nếu tính từ thời điểm giới thiệu đợt chào bán
và công bố thông tin thì tổng thời gian để nhà đầu
tư có được thông tin và đặt lệnh là khoảng 15 ngày.
Khoảng thời gian này chưa đủ dài để nhà đầu tư có thể
có được những đánh giá chuẩn xác về doanh nghiệp
phát hành. Mặt khác, những thông tin được công
bố chỉ là những thông tin được phép công khai của
doanh nghiệp, rất khó để thuyết phục nhà đầu tư tổ
chức hoặc nhà đầu tư chiến lược. Do vậy, cần xem
xét nới rộng thời gian dựng sổ, phân thời gian dựng
sổ thành phiên sơ bộ, phiên chính thức, và phiên điều
chỉnh để giảm thiểu chi phí chuyển đổi và gia tăng xác
suất thành công của đợt chào bán.
Thứ ba, doanh nghiệp chào bán cần xác định mục
tiêu của đợt chào bán để xác định xem liệu PTDS
có phải là một sự lựa chọn phù hợp khi chào bán cổ
phần lần đầu. Trong phương án cổ phần hoá, doanh
nghiệp phát hành đã có giá chào bán và tỷ lệ chào
bán cho từng đợt chào bán. Tỷ lệ chào bán cổ phần
ngoài việc phụ thuộc vào quy định về tỷ lệ sở hữu
nhà nước tại các ngành nghề kinh doanh còn chịu sự
chi phối của chiến lược phát triển của doanh nghiệp
phát hành. Nếu việc đa dạng hoá sở hữu là ưu tiên
của doanh nghiệp phát hành, PTDS ưu tiên nhà đầu
tư công chúng là sự lựa chọn phù hợp. Trong trường
hợp này, doanh nghiệp cần tăng cường công bố thông
tin và hỗ trợ nhà đầu tư công chúng trong quá trình
mở sổ lệnh để đảm bảo mức hấp thụ tối đa của cầu.
Nếu doanh nghiệp có những chiến lược kinh doanh
dài hạn đòi hỏi sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược,
doanh nghiệp nên áp dụng PTDS ưu tiên nhà đầu tư
chiến lược. Tuy nhiên, những đòi hỏi khắt khe về nhà
đầu tư chiến lược tại NĐ 126/2017/NĐ-CP, đặc biệt là
đối với những lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, dễ dẫn
đến dựng sổ không thành công. Mặt khác, việc tìm
kiếm từ 02 nhà đầu tư chiến lược để đảm bảo đủ điều
kiện dựng sổ cũng không dễ dàng thực hiện được.
Trong trường hợp này, PTDS từng phần nên được áp
dụng để đảm bảo không bỏ lỡ cơ hội có được nhà đầu
tư chiến lược và vẫn đảm bảo kết quả đợt chào bán.
Thứ tư, quy định về huỷ kết quả dựng sổ. Dựng sổ
không thành công là khi không đảm bảo đủ tỷ lệ nhà
đầu tư và số lượng đặt mua tối thiểu. Ngay khi dựng
sổ thất bại, kết quả dựng sổ bị huỷ, doanh nghiệp
phát hành thực hiện điều chỉnh phương án cổ phần
hoá hoặc tiến hành dựng sổ lại. Quy định này chứa
đựng một số hạn chế (i) PTDS là một phương thức
bán cổ phần đòi hỏi tính chuyên nghiệp, sự tham gia
của nhiều bên, đi kèm với nó là chi phí phát hành cao.
Chi phí chào bán cao làm tăng chi phí cổ phần hoá,
gây tổn thất ngân sách nhà nước. Do vậy, cần có sự
sàng lọc doanh nghiệp phát hành trước khi phê duyệt
phương án chào bán cổ phần lần đầu theo PTDS; (ii)
nên cho phép tổ chức bảo lãnh phát hành có phương
án điều chỉnh giá dựng sổ (phiên điều chỉnh) nếu
kết quả dựng sổ lần đầu bị huỷ; (iii) việc điều chỉnh
phương án cổ phần hoá chỉ nên điều chỉnh tỷ lệ chào
bán thay vì điều chỉnh giá khởi điểm bởi thông tin
này có thể nhận được những phản hồi tiêu cực về thị
trường, đặc biệt trong trường hợp định giá cổ phần
quá cao so với giá trị thị trường. Cũng cần có quy
định về việc điều chỉnh trên cơ sở thông tin thu thập
được từ các phiên dựng sổ trước đó.
Thứnăm, về lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành. Do
đặc thù của PTDS, tổ chức bảo lãnh phát hành đóng
vai trò then chốt trong sự thành công của đợt chào
bán. Tuy nhiên, luôn luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn
về động cơ và lợi ích giữa tổ chức bảo lãnh phát hành
với doanh nghiệp phát hành. Việc giảm thiểu những
xung đột lợi ích này có ý nghĩa quan trọng trong việc
cắt giảm chi phí phát hành, ngăn chặn hành vi trục
lợi của tổ chức bảo lãnh phát hành, đảm bảo uy tín
của công ty phát hành, nâng cao hiệu quả của đợt
783
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):777-785
chào bán. Tổ chức bảo lãnh phát hành cần được lựa
chọn căn cứ vào uy tín, ngành nghề tư vấn, năng lực
quản trị, mạng lưới khách hàng, khả năng xử lý khủng
hoảng thông tin, và mức độ phủ rộng của mạng lưới
thông tin.
KẾT LUẬN
PTDS được xem là vượt trội hơn so với PTĐG và chào
giá cố định khi xét đến mức độ tập hợp thông tin và
tính chính xác của giá. Với PTDS, tổ chức bảo lãnh
phát hành có sự kiểm soát hoàn toàn sự phân bổ cổ
phần và việc phân bổ cổ phần dựa vào thông tin thu
nhận từ các nhà đầu tư trên thị trường. Việc áp dụng
PTDS trong IPO đang trở thành xu hướng toàn cầu
bởi nó khắc phục được những nhược điểm của PTĐG
và chào giá cố định. Tuy nhiên, điều này không đồng
nghĩa với việc PTDSkhông có nhữngmặt tồn tại. Việc
áp dụng PTDS làmột vấn đề đang được xem xét tại thị
trường Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động chào
bán cổ phần khi thực hiện cổ phần hoá tại các DNNN.
Do vậy, áp dụng PTDS trong chào bán cổ phần lần đầu
khi cổ phần hoá DNNN tại Việt Nam đòi hỏi xem xét
ưu, nhược điểm của PTDS, kinh nghiệm của một số
thị trường nhằm có được những điều chỉnh cần thiết
đảm bảo mục tiêu của cổ phần hoá DNNN.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
PTDS: Phương thức dựng sổ
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
PTĐG: Phương thức đấu giá
DN: Doanh nghiệp
IPO: Initial Public Offering
BB: Book Building
CT TNHH MTV: Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
CPH: Cổ phần hoá
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC
GIẢ
Tác giả Trần Thanh Thu chịu trách nhiệm chính về
toàn bộ nội dung của bài báo
Tác giả Đào Hồng Nhung chịu trách nhiệm về phần
nội dung “Việc áp dụng PTDS tạimột số quốc gia trên
thế giới”
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Ritter RJ, Welch IVO. A Review of IPO Activity, Pricing, and Al-
locations. The Journal of Finance August. 2002;57(4):1795–
1828. Available from: https://doi.org/10.1111/1540-6261.
00478.
2. Sherman AE. Global Trends in IPOMethods: Book Building vs.
Auctions with Endogenous Entry. AFA 2003 Washington, DC
Meetings. 2004;.
3. Jagannathan R, Jirnyi A, Sherman AE. Why Don’t Issuers
Choose IPOAuction? TheComplexity of IndirectMechanisms.
NBER Working Paper. 2010;p. 16214. Available from: https:
//doi.org/10.3386/w16214.
4. Garg AK. Book Building Process: A modern way of issuing se-
curities. BEST: International Journal of Management. Informa-
tion Technology and Engineering. 2013;1(3):95–104.
5. Sherman AE, Jagannathan R. Why Do IPO Auctions Fail? Na-
tional Bureau of Economic Research, Inc. NBER Working Pa-
pers. 2006;12151. Available from: https://doi.org/10.3386/
w12151.
6. Anand A. Is the Dutch Auction IPO a Good Idea? Yale
Law & Economics Research Paper. 2005;p. 320. Avail-
able from: https://doi.org/10.2139/ssrn.794464;https:
//ssrn.com/abstract=794464.
7. Rock K. Why new issues are underpriced? Journal of Financial
Economics. 1986;15:187–212. Available from: https://doi.org/
10.1016/0304-405X(86)90054-1.
8. Sherman AE. IPOs and Long Term Relationships: An Advan-
tage of Book Building. 2000;Available from: https://doi.org/10.
2139/ssrn.235928.
9. Degeorge F, Derrien F, Womack KL. Analyst Hype in
Ipos: Explaning the Popularity of Bookbuilding. The Re-
view of Financial Studies. 2007;20(4):1021–1058. Available
from: https://doi.org/10.1093/revfin/hhm010;https://ssrn.com/
abstract=1151160.
10. Ausubel L. Implications of Auction Theory for New IssuesMar-
ket. Unpublished paper. 2002;Available from: https://doi.org/
10.1353/pfs.2002.0002.
11. Jones J, Lehn K, Mulherin JH. Institutional Ownership of Eq-
uity: Effects on Stock Market Liquidity and Corporate Long-
Term Investments, in A.W. Sametz, ed. Institutional Invest-
ing: The Challenges And Responsibilities Of The 21st Century.
1991;.
12. Kutsuna K, Smith R. Why Does Book Building Drive Out Auc-
tion Methods of IPO Issuance? Evidence from Japan. Review
of Financial Studies. 2004;17(4):1129–1166. Available from:
https://doi.org/10.1093/rfs/hhg049.
13. Ayala GA. Price is Book-built: Decision to Use Book-building
Pricing Mechanism for IPOs in the Philippines. CMC Senior
Theses. 2016;.
14. Fei J. Has the Introduction of Bookbuilding Increased the Effi-
ciency of China’s IPO Pricing. Dissertations and Theses Collec-
tion. 2009;.
15. Quyết DT. Thực trạng và giải pháp thúc đẩy cơ cấu lại, đổimới,
nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Kỷ
yếu diễn đàn thúc đẩy quá trình đổimới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước 2018. 2018;.
784
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 4(3):777-785
Open Access Full Text Article Review
Academy of Finance, Vietnam
Correspondence
Tran Thanh Thu, Academy of Finance,
Vietnam
Email: tranthanhthu308@gmail.com
History
 Received: 13/09/2019
 Accepted: 20/11/2019
 Published: 07/7/2020
DOI : 0.32508/stdjelm.v4i3.634
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Book building and its application in offering shares of equitized
State-owned enterprises in Vietnam
Tran Thanh Thu*, Dao Hong Nhung
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Equitization and divestment continue to be one of the crucial pillars of the economic development
strategy over the period 2020-2030. The Vietnamese Government has been completing the legal
framework to speed up the process of privatization anddivestment over the past 3 years. One of the
highlights is the regulation on the application of Book Building (BB) Method to offer state shares in
2018. BB, an effective mechanism to determine the price on the primary market, is encouraged to
apply onmostmarkets. However, according toHanoi Stock Exchange, for fourmonths sinceCircular
21/2019/BTC-TT was released, 17 announcements of IPOs or divesture of state capital were whole
lot sale auction or competitive offering. This implies the popularity of fixed price and discriminatory
auction in Vietnam. Moreover, applying BB in Vietnam requires certain adjustments to theories. This
paper presents the advantages and disadvantages of BB over fixed price and auction, reviews BB
experiences of some economies, and make recommendations on the application of BB in offering
state shares in Vietnam. Given that BB is expected to create a transparent and effective pricing
mechanism and enhance the success of state share offering, this study indicates some points that
need clarifying or adjusting to the current regulation, including (i) initial price and price range; (ii)
time for disclosing information and opening order books; (iii) objectives of BB; (iv) cancel the results
of BB; (v) selection of underwriters.
Key words: Equitization, State-Owned Enterprises, Book Building, Auction, Vietnam
Cite this article : Thu T T, NhungDH.Bookbuilding and its application in offering shares of equitized
State-owned enterprises in Vietnam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(3):777-785.
785

File đính kèm:

  • pdfphuong_thuc_dung_so_va_viec_ap_dung_khi_chao_ban_co_phan_tro.pdf