Phụ âm đầu "X" với diễn biến của những tổ hợp phụ âm tiền thân
Bài viết này được ra đời không phải từ mục tiêu truy nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt mà ý tứ nảy sinh từ quá trình khảo sát phương ngữ Thanh Hóa và đặc biệt, tại một đảo thổ ngữ của nó [21, 22]. Khi thu thập biến thể địa phương của phụ âm / s / (X) ở đây, chúng tôi thấy nổi lên ba điểm:
i. Đại bộ phận những từ ngữ chứa phụ âm X được thể hiện như trong tiếng Việt toàn dân. Tức là, X có đủ các tiêu chí hiện đại “xát, đầu lưỡi bẹt, vô thanh” [23, 163]. Hơn nữa, tất cả các từ ngữ chứa S đều bị đồng quy về X như trong phương ngữ Bắc Bộ (ví dụ: sâu sắc > xâu xắc, sáng sủa > xáng xủa ).
ii. Có lưu tích / c / (CH) được duy trì qua hai trường hợp: (ngồi) xổm < (ngồi) chồm hổm, ngã ngửa < bổ chẩng. Lưu tích này rất phổ biến ở khu vực Bắc Trung Bộ (Khu IV, như cách gọi bấy nay) và là kết quả biến đổi từ */ cʰ / sang X trước khi Việt-Mường tách khỏi nhau [2, 88]. Cũng có lưu tích / l / qua trường hợp xung quanh, chung quanh < lùng quanh. Chúng tôi sẽ còn quay lại với các trường hợp này ở phần sau của bài viết.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phụ âm đầu "X" với diễn biến của những tổ hợp phụ âm tiền thân
Sè 10 (204)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 1 Ng«n ng÷ häc vµ viÖt ng÷ häc phô ©m ®Çu "x" víi diÔn biÕn cña nh÷ng tæ hîp phô ©m tiÒn th©n THE INITIAL CONSONANT / s / (X) AND the EVOLUTION OF ITS former CONSONAl CLUSTERS ®ç tiÕn th¾ng (Khoa V¨n häc, §HKHXH & NV, §HQG Hµ Néi) Abstract The starting point of this article is some phenomena in Thanh Hóa dialect. The author realizes that there are many vestiges of historical phonetics connected to the initial consonant / s / (x). The author compares these vestiges in some different documents and notices that the phoneme / s / of modern Vietnamese language is fusions of */ bl / and */ kl / (or *kh) of Common Việt-Mường language. Moreover, many manners of monosyllablization and disyllablization of */bl/ was assembled (except compound and reduplication). 1. Bài viết này được ra đời không phải từ mục tiêu truy nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt mà ý tứ nảy sinh từ quá trình khảo sát phương ngữ Thanh Hóa và đặc biệt, tại một đảo thổ ngữ của nó [21, 22]. Khi thu thập biến thể địa phương của phụ âm / s / (X) ở đây, chúng tôi thấy nổi lên ba điểm: i. Đại bộ phận những từ ngữ chứa phụ âm X được thể hiện như trong tiếng Việt toàn dân. Tức là, X có đủ các tiêu chí hiện đại “xát, đầu lưỡi bẹt, vô thanh” [23, 163]. Hơn nữa, tất cả các từ ngữ chứa S đều bị đồng quy về X như trong phương ngữ Bắc Bộ (ví dụ: sâu sắc > xâu xắc, sáng sủa > xáng xủa). ii. Có lưu tích / c / (CH) được duy trì qua hai trường hợp: (ngồi) xổm < (ngồi) chồm hổm, ngã ngửa < bổ chẩng. Lưu tích này rất phổ biến ở khu vực Bắc Trung Bộ (Khu IV, như cách gọi bấy nay) và là kết quả biến đổi từ */ ch / sang X trước khi Việt-Mường tách khỏi nhau [2, 88]. Cũng có lưu tích / l / qua trường hợp xung quanh, chunh quanh < lùng quanh. Chúng tôi sẽ còn quay lại với các trường hợp này ở phần sau của bài viết. iii. Bây giờ xới cơm được dùng thay cho bới cơm nhưng xới cỏ, xới đất vẫn chưa phổ dụng mà thay vào đó là xáo cỏ, xáo đất; còn bới ‘để tìm’ thì giống ngôn ngữ toàn dân và có khi là bươi. Người ta cũng chỉ dùng xù, xù đầu mà không dùng bù, bù đầu... Trong tiếng Việt hiện đại, ta thấy có cả từ xới và bới (xới đất, bới đất, đào bới, cày xới), có cả từ xù và bù (xù đầu, bù đầu, bù xù) với những nét nghĩa khác nhau chút ít. Đây là điều bình thường vì “ những điểm mạnh của từng phương ngữ có thể góp phần vào ngôn ngữ toàn dân, cũng như để giúp cho các phương ngữ nhích lại ngôn ngữ toàn dân theo con đường ngắn nhất, phù hợp với cấu trúc nội bộ của từng phương ngữ” [3, 55]. ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 10 (204)-2012 2 Sự tồn tại của các cặp từ tương ứng như trên khiến chúng tôi có nghi vấn là liệu sự tương ứng B ~ X chỉ là hiện tượng riêng của tiếng Thanh Hóa hay là chung cho mọi miền và có phải là một diễn biến chung mang tính lịch sử? 2. Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi nương theo phương pháp lai nguyên của cố học giả Nguyễn Tài Cẩn trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, sơ thảo (1995). Qua đó, tình hình ngữ liệu thu được là như sau. i. Từ điển từ Việt cổ (2001) của Nguyễn Ngọc San và Đinh Văn Thiện có ban với tương ứng là san trong loạt kết hợp ban đất, ban nền, ban mả, ban đường, ban bằng; xẻn lẻn với nghĩa ‘nhút nhát, bối rối’ [19]. ii. Dictionarium Anamtico Latinum (1838) của Taberd AJ. L có các mục từ liên quan: ban, ban đất ; bới, bới cơm, bới đất, bới mẳ; xới, xới lên, xới cơm; xởi, đất xởi; bờm, bờm xờm [20]. iii. Tự vị Annam – Latinh (1772-1773) của Béhaine P. P. de – Bỉ Nhu Bá Đa Lộc thu thập bài xài: quần áo, đầu tóc xốc xếch; ban, ban đất: san bằng; bới: vạch ra; bới lá: vạch lá; bới cơm: xới cơm; bới mả: đào xác lên; xới: dùng dụng cụ lật lên (đất, cơm v.v để không dính), xới cơm, xới lên; xởi, đất xởi: đất vụn; bạt: cắt bỏ; bờm (ngựa), bờm xờm; xẩng trời [1]. iv. Từ điển Việt - Bồ – La (1651) của Rhodes A. de chưa có bới nhưng đã có bơi tương đương. Ở đây bơi được dịch giải là “bới, đào”, bơi mò là “bới đào mồ mả”. Đồng thời, mục xới cơm với dịch giải là “đảo cơm để khỏi đóng cục” cũng được thu thập [18]. v. Từ điển Mường – Việt (2002, Nguyễn Văn Khang chủ biên) ghi nhận dấu tích “p” ~ “x” trong tiếng Mường, tương tự “b” ~ “x hay “s” tiếng Việt: pỡi: bới (pỡi cơm, pỡi bóc..); xởi: xới (xởi cơm) [9]. vi. Từ điển phương ngữ tiếng Việt (2009, Phạm Văn Hảo chủ biên [8]) cung cấp một loạt từ ngữ rất có ích cho công việc của chúng tôi. Xin kể kể ra đây một số trường hợp: ban: san cho bằng phẳng; báng: sắn (trường hợp này cần tìm hiểu thêm nhưng lưu ý là từ điển của Béhaine P. P. de có mục bột báng: ‘thứ bột Ấn độ gọi là sagu’); bà xòa: lòa xòa, bù xù; bã xõa: lõa xõa; bẳn: xắn quần; bẩng, bẩng sáng ~ xẩng nắng, bẫng = hẫng; bệ sệ, bề sề, bè sè: có hình dáng thấp, xòe rộng ra; bớ: sờ; bời xời: tơi tả; bự xộn: khá to; bới cơm: xới cơm; xộn: bừa bãi, lộn xộn; lớn xộn: khá lớn; xẻn lẻn: b ... gian như: BL > TR/CH > GI/D, vd: blun > trùn > giun; BL > D > NH, vd: blũ > dúng > nhúng; BL > X > TH, vd: blài > xoải > thoải. Nhưng, như trên đã nói, việc giải thích cho lối đi, thời gian của các dạng trung gian là không dễ. Vả lại, có những trường hợp rất khó tìm dạng trung gian, như xới, xù, xõa, san (2) Như vậy, tình hình đã trở nên quá phức tạp và rắc rối song vẫn nằm trong khuôn khổ của phương thức biến đổi thứ tư mà Maspéro H. đã trù liệu: hai ba tổ hợp có thể nhập vào nhau để biến đổi [x. 13]. Hai kiểu Hòa đúc 5 và 6 có thể giúp chúng ta giải thích sự tồn tại của cách phát âm T, TH tương đương TR, S/X và ngược lại ở một số địa phương ven biển Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình (có câu nói vui: Con tâu tắng đứng bờ te đêm thao tháng – con trâu trắng đứng bờ tre đêm sao sáng). Nó cũng có thể giúp chúng ta hiểu thêm về trường hợp tâng/tưng (hửng). Đây có thể là một kiểu hòa đúc khác từ CHH hoặc là một dạng “lẫn” của BL và CHH, kể cả TL (ở Từ điển Việt – Bồ – La đã có hiện tượng “lẫn” BL với TL: có blái, blọn, blan, blang nhưng cũng có tlái, tlọn, tlan, tlang để cùng đưa đến trái, trọn, bàn, trăng. Đó là chưa kể, khi đối chiếu với tiếng Thà Vựng để tái lập quá khứ xa hơn nữa, Nguyễn Tài Cẩn còn phát hiện nguồn gốc T, TH của X tiếng Việt ở một số từ, bên cạnh nguồn chính là CHH [2, 88]. Cần phải nói thêm rằng, cách ghi của Rhodes A. de cho thấy sự tranh chấp không chỉ giữa BL với TL mà còn giữa BL với B, L, X. Chẳng hạn, bên cạnh blẹt lại có liẹt / liệt; bên cạnh blả tăóc lại có bói tăóc (búi tóc), xớp tóc; không có “blơi” nhưng đã có bơi (bới); vừa có blan , vừa có bàn; vừa có bơi (bới), vừa có xới Đặc biệt, nó còn cho thấy một ngữ lực mạnh mẽ của của tiếng Việt qua trường hợp kéo các từ đơn tiết của Hán (bàn, bại, liệt) vào cấu trúc C1C2VC. Chúng tôi nghĩ, các nghi vấn về sen, sáp, sức trở thành có tổ hợp âm đầu mà Nguyễn Tài Cẩn nêu ra cũng có thể được giải thích bằng sự “nhập làn” thú vị này [2, 114]. Niên đại của BL không dừng lại ở thế kỉ 17. Trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, một văn bản Nôm thuộc loại cổ nhất (thế kỉ 11 – 12) có ba lần từ bới xuất hiện. Điều đáng nói ở đây là bới vẫn còn dạng BL hay song tiết nên chữ Nôm viết bằng ba + lai [15, 59]. Rõ ràng quá trình biến đổi của một âm là lâu dài và rối rắm nhưng không thể phủ nhận một điều rằng tuy B có “tuổi đời” cao hơn X nhưng không trực tiếp biến đổi thành X. Đến đây đã có thể nêu nhận xét rằng: Ngoài nguồn gốc CHH, X còn là sản phẩm của quá trình hòa đúc tổ hợp phụ âm BL trong quá khứ. 5. Quá trình biến đổi từ tổ hợp C1C2, cụ thể là từ tổ hợp BL đến X mà chúng tôi trình bày như trên có thể gọi là xu hướng đơn tiết hóa. Vẫn còn một xu hướng phát triển quan trọng không kém xảy ra đối với tổ hợp này là song tiết hóa. Hiện tượng song tiết hay bán song tiết vốn là một dạng khởi thủy của tiếng Việt từ giai đoạn Proto Việt-Mường trở về trước, sau đó biến đổi thành đơn tiết [5, 322] mà nguyên nhân chủ yếu là do tiếp xúc với các ngôn ngữ đơn tiết (Tày-Thái, Hán). Khi đã trở thành đơn tiết, lại nảy sinh sự “tái cấu trúc” song tiết theo nhiều phương thức khác Sè 10 (204)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 7 nhau để làm giàu kho từ vựng, đáp ứng nhu cầu giao tiếp và tư duy ngày một phức tạp. Có hai phương thức “kinh điển” dễ dàng nhận ra là ghép nghĩa (vd: đào bới, bới đào, phù sũng, bại liệt) và láy âm (vd: bồm bộp, xôm xốp, chồm chồm, lờ lờ, mờ mờ, nhờ nhờ) từ các tiếng đã được đơn tiết hóa. Cũng còn rất nhiều điều cần thảo luận về Ghép và Láy nhưng không phải đối tượng của bài này. Ở đây, chúng tôi nói về các phương thức song tiết hóa khác. Trên đường đơn tiết hóa đến dạng CVC hiện nay, như đã biết, lại có thể có “quá độ” hay song hành với dạng C1C2VC, một dạng có số lượng từ lớn nhất thời Proto Việt- Chứt [2, 240]. Chính dạng này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi để song tiết hóa mà có thể chưa cần đến sự hoàn thiện của đơn tiết hóa. Chẳng hạn, mỗi yếu tố của tổ hợp phụ âm lại có thể “mở rộng” thành âm tiết riêng. Đây chính là phương thức thứ 5, âm tiết hóa mỗi yếu tố của tổ hợp mà Maspéro H. đã nêu [13]. Nhưng đó mới chỉ là phương thức chung. Thực tế còn nhiều phương thúc cụ thể, như dưới đây chúng tôi giải trình. Hiểu thấu ý tưởng của Maspéro H. và hướng đề xuất của Vũ Đức Nghiệu, Trần Trọng Dương đã rất thành công trong việc lí giải những câu thơ sáu chữ chen lẫn thể thất ngôn của Nguyễn Trãi bằng thao tác phục dựng dạng song tiết của cấu trúc C1C2VC [6]. Tiếp nối cách xử lí hiệu quả của nhà nghiên cứu trẻ này, chúng tôi tập hợp được 5 phương thức song tiết hóa (ngoài Ghép và Láy) từ quan hệ giữa B, X và L với tổ hợp BL như sau. I. Sản phẩm của phương thức Rụng trước – trên đây ghi là (1) – BL > L, hòa kết với sản phẩm của phương thức Hòa đúc – trên đây ghi là (3) – BL > X, đưa đến kiểu song tiết có cấu trúc L – X. Ví dụ: [ blẹt > lệt / lết + blẹt > sệt / xệt ] > lệt sệt / lệt xệt. (Chúng tôi dùng thuật ngữ hòa kết ở đây khác với hòa kết trong loại hình ngôn ngữ). II. Sản phẩm của phương thức Rụng sau – (2) – BL > B hòa kết với sản phẩm của Hòa đúc – (3) đưa đến kiểu song tiết có cấu trúc B – X. Ví dụ: [ blài > bải + blài > xải ] > bải xải /bài xài/ bài xoãi/bãi xoãi/ bải xoải. III. Sản phẩm của phương thức Rụng trước – (1) hòa kết với sản phẩm của phương thức Rụng sau – (2) đưa đến kiểu song tiết có cấu trúc L – B. Ví dụ: [ blẹt > lết + blẹt > bết ] > lết bết / lệt bệt. Lưu ý là ở phương thức này, trật tự của tổ hợp BL đã bị đảo thành L – B. IV. Chắp vần: lấy toàn bộ vần của âm tiết chính chắp vào yếu tố đầu của tổ hợp âm tiết, ví dụ: thòng lọng, thung lũng, thuồng luồng [6]. Trật tự BL ở phương thức này vẫn được giữ để đưa đến kiểu song tiết B – L như bẽn lẽn. V. Âm tiết hóa C1 như *mlem > ma lem, *mlanh > ma lanh, *blap > ba láp, *bkâu > bồ câu (ví dụ của Trần Trọng Dương, Vũ Đức Nghiệu [6]. Chúng tôi nghĩ rằng, có thể ở BL cũng có phương thức V như bồ liễu (cây thuỷ dương), bồ lao, bò lao (cái chuông) [11, 38]. Có thể theo dõi 5 phương thức hòa kết từ BL trong bảng dưới đây (3). (Chúng tôi cũng nêu thêm vài trường hợp được hòa kết từ CHH, TH). Tổ hợp phụ âm I = (1) + (3) L – X II = (2) + (3) B - X III = (1) + (2) L – B IV: Chắp vần C1 B – L V: Âm tiết hóa C1 B – L Blả Lòa xòa Bà xòa / bã xõa Blài Bải xoải Blẹt Lệt xệt/lệt Bệt sệt/bệp xệp Lệt bệt ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 10 (204)-2012 8 sệt *bl- Lù xù Bù xù *bl Lép xẹp Bẹp xẹp Lẹp bẹp *bl- Lờm xờm Bờm xờm *bl- Bệ sệ / bệ xệ *bl- Búa xua *bl- Bung xung *bl- Bụng xụng *bl- Bẻn xẻn Bẽn lẽn *bl- Lầm bầm *bl- Lang bang *bl- Lông bông *bl- Lụp xụp *bl- Lộn xộn *bl- Lăng xăng Băng xăng *bl /*pəl Bồ liễu *cho m Chồm hổm *chəŋ Châng hẫng *thəŋ Tâng hẩng Những phương thức đơn tiết hóa, song tiết hóa như vừa trình bày cho thấy một quy luật thú vị: Một số âm tiết có phụ âm dầu là biến đổi lịch sử của nhau lại có thể hòa kết với nhau thành nhiều tổ chức song tiết. Nắm được những phương thức này, chúng ta có thể xử lí được nhiều vấn đề lâu nay còn “tồn đọng” (nguyên nhân tồn tại câu thơ Nôm 6 chữ trong thể thất ngôn, lí do của hửng (nắng), hẫng (hụt) là những ví dụ). Nó cũng có thể có ích cho việc xác định các phương thức cấu tạo từ đa tiết, nhất là từ láy (chẳng hạn, khi gặp những sự phối âm có quy luật hẳn hoi như bù xù, bờm xờm, lệt bệt chúng tôi nghĩ đến kiểu “từ láy giả” đã xảy ra với kho từ gốc Môn-Khmer [16, 304], kho từ gốc Hán [14, 181] ). Những trường hợp gần gũi giữa tiếng Việt và tiếng Khmer cũng có thể tìm được lời giải thích từ các phương thức đó (4) 6. Trong khi khảo sát tiếng Thanh Hóa, chúng tôi còn gặp đối ứng / s / ~ / k / (X ~ Q) ở trường hợp xoăn ~ quăn và xáng (sáng) ~ quang. Nơi đây có lối nói rất nên được quan tâm như toóc quăn, con chùn quăn (loại giun xoắn mình khi lên khỏi đất), đao quằn (dao bị cong); chầư dứt quang (trời rất sáng). Có thể coi đây là một chứng tích lịch sử vì ngay trong ngôn ngữ toàn dân, chúng ta vẫn quan sát được tương ứng X ~ Q như xoẹt (lửa ) ~ quẹt (lửa), xoay ~ quay, xoắn (đuôi) ~ quắn (đuôi), xoắn xít ~ quấn quýt, sắt /xắt (lại) ~ quắt, xánh/sánh ~ quánh Trường hợp quá xá , theo logic này, quy vào tương ứng X ~ Q thì cũng có phần hợp lí. Dù chưa có tương ứng đều đặn nhưng nhóm từ chỉ sự ‘không thẳng’ có phụ âm đầu Q sau đây cũng gợi cho người bản ngữ liên tưởng tới X: (xung) quanh, (dao) quắm, quắp (nhau), (lông) quặm, (râu) quặp Kiểm chứng qua Từ điển Việt – Bồ – La chúng tôi thấy có quại, rắn đi quằn quại, có quằn quại = quại, có quay, rắn đi quay quắt, quay đầu, có quanh nhưng chưa có xoăn, xoay [18, 185 – 186]. Điều đó chứng tỏ vào thế kỉ 17, X chưa phải là phổ biến cho bối cảnh ngữ âm / sw /. Trong từ điển này còn trường hợp xuóc rác cùng một Sè 10 (204)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 9 nghĩa quét có thể có tương ứng Q ~ X. Đối chiếu với tiếng Mường chúng tôi cũng thấy chỉ có quăn, quằn, quay mà không thấy xoăn, xoắn, xoay [9, 406]. Do đó, hoàn toàn có thể xác lập tương ứng Q Mường ~ X Việt. Diễn biến ở khối từ Hán Việt, theo Nguyễn Tài Cẩn, trong 7 nguồn thượng cổ là xuất thân của X ngày nay, cũng có 2 nguồn có yếu tố *k (cụ thể là *kjh và *khi) [2, 300]. Chúng tôi cũng ngờ rằng nhóm từ này có nguồn gốc Hán hay Tày-Thái (tiếng Tày gọi dao quắm là tao kho, tóc quăn là p’ôm kho). Còn nữa, Hoàng Thị Châu cho biết vẫn có tổ hợp KL ở thế kỉ 18 [theo 14, 317]. Nếu vậy, rất có thể diễn ra quá trình Rụng sau thành K, Hòa đúc thành X (?). Thậm chí Từ điển Hoàng Phê còn thu thập khựng là đồng nghĩa với sững, chững. Vậy, tuy chưa có nhiều ngữ liệu nhưng đã có thể phải ghi nhận thêm một tiền thân nữa của phụ âm đầu X tiếng Việt hiện đại là một tổ hợp có */ k- / (kl hoặc kh) với niên đại chậm nhất là trước khi tiếng Việt và tiếng Mường chia tách nhau (Mường giữ lại K, Việt hòa đúc thành X trong khi vẫn còn K). 7. Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin tóm lược vài điều như sau: i. Kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại mang âm đầu / s / (X) xuất thân từ nhiều nguồn khác nhau: a) một số đến thẳng từ */ s / Hán thượng cổ; b) một số đến từ Hán thượng cổ nhưng qua trung gian */ ɕ / hay */ t’h / (“th bật hơi”); c) một số đên từ */ ch / (“ch bật hơi”); d) số khác được hòa đúc từ tổ hợp */ bl /; số ít hơn có thể được hòa đúc từ tổ hợp */ kl / hay */ kh /. Ba nguồn sau đều có niên đại là giai đoạn Việt-Mường Chung. ii. Dạng thức C1C2VC có thể được đơn tiết hóa theo ba phương thức: Rụng trước, Rụng sau và Hòa đúc. / s / (X) là sản phẩm của phương thức thứ ba. iii. Ngoài phương thức ghép và láy, còn 5 phương thức song tiết hóa từ dạng thức C1C2VC: a) Rụng trước hòa kết với Hòa đúc; b) Rụng sau hòa kết với Hòa đúc; c) Rụng trước hòa kết với Rụng sau; d) Chắp vần vào C1 và e) Âm tiết hóa C1. _________________________ (1) Nguyễn Tuấn Cường đã chứng minh một cách thuyết phục là có cả TR (trắn/ trấn) [4]. Đây là kiểu Hòa đúc 2 rất phổ biến của BL (blấn > trấn, tương tự như blời > trời). Nguyễn Văn Lợi cho rằng thế kỉ 17 cũng đã có D, GI để ghi các âm “hữu thanh thở” [12]. (2) Có thể dạng trung gian chỉ xảy ra ở các trường hợp “lẫn” giữa BL và TL nhưng điều này cần được khảo kĩ hơn bằng cứ liệu chữ Nôm, chẳng hạn. (3) Đôi khi trật tự các âm tiết trong khuôn L – X, B – X, L – B có thể đảo như xẻn lẻn, xô bồ, bông lông. Đây là xu thế chung của sự hòa kết chứ không riêng BL [xem 5]. Chúng tôi cũng chỉ nêu dạng tiêu biểu, không nêu hết các biến thể khác như lờm chờm, chờm bờm, lờm chờm (4) Ví dụ: t’reils ~ (cá) lóc = (cá) tràu = (cá) sộp / xộp (vd của Nguyễn Hùng Vĩ, Từ điển Việt – Bồ – La ghi là cá sợp), sbep ~ xẹp / bẹp > bẹp xẹp, t’nɔt ~ thốt nốt Tài liệu trích dẫn 1. Béhaine P. P de (1772-17730), Tự vị Annam Latinh, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, NXB Tp Hồ Chí Minh, 1999. ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 10 (204)-2012 10 2. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt – sơ thảo, NXB Giáo dục. 3. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Nguyễn Tuấn Cường (2005), Truyện Kiều: Thử tìm hiểu một âm đọc cổ của chữ Nôm vẫn đọc là “Dấn / Giấn”, Tạp chí Hán Nôm, số 5 – 2005, tr. 58 – 64. 5. Trần Trí Dõi (2011), Một vài vấn đề nghiên cứu so sánh – lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 6. Trần Trọng Dương (2012) Giải mã những câu thơ sáu chữ trong Quốc âm thi tập từ ngả đường ngữ âm học lịch sử, (sắp công bố). 7. Ferlus M. (1992), Histoire abrégée de l'evolution des consonne initiales du Vietnamien et du SinoVietnamien - MonKhmer Studies, 20. 8. Phạm Văn Hảo (chủ biên, 2009), Từ điển phương ngữ tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội. 9. Nguyễn Văn Khang (chủ biên, 2002), Từ điển Mường – Việt, NXB Văn hóa Dân tộc. 10. Vũ Văn Kính (1999) Đại tự điển chữ Nôm, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu Quốc học. 11. Vương Lộc (2005), Từ ngữ lịch sử, Từ ngữ văn thơ Nôm, NXB Nghệ An. 12. Nguyễn Văn Lợi (2010), Phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỉ XVII (Trên cơ sở Ditionarium Annamiticum Lusiannum et Latinum (Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin) của A. de Rhodes, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 5 (7), 9 – 2010, tr..16 – 29. 13. Maspéro H. Etudes sur la phonétique historique de la langue Annamite, Les Innitiales. BEFEO Vol.12. no1. 1912. 14. Vũ Đức Nghiệu (2011), Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia HN. 15. Hoàng Thị Ngọ (1999), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu an trọng kính, NXB Khoa học Xã hội. 16. Phan Ngọc (1986), Một số từ Việt cùng gốc với từ Khơme trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, Ủy ban Khoa học Xã hội. 17. Hoàng Phê (chủ biên), 2009), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 18. Rhodes A. de (1651), Từ điển Annam-Lusitan-Latinh (Việt – Bồ – La), NXB Khoa học Xã hội, 1991. 19. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (2001), Từ điển từ Việt cổ, NXB Văn hóa Thông tin.. 20. Taberd A J. L. (1838), Dictionarium Anamtico Latinum, NXB Văn học, 2004. 21. Đỗ Tiến Thắng (1988) Góp ý thêm về một ranh giới phương ngôn, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Những vấn đề ngôn ngữ học, Khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. 22. Đỗ Tiến Thắng (2009) Những chứng tích ngữ âm lịch sử trong đảo thổ ngữ Vĩnh Gia, Hoằng Phượng, Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Đề tài cấp ĐHQG Hà Nội. 23. Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và THCN. (Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 29-06-2012)
File đính kèm:
- phu_am_dau_x_voi_dien_bien_cua_nhung_to_hop_phu_am_tien_than.pdf