Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng cuả chiến lược
phát triển kinh tế giai đoạn 2020-2030. Trong vòng ba năm trở lại đây, để đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hoá và thoái vốn nhà nước, Chính phủ đã và đang hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt
động này. Một trong những điểm mới nổi bật là những quy định về việc áp dụng phương thức
dựng sổ khi chào bán cổ phần Nhà nước trong cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước năm 2018. Dựng
sổ là một cơ chế xác định giá chứng khoán hiệu quả trên thị trường sơ cấp và được khuyến nghị
áp dụng tại hầu hết các thị trường. Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, thống kê của Sở Giao Dịch
chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy trong vòng bốn tháng sau khi văn bản hướng dẫn áp dụng
phương thức dựng sổ trong chào bán cổ phần nhà nước được ban hành, 17 thông báo chào bán
cổ phần lần đầu hoặc thoái vốn nhà nước đều thực hiện dưới hình thức đấu giá theo lô hoặc chào
bán cạnh tranh. Điều này cho thấy, đấu giá cổ phần hoặc ấn định giá cố định là những phương
thức chào bán cổ phần phổ biến tại Việt Nam. Đồng thời, áp dụng PTDS trong thực tiễn đòi hỏi sự
điều chỉnh nhất định so với lý thuyết. Bài viết này làm rõ những ưu và nhược điểm của PTDS so với
hai phương thức chào bán cổ phần còn lại, kinh nghiệm áp dụng PTDS tại một số quốc gia và đưa
ra một số kiến nghị về việc áp dụng PTDS vào cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước tại Việt Nam. Với
kỳ vọng PTDS sẽ tạo ra một cơ chế xác định giá minh bạch, hiệu quả, nâng cao khả năng thành
công của thương vụ chào bán cổ phần nhà nước, bài viết chỉ ra những điểm cần làm rõ hoặc điều
chỉnh trong những quy định hiện hành về PTDS của Chính phủ, bao gồm (i) giá khởi điểm và biên
độ giá; (ii) thời gian công bố thông tin và mở sổ lệnh; (iii) mục tiêu của đợt chào bán; (iv) huỷ kết
quả dựng sổ; (v) lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):777-785 Open Access Full Text Article Bài Tổng quan Học viện Tài chính Hà Nội, Việt Nam Liên hệ Trần Thanh Thu, Học viện Tài chính Hà Nội, Việt Nam Email: tranthanhthu308@gmail.com Lịch sử Ngày nhận: 13/09/2019 Ngày chấp nhận: 20/11/2019 Ngày đăng: 07/7/2020 DOI : 10.32508/stdjelm.v4i3.634 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam Trần Thanh Thu*, Đào Hồng Nhung Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng cuả chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2020-2030. Trong vòng ba năm trở lại đây, để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước, Chính phủ đã và đang hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt động này. Một trong những điểm mới nổi bật là những quy định về việc áp dụng phương thức dựng sổ khi chào bán cổ phầnNhà nước trong cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước năm2018. Dựng sổ là một cơ chế xác định giá chứng khoán hiệu quả trên thị trường sơ cấp và được khuyến nghị áp dụng tại hầu hết các thị trường. Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, thống kê của Sở Giao Dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy trong vòng bốn tháng sau khi văn bản hướng dẫn áp dụng phương thức dựng sổ trong chào bán cổ phần nhà nước được ban hành, 17 thông báo chào bán cổ phần lần đầu hoặc thoái vốn nhà nước đều thực hiện dưới hình thức đấu giá theo lô hoặc chào bán cạnh tranh. Điều này cho thấy, đấu giá cổ phần hoặc ấn định giá cố định là những phương thức chào bán cổ phần phổ biến tại Việt Nam. Đồng thời, áp dụng PTDS trong thực tiễn đòi hỏi sự điều chỉnh nhất định so với lý thuyết. Bài viết này làm rõ những ưu và nhược điểm của PTDS so với hai phương thức chào bán cổ phần còn lại, kinh nghiệm áp dụng PTDS tại một số quốc gia và đưa ra một số kiến nghị về việc áp dụng PTDS vào cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước tại Việt Nam. Với kỳ vọng PTDS sẽ tạo ra một cơ chế xác định giá minh bạch, hiệu quả, nâng cao khả năng thành công của thương vụ chào bán cổ phần nhà nước, bài viết chỉ ra những điểm cần làm rõ hoặc điều chỉnh trong những quy định hiện hành về PTDS của Chính phủ, bao gồm (i) giá khởi điểm và biên độ giá; (ii) thời gian công bố thông tin và mở sổ lệnh; (iii) mục tiêu của đợt chào bán; (iv) huỷ kết quả dựng sổ; (v) lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành. Từ khoá: Cổ phần hoá, Doanh nghiệp nhà nước, Phương thức dựng sổ, Đấu giá cổ phần, Việt Nam GIỚI THIỆU VẤNĐỀ NGHIÊN CỨU Theo Ritter & Welch khi chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng, có ba phương pháp xác định giá là đấu giá, chào bán với mức giá cố định, và phương thức dựng sổ1. Trước năm 1990, phương pháp giá cố định được sử dụng phổ biến tại các quốc gia ngoài Mỹ. Tuy nhiên, trong vòng hai thập kỷ gần đây, PTDS đang dần trở nên phổ biến. Sự phổ biến của PTDS so với hai phương thức định giá IPO còn lại xuất phát từ nhiều lý do song quan trọng nhất vẫn là tính chính xác trong xác định giá cổ phần và lợi ích dài hạnmang lại cho công ty chào bán. Tuy nhiên, phương thức dựng sổ cũng chứa đựng những hạn chế nhất định như tình trạng hạ giá cổ phần hay hành vi trục lợi của tổ chức bảo lãnh phát hành, đặc biệt trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển. Sherman & Jagannathan tiến hành cuộc điều tra toàn cầu về xu hướng sử dụng các phương pháp định giá khi IPO và chỉ ra rằng 20/45 quốc gia trong mẫu sử dụng đấu giá IPO 2. Ngoại trừ Pháp, Israel, Đài Loan, và Mỹ, đấu giá IPO bị cấm hoàn toàn ở các quốc gia trong mẫu. Tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, theo Jagannathan, Jirnyi, Sherman, Úc là quốc gia đầu tiên áp dụng PTDS vào năm 1993, tiếp đó là Hong Kong và Thái Lan năm 1994, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand năm 1997. Trong khu vực ASEAN, tính đến năm 2012, chỉ có duy nhất Việt Nam là chưa áp dụng PTDS khi IPO3. Phương thức dựng sổ chính thức được luật hoá và có hiệu lực ở Việt Nam ngày 01/01/2018 sau khi Chính phủ ban hành nghị định 126/2017/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. Hướng dẫn chi tiết về PTDS được quy định trongThông tư số 21/2019/TT- BTC ban hành ngày 11/04/2019. Như vậy, việc áp dụng PTDS tại Việt Nam gắn liền với hoạt động cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước. Sau quyết định số 58/2016/QĐ-TTg củaThủ tướng chính phủ ban hành danh mục doanh nghiệp phải thoái vốn nhà nước tính đến 2020, hoạt động cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước tại Việt Nam thực sự có bước chuyển mình. Trích dẫn bài báo này: Thu T T, Nhung D H. Phương thức dựng sổ và việc áp dụng khi chào bán cổ phần trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam . Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(3):777-7 ... nước theo phương thức dựng sổ” đã đưa ra những hướng dẫn chi tiết về phương thức này. Việc giới thiệu về PTDS có ý nghĩa lớn đối với tiến trình cổ phần hoá DNNN và thoái vốn nhà nước tại Việt Nam bởi những lý do sau: Thứ nhất, thông qua việc giới thiệu PTDS, kết hợp quan điểm của doanh nghiệp phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, và nhà đầu tư, mức giá IPO trở nên khách quan và chính xác hơn. Việc công bố thông tin doanh nghiệp rộng rãi và tuân thủ quy trình dựng sổ rõ ràng tạo môi trường đầu tư minh bạch và hiệu quả trong dài hạn bởi cả tổ chức bảo lãnh phát hành và nhà đầu tư đều chịu sự giám sát của thị trường. Thứhai, PTDS cung cấp cho nhà đầu tư tổ chức nhiều sức mạnh hơn trong việc định giá IPO, khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược vào thương vụ chào bán cổ phần. Thứ ba, áp dụng PTDS tuân theo một quy trình dựng sổ chuyên nghiệp đòi hỏi sự chuyên nghiệp của nhà bảo lãnh phát hành từ quản trị nội bộ, nguồn khách hàng, kênh phân phối và năng lựcmarketing trong dài hạn. Đây chính là những yếu tố then chốt giúp tăng cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức bảo lãnh phát hành tại Việt Nam, đưa thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp. Những kỳ vọng về tác động tích cực của PTDS đối với sự thành công của các đợt chào bán cổ phần lần đầu khi CPH các DNNN tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, do Thông tư 21/2019/TT-BTC chính thức có hiệu lực từ 03/06/2019, chưa có đủ số liệu cụ thể để đánh giá chính xác tác động của PTDS. Những kiến nghị sau đây của nhóm tác giả dựa trên sự kết hợp những kinh nghiệm quốc tế với các quy định về PTDS hiện hành của Việt Nam. Với những điều kiện (i) thị trường vốn chủ sở hữu chưa phát triển, vốn vay chiếm 70% thị trường vốn; (ii) rủi ro vĩ mô cao và tính thanh khoản của thị trường thấp; (iii) tính minh bạch và tuân thủ của các công ty thấp; (iv) sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường cao; (v) quy mô thị trường nhỏ, áp dụng PTDS trong chào bán cổ phần lần đầu khi CPH cácDNNN cần có những điều chỉnh nhất định vềmặt chính sách, cụ thể là: Thứ nhất, những quy định hiện hành về PTDS khi chào bán cổ phần lần đầu chưa có những hướng dẫn 782 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):777-785 chi tiết về mức giá khởi điểm, giá mở sổ, biên độ giá và giá phân phối. Một trong những khó khăn lớn nhất của các DNNN khi xây dựng phương án cổ phần hoá là xác định giá trị doanh nghiệp và định giá bán khởi điểm cổ phần. Với nguyên tắc bảo toàn vốn nhà nước, giá trị doanh nghiệp phải được xác định đầy đủ và chính xác trên cơ sở kết hợp các phương pháp định giá khác nhau với sự tham gia của các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định giá khởi điểm từ góc nhìn của DNNN và các tổ chức định giá có thể sai khác với đánh giá từ phía thị trường. Đồng thời, việc quy định biên độ giá dựng sổ không quá 20% giá khởi điểm tạo ra giới hạn trên về giá dựng sổ dễ dẫn đến tình trạng hạ giá cổ phần khi các tổ chức bảo lãnh phát hành chọn mức giá dựng sổ thấp hơn mức giá mà thị trường sẵn sàng chi trả. Trong trường hợp này, có thể đưa ra quy định về phiên dựng sổ sơ bộ nhằm có được những đánh giá tốt hơn về phản ứng thị trường trước khi đưa ra phiên dựng sổ chính thức. Bên cạnh đó cần có doanh nghiệp so sánh làm căn cứ để đưa ra mức giá khởi điểm phù hợp. Để tránh thất thoát vốn nhà nước trong bán cổ phần lần đầu, cần có quy định về cận dưới của giá dựng sổ. Cần tăng cường vai trò của tổ chức bảo lãnh phát hành trong việc định giá chào bán cổ phần cuối cùng. Thứ hai, về việc giới thiệu đợt chào bán, công bố thông tin và thời gian mở sổ lệnh. Đây là một trong những nội dung quan trọng quyết định sự thành công của một đợt chào bán cổ phần do bất cân xứng về thông tin trên thị trường. Theo quy định hiện hành, thời gian mở sổ lệnh là 05 phiên giao dịch, từ 9h30 đến 11h30 mỗi phiên. Như vậy, tính từ thời điểm mở sổ, nhà đầu tư có thể đặt lệnh trong 5 ngày làm việc. Nếu tính từ thời điểm giới thiệu đợt chào bán và công bố thông tin thì tổng thời gian để nhà đầu tư có được thông tin và đặt lệnh là khoảng 15 ngày. Khoảng thời gian này chưa đủ dài để nhà đầu tư có thể có được những đánh giá chuẩn xác về doanh nghiệp phát hành. Mặt khác, những thông tin được công bố chỉ là những thông tin được phép công khai của doanh nghiệp, rất khó để thuyết phục nhà đầu tư tổ chức hoặc nhà đầu tư chiến lược. Do vậy, cần xem xét nới rộng thời gian dựng sổ, phân thời gian dựng sổ thành phiên sơ bộ, phiên chính thức, và phiên điều chỉnh để giảm thiểu chi phí chuyển đổi và gia tăng xác suất thành công của đợt chào bán. Thứ ba, doanh nghiệp chào bán cần xác định mục tiêu của đợt chào bán để xác định xem liệu PTDS có phải là một sự lựa chọn phù hợp khi chào bán cổ phần lần đầu. Trong phương án cổ phần hoá, doanh nghiệp phát hành đã có giá chào bán và tỷ lệ chào bán cho từng đợt chào bán. Tỷ lệ chào bán cổ phần ngoài việc phụ thuộc vào quy định về tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các ngành nghề kinh doanh còn chịu sự chi phối của chiến lược phát triển của doanh nghiệp phát hành. Nếu việc đa dạng hoá sở hữu là ưu tiên của doanh nghiệp phát hành, PTDS ưu tiên nhà đầu tư công chúng là sự lựa chọn phù hợp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cần tăng cường công bố thông tin và hỗ trợ nhà đầu tư công chúng trong quá trình mở sổ lệnh để đảm bảo mức hấp thụ tối đa của cầu. Nếu doanh nghiệp có những chiến lược kinh doanh dài hạn đòi hỏi sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược, doanh nghiệp nên áp dụng PTDS ưu tiên nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên, những đòi hỏi khắt khe về nhà đầu tư chiến lược tại NĐ 126/2017/NĐ-CP, đặc biệt là đối với những lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, dễ dẫn đến dựng sổ không thành công. Mặt khác, việc tìm kiếm từ 02 nhà đầu tư chiến lược để đảm bảo đủ điều kiện dựng sổ cũng không dễ dàng thực hiện được. Trong trường hợp này, PTDS từng phần nên được áp dụng để đảm bảo không bỏ lỡ cơ hội có được nhà đầu tư chiến lược và vẫn đảm bảo kết quả đợt chào bán. Thứ tư, quy định về huỷ kết quả dựng sổ. Dựng sổ không thành công là khi không đảm bảo đủ tỷ lệ nhà đầu tư và số lượng đặt mua tối thiểu. Ngay khi dựng sổ thất bại, kết quả dựng sổ bị huỷ, doanh nghiệp phát hành thực hiện điều chỉnh phương án cổ phần hoá hoặc tiến hành dựng sổ lại. Quy định này chứa đựng một số hạn chế (i) PTDS là một phương thức bán cổ phần đòi hỏi tính chuyên nghiệp, sự tham gia của nhiều bên, đi kèm với nó là chi phí phát hành cao. Chi phí chào bán cao làm tăng chi phí cổ phần hoá, gây tổn thất ngân sách nhà nước. Do vậy, cần có sự sàng lọc doanh nghiệp phát hành trước khi phê duyệt phương án chào bán cổ phần lần đầu theo PTDS; (ii) nên cho phép tổ chức bảo lãnh phát hành có phương án điều chỉnh giá dựng sổ (phiên điều chỉnh) nếu kết quả dựng sổ lần đầu bị huỷ; (iii) việc điều chỉnh phương án cổ phần hoá chỉ nên điều chỉnh tỷ lệ chào bán thay vì điều chỉnh giá khởi điểm bởi thông tin này có thể nhận được những phản hồi tiêu cực về thị trường, đặc biệt trong trường hợp định giá cổ phần quá cao so với giá trị thị trường. Cũng cần có quy định về việc điều chỉnh trên cơ sở thông tin thu thập được từ các phiên dựng sổ trước đó. Thứnăm, về lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành. Do đặc thù của PTDS, tổ chức bảo lãnh phát hành đóng vai trò then chốt trong sự thành công của đợt chào bán. Tuy nhiên, luôn luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn về động cơ và lợi ích giữa tổ chức bảo lãnh phát hành với doanh nghiệp phát hành. Việc giảm thiểu những xung đột lợi ích này có ý nghĩa quan trọng trong việc cắt giảm chi phí phát hành, ngăn chặn hành vi trục lợi của tổ chức bảo lãnh phát hành, đảm bảo uy tín của công ty phát hành, nâng cao hiệu quả của đợt 783 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(3):777-785 chào bán. Tổ chức bảo lãnh phát hành cần được lựa chọn căn cứ vào uy tín, ngành nghề tư vấn, năng lực quản trị, mạng lưới khách hàng, khả năng xử lý khủng hoảng thông tin, và mức độ phủ rộng của mạng lưới thông tin. KẾT LUẬN PTDS được xem là vượt trội hơn so với PTĐG và chào giá cố định khi xét đến mức độ tập hợp thông tin và tính chính xác của giá. Với PTDS, tổ chức bảo lãnh phát hành có sự kiểm soát hoàn toàn sự phân bổ cổ phần và việc phân bổ cổ phần dựa vào thông tin thu nhận từ các nhà đầu tư trên thị trường. Việc áp dụng PTDS trong IPO đang trở thành xu hướng toàn cầu bởi nó khắc phục được những nhược điểm của PTĐG và chào giá cố định. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc PTDSkhông có nhữngmặt tồn tại. Việc áp dụng PTDS làmột vấn đề đang được xem xét tại thị trường Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động chào bán cổ phần khi thực hiện cổ phần hoá tại các DNNN. Do vậy, áp dụng PTDS trong chào bán cổ phần lần đầu khi cổ phần hoá DNNN tại Việt Nam đòi hỏi xem xét ưu, nhược điểm của PTDS, kinh nghiệm của một số thị trường nhằm có được những điều chỉnh cần thiết đảm bảo mục tiêu của cổ phần hoá DNNN. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT PTDS: Phương thức dựng sổ DNNN: Doanh nghiệp nhà nước PTĐG: Phương thức đấu giá DN: Doanh nghiệp IPO: Initial Public Offering BB: Book Building CT TNHH MTV: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán CPH: Cổ phần hoá TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ Tác giả Trần Thanh Thu chịu trách nhiệm chính về toàn bộ nội dung của bài báo Tác giả Đào Hồng Nhung chịu trách nhiệm về phần nội dung “Việc áp dụng PTDS tạimột số quốc gia trên thế giới” TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Ritter RJ, Welch IVO. A Review of IPO Activity, Pricing, and Al- locations. The Journal of Finance August. 2002;57(4):1795– 1828. Available from: https://doi.org/10.1111/1540-6261. 00478. 2. Sherman AE. Global Trends in IPOMethods: Book Building vs. Auctions with Endogenous Entry. AFA 2003 Washington, DC Meetings. 2004;. 3. Jagannathan R, Jirnyi A, Sherman AE. Why Don’t Issuers Choose IPOAuction? TheComplexity of IndirectMechanisms. NBER Working Paper. 2010;p. 16214. Available from: https: //doi.org/10.3386/w16214. 4. Garg AK. Book Building Process: A modern way of issuing se- curities. BEST: International Journal of Management. Informa- tion Technology and Engineering. 2013;1(3):95–104. 5. Sherman AE, Jagannathan R. Why Do IPO Auctions Fail? Na- tional Bureau of Economic Research, Inc. NBER Working Pa- pers. 2006;12151. Available from: https://doi.org/10.3386/ w12151. 6. Anand A. Is the Dutch Auction IPO a Good Idea? Yale Law & Economics Research Paper. 2005;p. 320. Avail- able from: https://doi.org/10.2139/ssrn.794464;https: //ssrn.com/abstract=794464. 7. Rock K. Why new issues are underpriced? Journal of Financial Economics. 1986;15:187–212. Available from: https://doi.org/ 10.1016/0304-405X(86)90054-1. 8. Sherman AE. IPOs and Long Term Relationships: An Advan- tage of Book Building. 2000;Available from: https://doi.org/10. 2139/ssrn.235928. 9. Degeorge F, Derrien F, Womack KL. Analyst Hype in Ipos: Explaning the Popularity of Bookbuilding. The Re- view of Financial Studies. 2007;20(4):1021–1058. Available from: https://doi.org/10.1093/revfin/hhm010;https://ssrn.com/ abstract=1151160. 10. Ausubel L. Implications of Auction Theory for New IssuesMar- ket. Unpublished paper. 2002;Available from: https://doi.org/ 10.1353/pfs.2002.0002. 11. Jones J, Lehn K, Mulherin JH. Institutional Ownership of Eq- uity: Effects on Stock Market Liquidity and Corporate Long- Term Investments, in A.W. Sametz, ed. Institutional Invest- ing: The Challenges And Responsibilities Of The 21st Century. 1991;. 12. Kutsuna K, Smith R. Why Does Book Building Drive Out Auc- tion Methods of IPO Issuance? Evidence from Japan. Review of Financial Studies. 2004;17(4):1129–1166. Available from: https://doi.org/10.1093/rfs/hhg049. 13. Ayala GA. Price is Book-built: Decision to Use Book-building Pricing Mechanism for IPOs in the Philippines. CMC Senior Theses. 2016;. 14. Fei J. Has the Introduction of Bookbuilding Increased the Effi- ciency of China’s IPO Pricing. Dissertations and Theses Collec- tion. 2009;. 15. Quyết DT. Thực trạng và giải pháp thúc đẩy cơ cấu lại, đổimới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Kỷ yếu diễn đàn thúc đẩy quá trình đổimới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 2018. 2018;. 784 Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 4(3):777-785 Open Access Full Text Article Review Academy of Finance, Vietnam Correspondence Tran Thanh Thu, Academy of Finance, Vietnam Email: tranthanhthu308@gmail.com History Received: 13/09/2019 Accepted: 20/11/2019 Published: 07/7/2020 DOI : 0.32508/stdjelm.v4i3.634 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Book building and its application in offering shares of equitized State-owned enterprises in Vietnam Tran Thanh Thu*, Dao Hong Nhung Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Equitization and divestment continue to be one of the crucial pillars of the economic development strategy over the period 2020-2030. The Vietnamese Government has been completing the legal framework to speed up the process of privatization anddivestment over the past 3 years. One of the highlights is the regulation on the application of Book Building (BB) Method to offer state shares in 2018. BB, an effective mechanism to determine the price on the primary market, is encouraged to apply onmostmarkets. However, according toHanoi Stock Exchange, for fourmonths sinceCircular 21/2019/BTC-TT was released, 17 announcements of IPOs or divesture of state capital were whole lot sale auction or competitive offering. This implies the popularity of fixed price and discriminatory auction in Vietnam. Moreover, applying BB in Vietnam requires certain adjustments to theories. This paper presents the advantages and disadvantages of BB over fixed price and auction, reviews BB experiences of some economies, and make recommendations on the application of BB in offering state shares in Vietnam. Given that BB is expected to create a transparent and effective pricing mechanism and enhance the success of state share offering, this study indicates some points that need clarifying or adjusting to the current regulation, including (i) initial price and price range; (ii) time for disclosing information and opening order books; (iii) objectives of BB; (iv) cancel the results of BB; (v) selection of underwriters. Key words: Equitization, State-Owned Enterprises, Book Building, Auction, Vietnam Cite this article : Thu T T, NhungDH.Bookbuilding and its application in offering shares of equitized State-owned enterprises in Vietnam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(3):777-785. 785
File đính kèm:
- phuong_thuc_dung_so_va_viec_ap_dung_khi_chao_ban_co_phan_tro.pdf