Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt

Tiếng Việt và tiếng Hán là hai ngôn ngữ cùng loại hình và có mối quan hệ gắn bó về lịch sử. Sự tương đồng về loại hình này dẫn tới một hệ quả tất yếu là điểm giống nhau giữa hai ngôn ngữ này về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp là rất nhiều và điểm khác biệt là rất ít. Thực tế đã chứng tỏ rằng, biết vận dụng những điểm tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại để học tiếng Hán hiện đại là một cách học tốt, vì cách học này giúp người học rút ngắn thời gian, đạt hiệu quả cao hơn. Bài viết này giới thiệu phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại thông qua mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán Việt.

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 1

Trang 1

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 2

Trang 2

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 3

Trang 3

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 4

Trang 4

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 5

Trang 5

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 6

Trang 6

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 7

Trang 7

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 8

Trang 8

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 9

Trang 9

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Trúc Khang 08/01/2024 4820
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt

Phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại dựa vào mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán việt
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
70 
PHƢƠNG PHÁP HỌC TỪ VỰNG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI DỰA VÀO 
MỐI LIÊN HỆ VỀ NGỮ ÂM, NGỮ NGHĨA VỚI TỪ HÁN VIỆT 
Đào Mạnh Toàn1 
Lê Hồng Chào1 
TÓM TẮT 
Tiếng Việt và tiếng Hán là hai ngôn ngữ cùng loại hình và có mối quan hệ gắn 
bó về lịch sử. Sự tương đồng về loại hình này dẫn tới một hệ quả tất yếu là điểm 
giống nhau giữa hai ngôn ngữ này về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp là rất nhiều và 
điểm khác biệt là rất ít. Thực tế đã chứng tỏ rằng, biết vận dụng những điểm tương 
đồng giữa tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại để học tiếng Hán hiện đại là một cách 
học tốt, vì cách học này giúp người học rút ngắn thời gian, đạt hiệu quả cao hơn. Bài 
viết này giới thiệu phương pháp học từ vựng tiếng Hán hiện đại thông qua mối liên 
hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa với từ Hán Việt. 
Từ khóa: Từ Hán Việt, phương pháp học tiếng Hán hiện đại, quan hệ ngữ nghĩa, 
quan hệ ngữ âm 
1. Vài nét về từ Hán Việt 
1.1. Khái niệm từ Hán Việt 
Truy nguyên về những khởi thảo 
luận bàn về từ Hán Việt, chúng ta có thể 
lấy các học giả sau đây để làm đại diện 
nhƣ: Maspéro (1912) cho rằng “Âm 
Hán Việt đƣợc phát triển dựa trên ngữ 
âm phƣơng ngữ Tràng An thế kỷ IX-
X”, ngƣợc về cột mốc lịch sử trƣớc đó, 
cũng đã có các học giả nhƣ Huỳnh Tịnh 
Của Paulus Của (1895), Trƣơng Vĩnh 
Ký (1889), trƣớc nữa là A. de Rhodes 
(1651). Khi biên soạn Đại Nam quốc 
âm tự vị, tác giả Huỳnh Tịnh Của 
Paulus Của (1895) đã quan tâm đến 
những “tự” đƣợc viết bằng chữ Nho, 
chữ Nôm và những tác giả này đã có 
bàn luận về từ Hán Việt nhƣng chỉ là 
khởi thảo. 
Lê Ngọc Trụ (1993) [1, tr. 25], 
“Khi xét tiếng Hán - Việt với tiếng Việt 
chuyển gốc Hán-Việt thì lại nhận thấy 
có 2 giai đoạn: 
1) Mượn chữ Hán phát âm theo 
giọng Trường An, nghĩa là mượn thẳng 
nơi giọng Trung Hoa, trong thời kỳ Bắc 
thuộc, do các quan lại Trung Hoa 
“dạy” ra. 
2) Mượn tiếng Hán - Việt, nghĩa là 
chữ Hán đọc theo giọng Việt Nam, hình 
thành thời tự chủ, nhất là thời Lý, hơn 
hai trăm năm, ít chịu ảnh hưởng của 
quan lại Trung Hoa, phiên thiết theo bộ 
Thiết vận, nhưng lại phát âm theo giọng 
Việt Nam thành tiếng Hán - Việt lưu 
hành cho tới nay”. 
Phan Ngọc (2000) trong giáo trình 
Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi 
chính tả, cho rằng: “Xét về mặt lịch sử, 
một từ Hán Việt là một từ được viết ra 
bằng chữ khối vuông của Trung Quốc, 
nhưng lại phát âm theo cách phát âm 
Hán Việt, người Việt vẫn dùng để đọc 1Trƣờng Đại học Đồng Nai 
Email: toan.daomanh@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
71 
mọi văn bản viết bằng chữ Hán, dù đó 
là của người Hán mà không có chữ Hán 
Việt” [2; tr. 11]. 
Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc 
và quá trình hình thành cách đọc Hán 
Việt, cho rằng “Cách đọc Hán - Việt 
thường được giải thích một cách khá 
đơn giản là cách đọc chữ Hán ở Việt 
Nam, theo lối đọc riêng của người Việt. 
Kể ra với một nội dung hiểu như thế mà 
đặt ra thuật ngữ “cách đọc Hán - Việt” 
thì quả cũng có điều chưa thực ổn. 
Nhưng vì thuật ngữ đã quá quen thuộc 
nên ta vẫn tạm dùng” [3, tr. 18]. 
Theo Nguyễn Công Lý (2003), “Từ 
Hán Việt là lớp từ ngữ mà người Việt 
vay mượn của tiếng Hán; đọc theo âm 
đọc đời Đường, ngữ âm vùng Tràng An, 
và những từ ngữ ấy được người Việt 
phương Nam nhận thức và sử dụng theo 
cách riêng mình” [4, tr. 7]. 
Huỳnh Thanh Xuân (2003) quan 
niệm “Từ Hán Việt là những từ gốc 
Hán được thu nhập vào trong tiếng 
Việt. Cách đọc từ Hán Việt, hay còn gọi 
là âm Hán Việt là đọc theo âm Việt 
những từ gốc Hán” [5, tr. 6]. 
Theo Lê Xuân Thại (2005), muốn 
hiểu thế nào là từ Hán Việt, trƣớc hết 
phải xem xét thế nào là cách đọc Hán 
Việt [6, tr. 9-11]. Tác giả cho rằng 
“Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ 
Hán của người Việt bắt nguồn từ hệ 
thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường, 
chịu sự chi phối của hệ thống ngữ âm 
tiếng Việt” [6, tr. 10]; “những từ mượn 
gốc Hán đọc theo cách đọc Hán Việt 
như vậy được gọi là từ Hán Việt”. 
Nguyễn Văn Khang (2007) quan 
niệm: 1) “Tất cả những từ Hán Việt có 
ít nhất một lần được dùng trong tiếng 
Việt như một đơn vị từ vựng trong văn 
cảnh giao tiếp thì đều được coi là từ 
Hán Việt”; và 2) “Chấp nhận là từ Hán 
Việt ở những biến thể khác nhau khi 
chúng đảm bảo được các điều kiện như: 
biến thể đó tuy có thể “đọc chệch phiên 
thiết” nhưng còn tồn tại trong một kết 
hợp Hán Việt hoặc bản thân nó đã có 
sự phân bố sử dụng (ngữ nghĩa) với các 
biến thể khác cùng gốc” [7, tr. 131]. 
1.2. Phân loại từ Hán Việt 
Đây là phƣơng diện có nhiều kiến 
giải rất khác nhau. 
Vƣơng Lực (1948) trong bài viết: 漢
越語研究,嶺南學報,第九卷第一期 [8; 
tr. 8-9, tr. 58] dựa theo nguồn gốc đã 
chia từ ngữ tiếng Việt thành hai loại 
là tiếng Việt (nguyên văn: 越語 Việt 
ngữ) và tiếng Hán Việt (漢越語 Hán 
Việt ngữ) và dựa theo thời điểm hình 
thành, chia tiếng Hán Việt thành ba loại 
là tiếng Hán Việt cổ (古漢越語 cổ Hán 
Việt ngữ), tiếng Hán Việt (漢越語 Hán 
Việt ngữ) và ... iống nhau về 
ngữ âm, ngữ nghĩa của từ Hán Việt vào 
việc học từ vựng tiếng Hán hiện đại 
3.1. Khả năng phiên ghép từ 
Yêu cầu: 
(1) Phải biết đƣợc vốn từ Hán Việt 
cơ bản ( >= 600 từ). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
74 
(2) Phải biết đƣợc vốn từ PinYin 
(âm đọc Bắc Kinh) và cách đọc tƣơng 
ứng với âm Hán Việt ( >= 600 từ). 
(3) Kiểm tra tính đúng sai. 
X Y XY 
QUAN CHÚNG QUAN CHÚNG: khán giả 
/guān/ /zhòng/ /guānzhòng/ 
观 众 观众 
Trong đó: 
X: là từ Hán Việt (mang yếu tố bắt 
buộc). 
Y: là từ Hán Việt hoặc thuần Việt. 
XY: là từ Hán Việt hoặc X phải là 
từ Hán Việt và dựa vào đó có thể phiên 
sang tiếng Hán hiện đại. 
Dựa vào mô hình trên, xét các ví dụ 
sau đây: 
1) Âm tiết “安全 ” /ānquán/ bao 
gồm hai âm tiết Hán Việt là AN và 
TOÀN gộp thành, “安” là AN, “全” là 
TOÀN, khi ghép hai âm tiết Hán Việt 
này lại với nhau, chúng vẫn mang nghĩa 
là “AN TOÀN” nhƣ trong tiếng Việt. 
2) Âm tiết “跳舞” /tiàowǔ/ bao gồm 
hai âm tiết Hán Việt là KHIÊU và VŨ 
gộp thành, “跳” là KHIÊU, “舞” là VŨ, 
khi ghép hai âm tiết Hán Việt này lại 
với nhau, chúng vẫn mang nghĩa là 
“KHIÊU VŨ” nhƣ trong tiếng Việt. 
3) Âm tiết “同情” /tóngqíng/ bao 
gồm hai âm tiết Hán Việt là ĐỒNG và 
TÌNH gộp thành, “同” là ĐỒNG, “情” 
là TÌNH, khi ghép hai âm tiết Hán Việt 
này lại với nhau, chúng vẫn mang nghĩa 
là “ĐỒNG TÌNH” nhƣ trong tiếng Việt. 
4) Âm tiết “运动” /yùndòng/ bao 
gồm hai âm tiết Hán Việt là VẬN và 
ĐỘNG gộp thành, “运” là VẬN, “动” 
là ĐỘNG, khi ghép hai âm tiết Hán 
Việt này lại với nhau, chúng vẫn mang 
nghĩa là “VẬN ĐỘNG” nhƣ trong 
tiếng Việt. 
5) Âm tiết “女儿” /nǚér/ bao gồm 
hai âm tiết Hán Việt là NỮ và NHI gộp 
thành, “女” là NỮ, “儿” là NHI, khi 
ghép hai âm tiết Hán Việt này lại với 
nhau, chúng vẫn mang nghĩa là “NỮ 
NHI” nhƣ trong tiếng Việt. 
Ngoài ra, chúng ta có thể thông qua 
việc phiên ghép các từ để tạo ra từ mới, 
hay nói đúng hơn là phƣơng pháp 
ghép/thế từ vựng, cách này cần phải có 
sự kiểm tra và đối sánh với từ điển. 
Gọi X là một từ Hán Việt mang 
nghĩa gốc; Y là từ Hán Việt hoặc thuần 
Việt có thể thay thế đƣợc bằng những từ 
khác; XY: là từ Hán Việt hoặc X phải là 
từ Hán Việt và dựa vào đó có thể phiên 
sang tiếng Hán hiện đại. 
X + Y1,Y2,Y3, ... = XY1,2,3,...
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
75 
TỪ HÁN 
VIỆT 
TỪ HÁN VIỆT/THUẦN VIỆT 
TỪ GHÉP MỚI DỰA VÀO 
PHIÊN ÂM SUY RA 
TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI 
X Y1,2,3,  XY1,2,3,  
THỂ 
TÀI; THAO; TỪ; HỘI; LỰC; LỆ; 
DIỆN; PHÁCH; THỨC; HIỆN; 
HÌNH; NGHIỆM; DỤC;  
THỂ TÀI 体裁; THỂ THAO 
体操 ; THỂ TỪ 体词 ; THỂ 
LỰC 体力 ; THỂ LỆ 体例 ; 
THỂ DIỆN 体; THỂ PHÁCH 
体魄; THỂ THỨC 体式; THỂ 
HIỆN 体现; THỂ HÌNH 体型; 
THỂ NGHIỆM 体验 ; THỂ 
DỤC 体育; 
Tỉ dụ nhƣ: 
Khi chúng ta không biết từ“安全” 
/ānquán/: an toàn (có âm Hán Việt là 
AN TOÀN) trong tiếng Hán hiện đại 
đƣợc viết nhƣ thế nào, nhƣng khi 
chúng ta đã biết từ 安 trong từ “安排” 
/ānpái/có một âm Hán Việt là AN và 
một âm Hán Việt khác là BÀI; và từ 
全 trong từ “完全” /wánquán/: hoàn 
toàn (có âm Hán Việt là HOÀN 
TOÀN”, sau khi có các âm tiết liên 
quan, chúng ta tiến hành phiên ghép 
sẽ tạo thành âm tiết mới có nghĩa là 安
全 /ānquán/: AN TOÀN. Và dựa vào 
mô hình trên ta có thể ghép từ dựa 
trên âm Hán Việt của X nhƣ sau: AN 
ĐỊNH; AN PHẬN; AN HẢO; AN CƢ 
LẠC NGHIỆP; AN KHANG; AN 
LẠC; AN DÂN CÁO THỊ; AN NINH; 
AN BÀI; AN BẦN LẠC ĐẠO; AN 
TOÀN; AN TOÀN ĐẢO; AN TOÀN 
ĐĂNG; AN TOÀN ĐIỆN ÁP; AN 
TOÀN MÔN; AN NHIÊN; AN 
NHÀN; AN ỔN; AN TÂM; AN 
TÁNG; AN SINH; AN THẦN;... 
Hoặc nhƣ khi chúng ta không biết 
từ “国家” /guójiā/: quốc gia, nhà nƣớc 
(có âm Hán Việt là QUỐC GIA) trong 
tiếng Hán hiện đại có hình thức ra sao, 
nhƣng khi chúng ta đã biết từ 国 trong 
từ 中国 /zhōngguó/ có một âm Hán 
Việt là Trung và một âm Hán Việt là 
Quốc; và từ 家 trong từ 家庭 /jiātíng/ 
có một âm Hán Việt là Gia và một âm 
Hán Việt là Đình. Sau khi tiến hành 
phiên ghép, chúng ta sẽ có đƣợc từ 国
家 QUỐC GIA. 
Hoặc nhƣ, khi chúng ta không biết 
từ “商量” /shāngliáng/: thƣơng lƣợng, 
bàn bạc (Có âm Hán việt là THƢƠNG 
LƢỢNG) trong tiếng Hán hiện đại viết 
nhƣ thế nào, nhƣng khi chúng ta đã biết 
từ 商 trong từ 商店 /shāngdiàn/ có một 
Hán Việt là Thƣơng và một âm Hán 
Việt là Điếm; và trong từ 量 trong từ 重
量 /zhòngliàng/ có một âm Hán Việt là 
Trọng và một âm Hán Việt là Lƣợng. 
Sau khi tiến hành phiên ghép, chúng ta 
sẽ có đƣợc từ 商量 THƢƠNG LƢỢNG. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
76 
Trên đây là những từ đƣợc lấy làm 
ví dụ minh họa, hoặc có thể lấy những 
từ sau đây để minh họa rõ hơn: 
爱情: ÁI TÌNH; 安静: AN TĨNH; 
安排: AN BÀI; 安全: ANTOÀN; 办法: 
BIỆN PHÁP; 保护: BẢO HỘ; 保证: 
BẢO CHỨNG; 报名: BÁO DANH; 变
化: BIẾN HÓA; 标准: TIÊU CHUẨN; 
表示: BIỂU THỊ; 表演: BIỂU DIỄN; 
表扬: BIỂU DƢƠNG; v.v... 
Còn rất nhiều từ ta có thể tiến hành 
phiên ghép theo cách trên, điều này cần 
một vốn từ Hán Việt và tiếng Hán hiện 
đại nhất định để nhận biết, nếu nhƣ 
chƣa có đủ số lƣợng từ để nhận biết thì 
cần tra cứu thêm ở từ điển để kiểm tra 
tính đúng sai của từ. 
Ngƣời học, nếu chú ý kỹ, trong 
những từ Hán Việt, chúng ta sẽ thấy, 
thanh điệu trong tiếng Hán hiện đại 
cũng góp phần quy định từ Hán Việt. 
Khi biết từ Hán Việt, ngƣời học có 
thể thông qua lớp từ này để đọc hiểu 
đƣợc nhiều hơn những văn bản sử dụng 
từ Hán Việt nhƣ các thƣ tịch Việt Nam 
và Trung Quốc xƣa. 
3.2. Khả năng biểu đạt ý nghĩa 
Về phƣơng diện ngữ nghĩa, hầu nhƣ 
ai cũng thấy phần lớn các từ Hán Việt 
đều có một sắc thái ngữ nghĩa khác một 
cách khá rõ với các từ thuần Việt. Ðó là 
sắc thái “trang trọng”, hay “thi vị”, hay 
“cổ kính”, hay “bác học”, hay “mờ ảo” 
của các từ Hán - Việt (Cao Xuân Hạo, 
2007). Về phƣơng diện ngữ nghĩa, từ 
Hán Việt chiếm ƣu thế về mặt ngữ 
nghĩa so với từ thuần Việt. 
3.3. Có thể dựa vào Pinyin (phiên 
âm Bắc Kinh) để đoán nghĩa dựa trên 
vỏ ngữ âm 
Thông qua khảo sát, chúng tôi thấy 
đƣợc, số lƣợng từ Hán Việt có nghĩa 
giống hoàn toàn với nghĩa tiếng Việt 
hiện nay có tần suất sử dụng rất cao, 
chiếm tỷ lệ cao nhất là từ Hán Việt đa 
âm tiết (chủ yếu là từ song tiết), kế đến 
là từ Hán Việt đơn tiết. 
Để minh chứng cho nhận định trên, 
sau đây, cứ liệu sẽ đƣợc khảo sát thêm 
trong 5 câu đƣợc trích nguồn từ Bộ đề 
thi tiếng Hoa quốc tế HSK do Trung 
Quốc tổ chức, mã đề H41005. 
1. 在接受调查的学生中,有超过
百分之八十的人希望自己能有机会出
国留学,但只有大约百分之二十的人
已经开始申请国外学校。[tr. 1; Câu 1] 
2. 有能力的人可以把复杂的事情
变简单,而没能力的人却经常把简单
的事情变复杂。这就是这两种人的区
别。[tr. 1; Câu 7] 
3. 在教育孩子时,我们应该少批
评、多鼓励。孩子在受到表扬时,往
往会对自己更有信心,对学习的兴趣
也会更大,成绩当然会提高。[tr. 11; 
Câu 67] 
4. 社会的发展不能光看经济的增
长,还要重视环境的保护。环境如果
被污染了,经济的增长也无法为我们
带来美好的生活。[tr. 12; Câu 76] 
5. 这个省的大部分地方都是山,
高度一般在 4000 米以上。因为太
高,空气比别的地方少,刚到这里的
人会感觉身体不舒服,但过一段时间
之后,就会逐渐适应。[tr. 12; Câu 77] 
Dựa vào những từ in đậm trong 5 
câu trên, chúng ta có thể thấy đƣợc, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
77 
những từ này có nghĩa Hán Việt và 
nghĩa tiếng Việt hiện đại là hoàn toàn 
giống nhau mà không cần phải tra từ 
điển dịch thuật hay tầm nguyên từ điển, 
giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với 
nhau. Nếu nhƣ đi xa hơn nữa, xét về 
mặt ngữ âm, ngƣời học khi đã có đủ 
vốn từ cơ bản sẽ dễ dàng từ âm PinYin 
mà nghe ra đƣợc âm Hán Việt của từ 
vừa nghe hoặc đọc; và ngƣợc lại, sẽ từ 
âm Hán Việt mà truy nguyên ra đƣợc 
PinYin và tra tìm đƣợc chữ Hán cần 
dùng đến. 
Ví dụ, trong câu 4, ngƣời học tiếng 
Hán có số lƣợng từ 600 đến 1200 từ 
vựng cơ bản cũng đã nhận biết và liên 
hệ đƣợc thông qua việc phát âm. 
Thử xét những từ song âm tiết sau: 
STT CHỮ HÁN PHIÊN ÂM 
TỪ HÁN 
VIỆT 
NGHĨA TIẾNG 
VIỆT 
1 社会 /shèhuì/ Xã hội Xã hội 
2 发展 /fāzhǎn/ Phát triển Phát triển 
3 经济 /jīngjì/ Kinh tế Kinh tế 
4 增长 /zēngzhǎng/ Tăng trƣởng Tăng trƣởng 
5 重视 /zhòngshì/ Trọng thị Trọng thị; xem trọng 
6 保护 /bǎohù/ Bảo hộ Bảo hộ; bảo vệ 
7 污染 /wūrǎn/ Ô nhiễm Ô nhiễm 
8 经济 /jīngjì/ Kinh tế Kinh tế 
9 增长 /zēngzhǎng/ Tăng trƣởng Tăng trƣởng 
10 无法 /wúfǎ/ Vô pháp Không có biện pháp 
11 美好 /měihǎo/ Mĩ hảo Mĩ hảo; tốt đẹp 
12 生活 /shēnghuó/ Sinh/sanh hoạt Sinh hoạt; cuộc sống 
Các từ đƣợc in đậm trên đều có 
điểm chung là, nghĩa của từ Hán Việt và 
nghĩa trong tiếng Việt hiện đại hoàn toàn 
giống nhau. Có thể nhận biết đƣợc, khi 
có sự trùng khớp này thì những âm tiết 
Pinyin đƣợc phát ra rất dễ đƣợc nhận 
biết và đoán đƣợc nghĩa của chúng. 
Trong các từ đƣợc in đậm trên, 
ngƣời học tiếng Hán có thể áp dụng 
phƣơng pháp ghép/thế từ vựng để tìm 
ra đƣợc rất nhiều từ mới, trên cơ sở đó, 
nếu nhƣ ngƣời học ngoại ngữ dựa trên 
2 kiểu quan hệ chủ yếu trong ngôn 
ngữ: 1) quan hệ tuyến tính và 2) quan 
hệ liên tƣởng thì kết quả đạt đƣợc sẽ 
cao hơn. 
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến 
sự hình thành trên? Lý do chính là giữa 
hai ngôn ngữ này có cùng loại hình 
ngôn ngữ. Điều này xảy ra trên các 
phƣơng diện: 
1) Đồng hóa cao về mặt ngữ âm. 
2) Đồng hóa về mặt hình thái - 
cấu trúc. 
3) Đồng hóa về mặt ngữ nghĩa. 
4) Tƣ duy thói quen ngôn ngữ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
78 
Tuy có sự đối ứng giữa từ Hán Việt 
và ý nghĩa của chữ Hán tƣơng ứng 
trong việc học từ vựng tiếng Hán 
hiện đại, nhƣng trong quá trình sử dụng, 
nên chú ý đừng quá lạm dụng từ Hán 
Việt khi chƣa biết rõ về từ cần dùng, để 
tránh sai sót hoặc hiểu nhầm vì có sự 
thay đổi về mặt ngữ nghĩa, hoặc không 
có sự đối xứng giữa âm Hán Việt với ý 
nghĩa của tiếng Hán hiện đại, thảng 
hoặc có sự đối xứng, cũng sẽ có sự sai 
khác về mặt ngữ nghĩa. 
Tỉ dụ nhƣ: 
1) Từ 到底 /dàodǐ/ âm Hán Việt là 
ĐÁO ĐỂ, nhƣng nghĩa lại không phải là 
“chỉ sự khôn lanh trong cƣ xử, không 
nhƣờng nhịn, không chịu thiệt, nghĩa nhẹ 
hơn của đanh đá” nhƣ trong tiếng Việt. 
Trong tiếng Hán hiện đại, xét về mặt từ 
loại thì thuộc Phó từ, có 3 nét nghĩa 1. 
Cuối cùng/Kết quả; 2. Rốt cuộc; 3. Xét 
đến cùng/Xét cho cùng [11, tr. 293], 
những nghĩa này không giống với nghĩa 
của từ ĐÁO ĐỂ trong tiếng Việt. 
2) Từ 困难 [11, tr. 853] /Kùnnán/ âm 
Hán Việt là KHỐN NẠN, trong tiếng 
Hán gồm 2 nét nghĩa: 
1. Rắc rối/khó khăn 
2. Nghèo khó/Khó khăn 
Ý nghĩa không mang nghĩa xấu xa 
“hèn mạt, đáng khinh” nhƣ từ “thằng khốn 
nạn, đồ khốn nạn” trong tiếng Việt, mà chỉ 
“đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn”. 
3) Từ “不过” [11, tr. 129] /Bùguò/ 
âm Hán Việt là BẤT QUÁ, nhƣng trong 
tiếng Hán hiện đại có 3 nét nghĩa: 
1. (Dùng sau cụm hình dung từ 
hoặc hình dung từ song âm tiết, biểu thị 
mức độ cao nhất) Nhất trên đời/Chẳng 
gì bằng/Cực kỳ/Hết mức. 
2. (Phó từ) biểu thị phạm vi thu hẹp) 
Chỉ có/vẻn vẹn/không quá/chỉ/mới có. 
3. Liên từ (đứng đầu phân câu sau, 
biểu thị sự trái ngược) Nhưng/Song/Chỉ 
có điều là. 
Ở tiếng Việt, từ “BẤT QUÁ” lại 
mang một sắc thái nghĩa hoàn toàn khác, 
với ý nghĩa là: “cùng lắm thì cũng chỉ...”. 
4) Từ 大家 [11, tr. 293]/Dàjiā/âm 
Hán Việt là ĐẠI GIA, và có những nét 
nghĩa sau đây: 
4.1) 大家 1 gồm 2 nét nghĩa: 
1. Chuyên gia nổi tiếng/đại 
gia/nhà ... nổi tiếng; 
2. Thế gia/đại gia 
4.2) 大家 2 chỉ mọi ngƣời, các 
bạn,... 
Còn trong tiếng Hán hiện đại để chỉ 
những ngƣời giàu có thì dùng từ 土
豪 /tǔ háo/ hoặc 大款 /dà kuǎn/. 
4. Một số ý kiến về vận dụng từ 
Hán Việt trong dạy và học tiếng Hán 
cho sinh viên học Ngữ văn nói chung 
và sinh viên học tiếng Hán hiện đại 
nói riêng 
4.1. Đối với người dạy 
- Đƣa ra những danh mục từ Hán 
Việt quen thuộc, có nghĩa trùng khớp 
với tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại, sau 
đó, mở rộng sang những từ có nhiều nét 
nghĩa, những từ khó hơn. 
- Khi vận dụng nên đƣa vào ngữ 
cảnh cụ thể, ví dụ nhƣ là một bài văn 
biền ngẫu, thơ Đƣờng, nhƣng những 
ngữ liệu này tất nhiên là bản chữ Hán, 
chƣa qua “biên chế”. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
79 
- Đƣa ra quy luật giúp ngƣời học 
suy luận nghĩa dựa trên hình - âm - 
nghĩa của từ. 
- Trong quá trình học, cần có từ 
điển tầm nguyên, từ điển Hán Việt để 
tra cứu, nhắc nhở sinh viên kiểm tra, đối 
chiếu, so sánh. 
4.2. Đối với người học 
- Cần học vốn từ cơ bản, những từ 
thƣờng dùng nhất, vốn từ cơ bản càng 
cao sẽ càng có lợi trong quá trình học. 
- Cần áp dụng những phƣơng pháp 
suy đoán từ vựng dựa trên từ Hán Việt 
đã biết nghĩa hoặc PinYin tƣơng ứng. 
- Cố gắng tìm những từ Hán Việt 
tƣơng ứng với tiếng Hán hiện đại để mở 
rộng vốn từ, dựa trên các bình diện ngữ 
âm, ngữ nghĩa, ngữ dụng. 
- Cần có đức tính chịu khó làm 
việc, tƣ duy phân tích, tổng hợp, chuyên 
tâm học tập. 
5. Kết luận 
Trên đây là một vài trao đổi về cách 
học từ vựng tiếng Hán hiện đại thông 
qua mối liên hệ về ngữ âm, ngữ nghĩa 
với từ Hán Việt. Hy vọng bài viết sẽ 
giúp ích cho việc học tiếng Hán hiện đại 
trên cơ sở vận dụng từ Hán Việt. Tuy 
nhiên, tiếng Hán hiện đại và từ Hán 
Việt vẫn có nhiều trƣờng hợp không 
hoàn toàn giống nhau về ngữ âm, ngữ 
nghĩa, cho nên vẫn cần chú ý đến việc 
đối chiếu khi sử dụng phƣơng pháp này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Ngọc Trụ (1993), Tầm nguyên tự điển Việt Nam, Nxb thành phố Hồ 
Chí Minh 
2. Phan Ngọc (2000), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb 
Thanh niên, Hà Nội 
3. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán 
Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 
4. Nguyễn Công Lý (2002), Mở rộng vốn từ Hán Việt, Nxb Đại học Quốc gia 
thành phố Hồ Chí Minh 
5. Huỳnh Thanh Xuân (2003), Từ Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại 
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 
6. Lê Xuân Thại (2005), Từ Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt trong SGK 
Ngữ văn THCS, Nxb Giáo dục, Hà Nội 
7. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội 
8. 王力 (1948), 漢越語研究, 嶺南學報、第九卷、第一期 
9. Lê Đình Khẩn (2002), Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc 
gia thành phố Hồ Chí Minh 
10. 郑捷、黄晓静 (2012), 新 HSK 考试系列四级词汇精讲精练, 上海译文出
版社 
11. Phan Văn Các (chủ biên) (2001), Từ điển Hán - Việt, Nxb thành phố Hồ 
Chí Minh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
80 
THE PHONE-SEMANTIC RELATIONSHIP BASED ON 
METHOD OF LEARNING MODERN CHINESE VOCABULARY 
ABSTRACT 
Vietnamese and Chinese are two languages with the same type and with a close 
relationship in term of history. As a result, this leads to inevitable consequence that 
the similarities between these two languages in phonetics, vocabulary, grammar and 
so on are numerous, and, therefore, the differences are rare. In fact, it has been 
proved that taking advantage of the similarities between Vietnamese and Chinese in 
learning modern Chinese helps learners shorten time and achieve higher efficiency. 
This article introduces the method of learning modern Chinese vocabulary through 
the phonetic and semantic connection to Han Vietnamese words. 
Keywords: Han-Vietnamese words, modern Han learning method, semantic 
relationship, phonetic relationship 
(Received: 21/2/2019, Revised: 21/3/2019, Accepted for publication: 7/5/2019) 

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_hoc_tu_vung_tieng_han_hien_dai_dua_vao_moi_lien.pdf