Phương pháp rèn luyện kĩ năng xướng âm trong dạy học phân môn xướng âm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Đối với sinh viên (SV) ngành Giáo dục mầm non
(GDMN), việc có những hiểu biết về nghệ thuật âm nhạc
là điều không thể thiếu. Nó không chỉ góp phần vào hành
trang văn hoá chung của mỗi SV mà đây còn là bộ môn
giúp các em trang bị những kiến thức cơ bản nhất để áp
dụng vào thực tế giảng dạy sau khi ra trường. Đối với
ngành GDMN, chương trình đào tạo âm nhạc bao gồm
nhiều phân môn, trong đó có Xướng âm. Đây là một môn
học bắt buộc đồng thời là phân môn cung cấp cho SV
phương pháp luyện đọc, nghe cao độ, trường độ, tiết tấu,
biết nghe và cảm thụ âm nhạc, cuối cùng tiến tới nghe,
đọc hoàn chỉnh một giai điệu, một tác phẩm âm nhạc.
Bên cạnh kĩ năng đọc cao độ, tiết tấu, sắc thái những kĩ
năng xuyên suốt trong nội dung của môn học đòi hỏi
người học phải thực hiện tốt để phục vụ cho công việc
giảng dạy. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng đọc xướng âm
cho SV là một nội dung không thể thiếu trong chương
trình đào tạo GDMN. Người học có kĩ năng thực hành
xướng âm tốt sẽ là một thuận lợi trong quá trình học và
thực hành bộ môn Âm nhạc. Sở dĩ đây là một nội dung
khó với đối tượng SV ngành GDMN vì môn học cần có
năng khiếu về âm nhạc. Mặt khác, trường đào tạo theo
hệ thống tín chỉ, với các môn học trong bộ môn Âm nhạc
SV phải tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành là chủ yếu.
Nhằm tăng tính tích cực giúp người học có cơ sở rèn
luyện tốt khả năng xướng âm, ngoài việc cần phải nắm
vững một số kiến thức nhạc lí cơ bản, giảng viên (GV)
cần có những biện pháp và phương pháp rèn luyện kĩ
năng hiệu quả để giúp các em hình thành những kĩ năng,
kĩ xảo, nâng cao khả năng tư duy âm nhạc, phát triển tai
nghe. Ngoài ra, việc sắp xếp nội dung dạy học theo đúng
quy trình cũng góp phần đạt được hiệu quả cao trong việc
nâng cao chất lượng môn học.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp rèn luyện kĩ năng xướng âm trong dạy học phân môn xướng âm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG XƯỚNG ÂM TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN XƯỚNG ÂM CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 Nguyễn Thị Quỳnh Mai - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Ngày nhận bài: 27/11/2017; ngày sửa chữa: 28/11/2017; ngày duyệt đăng: 11/12/2017. Abstract: The Curriculum of Music plays an important role in training students majoring in Preschool Education. Preschool teachers must be equipped not only the professional knowledge, but also a background in music in order to contribute to the aesthetics education, personality formation and intellectual development of children. Among those, teaching Tonic Sol-fa has proved their role as an introductory course. However, it is a difficult subject as it is often considered for gifted students only. How to make teaching and learning this subject easier, livelier, and more attractive? How to engage students in active knowledge acquisition? Within this article, author suggests some methods of training the subject Tonic Sol-fa for students majoring in preschool education at Hanoi Pedagogical University 2. Keywords: Tonic Sol-fa, students of preschool education, methods of vocal training, rhythm, pitch, nuance. 1. Mở đầu kĩ xảo, nâng cao khả năng tư duy âm nhạc, phát triển tai Đối với sinh viên (SV) ngành Giáo dục mầm non nghe. Ngoài ra, việc sắp xếp nội dung dạy học theo đúng (GDMN), việc có những hiểu biết về nghệ thuật âm nhạc quy trình cũng góp phần đạt được hiệu quả cao trong việc là điều không thể thiếu. Nó không chỉ góp phần vào hành nâng cao chất lượng môn học. trang văn hoá chung của mỗi SV mà đây còn là bộ môn 2. Nội dung nghiên cứu giúp các em trang bị những kiến thức cơ bản nhất để áp 2.1. Các kĩ năng xướng âm cơ bản dụng vào thực tế giảng dạy sau khi ra trường. Đối với Xướng âm tiếng Ý là Solfeggio, tiếng Pháp là ngành GDMN, chương trình đào tạo âm nhạc bao gồm Solfege, tiếng Anh là Tonic Sol-fa. Giải thích thuật ngữ nhiều phân môn, trong đó có Xướng âm. Đây là một môn trên theo tiếng Ý nghĩa là bài luyện giọng, tiếng Pháp là học bắt buộc đồng thời là phân môn cung cấp cho SV đọc tên nốt nhạc đúng cao độ, tiếng Anh là một kiểu của phương pháp luyện đọc, nghe cao độ, trường độ, tiết tấu, bài tập hát nhưng hát bằng tên nốt nhạc theo bảy bậc cơ biết nghe và cảm thụ âm nhạc, cuối cùng tiến tới nghe, bản bắt đầu bằng nốt Đô. đọc hoàn chỉnh một giai điệu, một tác phẩm âm nhạc. Còn “xướng âm” theo cách diễn giải của tác giả Bên cạnh kĩ năng đọc cao độ, tiết tấu, sắc thái những kĩ Trịnh Hoài Thu trong cuốn “Phương pháp dạy học kí năng xuyên suốt trong nội dung của môn học đòi hỏi xướng âm” - Nhà xuất bản Âm nhạc - 2011 là việc người học phải thực hiện tốt để phục vụ cho công việc “mã hoá” các nốt nhạc thành âm thanh với âm sắc giảng dạy. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng đọc xướng âm giọng người. cho SV là một nội dung không thể thiếu trong chương Từ những luận giải trên, ta có thể hiểu xướng âm trình đào tạo GDMN. Người học có kĩ năng thực hành nghĩa là đọc tên các nốt nhạc theo đúng cao độ, trường xướng âm tốt sẽ là một thuận lợi trong quá trình học và độ, sắc thái quy định trên một gam nhất định bằng giọng thực hành bộ môn Âm nhạc. Sở dĩ đây là một nội dung người. Để đọc tốt bài xướng âm phải rèn luyện hệ thống khó với đối tượng SV ngành GDMN vì môn học cần có những kĩ năng như: kĩ năng về cao độ, trường độ, cường năng khiếu về âm nhạc. Mặt khác, trường đào tạo theo độ, tính chất các loại nhịp, sắc thái biểu cảm, hệ thống tín chỉ, với các môn học trong bộ môn Âm nhạc 2.1.1. Cao độ SV phải tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành là chủ yếu. Cao độ là độ cao thấp của âm thanh phụ thuộc vào Nhằm tăng tính tích cực giúp người học có cơ sở rèn tần số dao động của vật thể rung. Trong dạy học xướng luyện tốt khả năng xướng âm, ngoài việc cần phải nắm âm cao độ luôn được coi trọng bởi việc đọc chính xác vững một số kiến thức nhạc lí cơ bản, giảng viên (GV) cao độ của âm thanh là một trong những nhân tố hình cần có những biện pháp và phương pháp rèn luyện kĩ thành nên giai điệu của âm nhạc. Cao độ được thể hiện ở năng hiệu quả để giúp các em hình thành những kĩ năng, vị trí âm các nốt nhạc nằm trên khuông nhạc với từng loại 77 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 khoá cụ thể. Trong đó, cung và nửa cung là đơn vị để so Hình tiết tấu của bài: sánh sự tương quan về cao độ giữa các âm thanh. Ví dụ 1: Khoảng cách về cao độ giữa các âm cơ bản 2.1.3. Cường độ. Cường độ là độ vang to hoặc nhỏ của âm thanh phụ thuộc vào tầm cữ dao động của vật thể làm nguồn sinh Dựa vào khoảng cách về cao độ giữa các âm cơ bản âm. Thông thường đơn vị đo cường độ âm thanh là SV dễ dàng phân biệt được độ cao thấp của âm thanh Deciben (Db). Tuy nhiên trong âm nhạc do cường độ âm được ghi trên bản nhạc, đồng thời có thể mã hoá những thanh liên tục thay đổi nên ... ủa âm nhạc. Đó chính là sắc thái âm nhạc, sự chuyển động liên tiếp giữa những nhóm của cảm xúc, người học xướng âm không thể bỏ qua trường độ khác nhau của âm thanh tạo thành nhóm nhịp phần này vì nó chứng tỏ khả năng cảm thụ âm nhạc của điệu. Các nhóm nhịp điệu liên kết với nhau hình thành mỗi người. Tập xử lí sắc thái từ những bài xướng âm nhỏ loại nhịp của tác phẩm. Trường độ âm thanh được thể giúp SV rèn luyện kĩ năng xử lí sắc thái tiến tới việc xử hiện bằng hệ thống hình nốt nhạc. lí sắc thái tác phẩm âm nhạc. Trong các bài hát hiện hành ở chương trình giáo dục tại các trường mầm non trên cả Ví dụ 2: Các hình nốt nhạc nước, tuy là những bài hát của trẻ em nhưng việc thể hiện bài hát sao cho tình cảm đó là một điều không dễ dàng nếu không được rèn luyện kĩ. Đơn vị đo trường độ trong âm nhạc là nhịp và phách. 2.2. Rèn luyện kĩ năng xướng âm Phách là khoảng thời gian trôi qua giữa hai tiếng gõ liền kề. Những phách có trọng âm là phách mạnh, còn 2.2.1. Rèn luyện kĩ năng đọc trường độ những phách không có trọng âm là phách nhẹ. Cùng với cao độ, trường độ làm nên những giai điệu Trong tác phẩm âm nhạc, nhịp, loại nhịp đóng vai trò đẹp đẽ trong âm nhạc. Chính vì vậy việc luyện tập đọc quan trọng. Loại nhịp được kí hiệu bằng số chỉ nhịp đặt riêng lẻ trường độ cũng rất quan trọng. sau khoá nhạc và hoá biểu (nếu có). Số chỉ gồm hai chữ 2.2.1.1. Rèn luyện kĩ năng gõ phách số, chữ số trên chỉ số phách trong một ô nhịp, chữ số dưới chỉ độ dài của mỗi phách tương ứng với một phần mấy của Trong những bài học đầu tiên GV phải cung cấp cho nốt tròn. Những loại nhịp phổ biến trong chương trình đào SV những kĩ năng gõ phách và phân chia phách mạnh, tạo cho SV mầm non là: 2/2; 2/4; 3/4; 4/4; 6/8. Khi biết số nhẹ hay phần mạnh cũng như phần nhẹ của phách. Một chỉ nhịp ra sẽ biết số phách được quy định trong mỗi ô phách luôn có hai nửa bằng nhau được gọi là phần mạnh nhịp, đồng thời ta biết giá trị mỗi phách tương ứng với hình của phách và phần nhẹ của phách. Phần mạnh của phách nốt nào và vị trí phách mạnh, phách nhẹ trong ô nhịp. Trong âm nhạc, trường độ của âm thanh luôn chuyển tương ứng với thời gian tay ta gõ xuống một điểm nhất động luân phiên nối tiếp nhau. Sự tương quan trường độ định, phần nhẹ của phách tương ứng với tay ta nhấc lên của các âm thanh nối tiếp nhau được gọi là tiết tấu. Khi một điểm nhấc lên trở về vị trí xuất phát. Việc rèn luyện các trường độ được liên kết với nhau theo thứ tự nhất gõ phách bắt đầu thường xuyên giúp SV tạo cảm giác về định sẽ tạo thành những nhóm tiết tấu (hình tiết tấu). độ dài của âm thanh. Ví dụ 3: Bài xướng âm 1 [8; tr 1] Trong nhịp 2/4 là nhịp có hai phách trong mỗi một ô nhịp, giá trị mỗi phách tương ứng với một nốt đen thì tất cả các phách có trường độ bằng 1 nốt đen trường độ phải bằng nhau, không được lúc gõ nhanh, lúc gõ chậm. 78 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 Ví dụ 4: rèn luyện đọc tên nốt và nhớ vị trí nốt trên khuông nhạc sẽ không bị lúng túng trong khi đọc cao độ và khiến việc đọc cao độ trở nên nhanh và dễ dàng hơn. Các em GV đưa ra những mẫu nhịp cơ bản như 2/2, 2/4, 4/4, sẽ không mất thời gian vào việc dịch tên nốt khi chuyển 3/4, 6/8 cho SV đọc và phân tích phách của mỗi loại nhịp sang bước luyện tập đọc cao độ nốt nhạc. nhiều lần nhằm mục đích giúp các em nghi nhớ tính chất Ví dụ 6: Bài xướng âm [1; tr 15] nhịp, các phần của phách cũng như các phách mạnh nhẹ trong chuyển động của các loại nhịp. 2.2.1.2. Rèn luyện đọc tiết tấu Rèn luyện tiết tấu được thực hiện từ giai đoạn đơn giản đến phức tạp. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi đưa 2.2.2. Rèn luyện kĩ năng đọc cao độ ra những hình mẫu từ cấp độ dễ đến khó phù hợp với đối tượng SV ngành GDMN. 2.2.2.1. Đọc gam và hợp âm rải Trong đào tạo phân môn Xướng âm cho SV ngành - Giai đoạn 1: Rèn luyện đọc và gõ âm hình tiết tấu GDMN, tôi nhận thấy rằng việc đọc đúng gam và hợp Trong giai đoạn này, GV cung cấp những âm hình âm rải giúp SV ghi nhớ vị trí âm thanh của các nốt nhạc, tiết tấu dễ và cơ bản như trường độ nốt tròn, nốt trắng, phân biệt được nốt nào đọc cao hơn, nốt nào đọc thấp nốt đen, nốt đơn, nốt kép, nhóm nốt đen kết hợp nốt đơn, hơn. GV cần giới thiệu cho SV về giọng và gam, phân nhóm nốt đơn kết hợp nốt kép, nhóm nốt kép kết hợp nốt tích khoảng cách đặc điểm về cao độ cung và nửa cung đen, nốt chấm dôi. SV sẽ tập đọc các nhóm tiết tấu đơn của các bậc trong gam trưởng và gam thứ. Sau đây, tôi lẻ (từng ô nhịp) nhiều lần từ chậm đến nhanh cho đến khi chỉ đề cập tới hai gam chính đó là gam trưởng tự nhiên đọc được thuần thục từng nhóm tiết tấu. và thứ tự nhiên. Ví dụ 5: Ví dụ 7: Gam C dur tự nhiên - Giai đoạn 2: Sau khi luyện các âm hình tiết tấu đơn lẻ theo ở giai đoạn một, cứ kết thúc một chuỗi âm hình, SV có thể tự ghép các âm hình tiết tấu đó với nhau để tạo thành một chuỗi tết tấu tổng hợp để luyện tập. Có thể Ví dụ 8: Gam a moll tự nhiên ghép các âm hình dễ với nhau, cũng có thể sắp xếp các âm hình dễ xen kẽ với âm hình khó, khi đã thuần thục các em có thể ghép các chuỗi âm hình khó liên tiếp nhau để kết hợp rèn luyện tiết tấu, đồng thời rèn được cả phản Thông thường, GV có thể lấy cao độ tuyệt đối trên xạ nhanh nhạy trong quá trình tập luyện. Khi đọc chuyển đàn cho âm chủ của giọng nào đó để hướng dẫn SV đọc giữa các dạng tiết tấu, từ nhóm tiết tấu phức tạp (đảo gam. Tuy nhiên, GV nên chọn độ cao phù hợp với đặc phách, nghịch phách, ...) hay nhóm tiết tấu phải đếm điểm giọng hát của SV để khi vào đọc bài xướng âm cụ nhanh (chùm 4 nốt móc kép) sang nhóm tiết tấu đơn giản thể các em không phải thay đổi độ cao âm chỉ đã chọn. (nốt đen, nốt móc đơn), một phần không ít SV thường Khi đọc gam, GV hướng dẫn SV đọc chậm theo bước gặp phải vấn đề cuốn nhịp. Do vậy, để đọc tốt, thực hiện lần từ bậc I ở quãng tám thứ nhất đến bậc I ở quãng tám tốt các dạng tiết tấu khác nhau, các em cần phải giữ nhịp thứ hai. Dù là giọng trưởng hay giọng thứ thì đều đọc ổn định và đều đặn. gam từ dưới lên trên rồi tiếp tục từ trên xuống dưới. Đồng - Giai đoạn 3: Đọc tên nốt nhạc theo tiết tấu thời, GV hướng dẫn các em khi đọc mỗi bậc thì cần phải Đây là một phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc tiết ghi nhớ khoảng cách cao độ giữa các bậc với nhau. GV tấu giúp SV hình thành phản xạ về tiết tấu, nhận biết tên có thể đàn để lấy âm chủ rồi cho SV đoán bằng cách và vị trí của nốt nhạc trên khuông nhạc. Cách đọc này xướng âm nốt đằng sau nốt cô vừa đàn. Với phương pháp hỗ trợ phần lớn vào việc đọc cao độ nốt nhạc. SV được này các em sẽ có kĩ năng đánh giá được vị trí âm thanh 79 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 mình vừa xướng âm lên có chính xác hay không. Điều quãng 2, quãng 3, quãng 4, quãng 5. Các quãng 6, quãng này cũng góp phần vào việc nâng cao thính giác âm nhạc 7, quãng 8 hơi quá sức đối với các em. Giờ đầu tiên của của các em. giọng mới chỉ nên luyện các quãng 2, quãng 3. Giờ sau thêm quãng 4, quãng 5. GV nên lựa chọn tiết tấu thích Đọc hợp âm rải là một phần rất quan trọng trong bước hợp để việc luyện quãng hiệu quả hơn. đầu tiên của việc rèn luyện cao độ. Thường được tiến Ví dụ 12: Luyện quãng 2 trong giọng C dur hành sau khi luyện đọc gam. Việc đọc nhiều lần hợp âm rải sẽ hỗ trợ các em trong việc ghi nhớ vị trí âm thanh của các âm chính và âm ổn định trong gam từ đó các em sẽ Ví dụ 13: Luyện quãng 3 trong giọng C dur có những điểm tựa để có thể kiểm tra một cách chính xác âm thanh mà mình đọc được. Đọc hợp âm rải được tiến Luyện quãng nên được thực hiện dựa vào gam để hành với 3 hợp âm chính của bậc I (T, t), hợp âm bậc IV giúp SV nghe, phân tích và ghi nhớ được đó là màu sắc (S, s) và hợp âm bậc V (D hoặc D7). SV có thể dựa vào của quãng gì (quãng trưởng, quãng thứ, quãng đúng, ba hợp âm này để đọc các nét nhạc hay gặp trong các bài quãng tăng, quãng giảm). xướng âm và để tìm cao độ trong bài xướng âm. Đọc hợp Ví dụ 14: Quãng 4 trong giọng C âm rải thường được đọc từ dưới lên trên rồi đi xuống. - Đọc hợp âm rải của chủ bậc I Ví dụ 9: C dur và a moll Ví dụ 15: Quãng 5 trong giọng C dur - Đọc hợp âm bậc IV Việc ghi nhớ và thuộc lòng màu sắc của quãng là rất tốt vì nó sẽ đi vào tiềm thức của người học. Khi đọc một Ví dụ 10: C dur và a moll bài xướng âm mới, các em sẽ tự nhớ ra được các quãng tương tự với những quãng trong trí nhớ mà không cần dựa vào âm chính hay âm ổn định hoặc dựa vào một quãng nào đó để tìm ra âm thanh. Đó cũng chính là mục - Đọc hợp âm V7 đích của việc rèn luyện kĩ năng đọc quãng. Ví dụ 11: C dur và a moll 2.2.3. Rèn luyện kĩ năng đọc sắc thái Trong tác phẩm âm nhạc, bên cạnh những kí hiệu để ghi nhạc còn một loại thuật ngữ rất hay sử dụng để chỉ tính chất, tình cảm của tác phẩm âm nhạc đó là sắc thái. Để chỉ diễn tả sắc thái người ta sử dụng những kí hiệu bằng ngôn Khi đọc các âm rải, GV nên đàn mẫu một vài lần ngữ, trong đó tiếng Ý là phổ biến được dùng để ghi trên trước khi tự cho SV tìm ra các âm cho hợp âm. Trên thực các bản nhạc. Việc thể hiện đúng sắc thái tình cảm của bản tế, khả năng âm nhạc của SV ngành GDMN có hạn chế nhạc là điều rất cần thiết cho việc rèn luyện cách xử lí tác hơn các bạn SV chuyên nghiệp về âm nhạc. Nên những phẩm âm nhạc và cảm thụ âm nhạc một cách sâu sắc. bước đầu, GV cần phải cho các em đọc đi đọc lại gam Đồng thời là phương pháp rèn luyện cho người học cách nhiều lần dưới sự hướng dẫn của cô. Sau đó để các em tự thể hiện bản nhạc một cách trọn vẹn, sự tinh tế, rung động nhớ và đọc lần các âm trong hợp âm. cũng như sự cảm thụ âm nhạc của mỗi SV. 2.2.2.2. Kĩ năng đọc quãng 2.2.3.1. Kĩ năng thể hiện cường độ, nhịp độ Việc luyện đọc quãng thường được tiến hành sau khi Trước hết, GV cần cung cấp cho SV hệ thống các kí đọc gam. Có hai loại luyện đọc quãng: hiệu bằng ngôn ngữ về cường độ trong âm nhạc. Ngay cả - Luyện đọc các quãng nằm trong điệu thức khi SV đã biết về những kí hiệu sắc thái đó, GV vẫn nên - Luyện đọc các quãng nằm ngoài điệu thức nhắc lại hoặc có thể đặt câu hỏi để kiểm tra kiến thức đã học. Đối với trình độ của SV ngành GDMN chỉ nên áp Ví dụ 16: Bài xướng âm [5; tr 47] dụng luyện đọc quãng nằm trong điệu thức. Thông thường với đối tượng SV ngành GDMN chủ yếu đọc các 80 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 Trong bài xướng âm này, GV đặt câu hỏi về các kí hiệu hơi ra theo từng nốt nhạc mà cố gắng giữ cho bụng tương chỉ cường độ trong âm nhạc như: p, pp, mp, cresc., sf, dim. đối ổn định, mềm mại. Âm thanh phát ra phải nhẹ nhàng, GV hướng dẫn SV khi gặp kí hiệu p thì giọng đọc nhẹ, êm gọn tiếng, linh hoạt, rõ ràng từng âm một. Trong âm ái. Với kí hiệu pp giọng đọc phải rất nhẹ, khi gặp kí hiệu nhạc, việc sử dụng cách đọc staccato để diễn tả tình cảm cresc. phải đọc to dần lên, tiếp đến kí hiệu dim thì đọc nhỏ rộn ràng, vui tươi, nhí nhảnh, hoặc tiếng chim hót... dần. Với kí hiệu mp, SV cần đọc nhẹ vừa, kí hiệu sp thì Ví dụ 19 [2; tr 89] chỉ đọc nhẹ những nốt xuất hiệu kí hiệu này. Tưởng chừng nhìn vào những đoạn nhạc đơn giản và tiết tấu không khó, nhưng việc xử lí sắc thái liên tiếp khiến cho đoạn nhạc trở 3. Kết luận nên thú vị và nhiều thử thách hơn. Nếu SV học tốt kĩ năng Tóm lại, nếu như nói Xướng âm là môn học mang thể hiện sắc thái sẽ giúp các em dễ dàng xử lí tình cảm tính cơ hữu trong hệ thống chương trình đào tạo âm nhạc, trong các tác phẩm âm nhạc, từ đó hình thành nên thị hiếu đặc biệt là đối với quá trình đào tạo GV mầm non thì việc thẩm mĩ. Xướng âm một đoạn nhạc không đơn thuần chỉ rèn luyện để hình thành các kĩ năng thực hành khi học đọc đúng tên nốt, đúng tiết tấu mà hơn nữa là việc thể hiện môn Kí xướng âm là một trong những mắt xích đầu tiên chúng giống như những bài hát, có lúc dịu dàng tha thiết, hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình học âm có lúc mạnh mẽ, dồn dập. nhạc. Đó là kĩ năng chuyên môn không thể thiếu đối với Trong bài xướng âm ở ví dụ có kí hiệu Andante công việc dạy học âm nhạc tại các trường mầm non. Đó nghĩa là cần phải đọc bài xướng âm này với tốc độ chậm cũng là điều kiện cần trong năng lực chuyên môn của một vừa. Ngoài ra trong âm nhạc Việt Nam người ta còn sử người GV âm nhạc trong tương lai mà một SV ngành dụng kí hiệu sắc thái bằng ngôn ngữ tiếng Việt như: trong GDMN cần phải có. Để đạt hiệu quả chất lượng tốt trong sáng, nhẹ nhàng, duyên dáng, vừa phải, nhắn nhủ, tình dạy học phân môn này, GV cần cung cấp kiến thức nền cảm, vui vẻ... tảng đồng thời đưa ra các bước dạy học trình tự, hợp lí Ví dụ 17: Bài xướng âm [5; tr 57] và phù hợp với khả năng học tập của đặc thù SV ngành này. Chúng tôi hi vọng rằng vấn đề nêu trên là những giải pháp thiết thực và mang lại hiệu quả cao trong công tác giảng dạy phân môn Xướng âm cho SV ngành GDMN tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành kĩ năng đọc đúng sắc thái bài xướng âm là đọc đúng trọng âm của loại nhịp. Mỗi một loại nhịp hình thành trọng âm khác nhau. Ví dụ nhịp 2/2 trọng âm rơi Tài liệu tham khảo vào phách thứ nhất, phách thứ hai không có trọng âm. [1] Hoàng Hoa - Phạm Phương Hoa (2000). Giáo trình kí Tuy nhiên, ở nhịp ¾ trọng âm rơi vào phách thứ nhất, xướng âm trình độ I. Bộ Văn hoá thông tin - Nhạc viện phách thứ hai và phách thứ ba không có trọng âm. Việc Hà Nội. nhấn đúng trọng âm ở mọi loại nhịp cũng là một phần [2] Nguyễn Trung Kiên (2001). Phương pháp sư phạm thanh trong rèn luyện kĩ năng thể hiện sắc thái. nhạc. Bộ Văn hoá thông tin - Nhạc viện Hà Nội. [3] Phạm Thị Hoà - Ngô Thị Nam (2011). Giáo dục âm nhạc 2.2.3.2. Kĩ năng đọc liền hơi liền tiếng và rời tiếng (tập I). NXB Đại học Sư phạm. Đọc liền giọng là cách đọc chuyển tiếp liên tục đều [4] Phạm Tú Hương (2005). Lí thuyết âm nhạc cơ bản. NXB đặc từ âm nọ sang âm kia tạo nên những câu hát liên tiếp Giáo dục. không ngắt quãng. Người ta thường xử dụng thuật ngữ [5] Phạm Tú Hương - Phạm Thanh Vân (2000). Giáo trình kí “legato”, hoặc dấu nối hình vòng cung đặt lên trên hoặc xướng âm trình độ II. Bộ Văn hoá thông tin - Nhạc viện phía dưới các nốt cần luyến âm, tạo cho bài hát hay bài Hà Nội. xướng âm những đường nét mềm mại, dàn trải... [6] Doãn Mẫn (1980). Phương pháp xướng âm. NXB Ví dụ 18 [2; tr 89] Văn hoá. [7] Nguyễn Đắc Quỳnh (1993). Giáo trình xướng âm năm thứ nhất. Trường Cao đẳng Sư phạm nhạc hoạ Trung ương. [8] Lê Đức Sang - Hoàng Công Dụng - Trịnh Hoài Thu Đọc rời tiếng hay còn gọi là “staccato” là cách đọc (2008). Giáo trình âm nhạc và múa (dùng cho hệ Cao ngắt, nảy của từng âm. Staccato thường được kí hiệu đẳng Sư phạm mầm non). NXB Giáo dục. bằng dấu (.) được đặt ở bên trên nốt nhạc. GV hướng dẫn [9] Trịnh Hoài Thu (2011). Phương pháp dạy học Kí xướng SV nén hơi thở liên tục và đẩy nhẹ nhàng, không nên bật âm. NXB Âm nhạc. 81
File đính kèm:
- phuong_phap_ren_luyen_ki_nang_xuong_am_trong_day_hoc_phan_mo.pdf