Phát triển nông nghiệp đô thị ở tỉnh Thái Nguyên
Trong những năm qua diện tích đất nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên ngày càng bị thu hẹp để
nhường đất cho phát triển đô thị, phát triển công nghiệp. Nguồn cung lương thực và thực phẩm
nhìn chung đã đáp ứng nhu cầu người dân tuy nhiên ô nhiễm môi trường có nguy cơ ngày càng
cao. Phát triển nông nghiệp đô thị là hướng đi tất yếu, tạo ra sản phẩm an toàn thực phẩm, có chất
lượng cao, bảo vệ môi trường sinh thái đồng thời tăng thu nhập cho người lao động. Nguồn số liệu
thứ cấp được phân tích và tổng hợp bằng các phương pháp thống kê mô tả, thống kê so sánh. Kết
quả nghiên cứu cho thấy thực trạng phát triển nông nghiệp đô thị tại tỉnh Thái Nguyên trong giai
đoạn 2015-2019 đã có chiều hướng phát triển tốt, giá trị sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng
trưởng đạt 3,47%. Cơ cấu nông nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên vẫn còn những khó
khăn về khoa học công nghệ, quy hoạch. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp để phát
triển nông nghiệp đô thị cho tỉnh trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nông nghiệp đô thị ở tỉnh Thái Nguyên
TNU Journal of Science and Technology 225(15): 135 - 143 Email: jst@tnu.edu.vn 135 PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ Ở TỈNH THÁI NGUYÊN Vũ Bạch Diệp*, Đinh Hồng Linh Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trong những năm qua diện tích đất nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên ngày càng bị thu hẹp để nhường đất cho phát triển đô thị, phát triển công nghiệp. Nguồn cung lương thực và thực phẩm nhìn chung đã đáp ứng nhu cầu người dân tuy nhiên ô nhiễm môi trường có nguy cơ ngày càng cao. Phát triển nông nghiệp đô thị là hướng đi tất yếu, tạo ra sản phẩm an toàn thực phẩm, có chất lượng cao, bảo vệ môi trường sinh thái đồng thời tăng thu nhập cho người lao động. Nguồn số liệu thứ cấp được phân tích và tổng hợp bằng các phương pháp thống kê mô tả, thống kê so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng phát triển nông nghiệp đô thị tại tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 2015-2019 đã có chiều hướng phát triển tốt, giá trị sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng đạt 3,47%. Cơ cấu nông nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn về khoa học công nghệ, quy hoạch... Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp để phát triển nông nghiệp đô thị cho tỉnh trong thời gian tới. Từ khóa: Phát triển; nông nghiệp; đô thị; tỉnh Thái Nguyên; kinh tế Ngày nhận bài: 26/10/2020; Ngày hoàn thiện: 16/12/2020; Ngày đăng: 24/12/2020 URBAN AGRICUTURE DEVELOPMENT IN THAI NGUYEN PROVINCE Vu Bach Diep * , Dinh Hong Linh TNU - University of Economics and Bussiness Administration ABSTRACT In the past few years, the agriculture land in Thai Nguyen province has been narrowed to give way to the urban development, and industrial development. In additon to that, food supply has met the needs of people, the environmental quality is declining masively. Urban agriculture development is an inevitable direction that creates high-quality food safety products and protects the ecological environment while increasing income for workers. Secondary data sources are generalyzed and analyzed by descriptive statistical methods, comparative statistics. The research results show that urban agricultural development in Thai Nguyen province has developed in the period 2015-2019, the growth rate of the value agricultural production reached 3.47%. The agricultural structure has had positive changes. There are still difficulties in science, technology and planning. The study proposed some solutions to urban agriculture development for the province in the future. Keywords: Development; agriculture; urban; Thai Nguyen province; economy Received: 26/10/2020; Revised: 16/12/2020; Published: 24/12/2020 * Corresponding author. Email: vubachdiep.tn@tueba.edu.vn Vũ Bạch Diệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(15): 135 - 143 Email: jst@tnu.edu.vn 136 1. Đặt vấn đề Quá trình đô thị hóa là vấn đề tất yếu, phản ánh sự phát triển của kinh tế - xã hội ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay. Thực tế cho thấy sau quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng thì dân số đô thị chiếm hơn 50% dân số thế giới. Cuộc tổng điều tra dân số vào năm 2019 cho thấy trong 10 năm kể từ năm 2009 quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam năm 2019 là hơn 33 triệu người, chiếm 34,4% so với tổng dân số Việt Nam, tỉ trọng dân số khu vực thành thị tăng 4,8% so với năm 2009. Dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.286.751 người, đứng thứ 3 trong các tỉnh vùng Trung du miền núi phía Bắc. Sau 10 năm dân số tỉnh tăng 163.635 người, tỉ lệ tăng dân số bình quân là 1,36%/năm [1]. Khi diện tích đất càng ngày bị thu hẹp để nhường cho phát triển đô thị, đồng thời lực lượng lao động trong sản xuất nông nghiệp cũng giảm đi do người ở độ tuổi lao động vào làm trong các công ty, nhà máy càng ngày càng gia tăng. Lao động ở các vùng ven đô bị mất đất không có việc làm trong khi đó lao động ở khu vực thành phố vẫn còn một lượng sống bằng nghề nông. Một trong những giải pháp đáng được quan tâm đó là phát triển nông nghiệp đô thị (NNĐT), hướng đi đã tạo ra nhiều sản phẩm cũng như tăng thu nhập cho người lao động. NNĐT đã có từ lâu tại nhiều nước nhưng ít được chú ý vì thường nông nghiệp được cho là việc của nông thôn còn đô thị làm công nghiệp là chính. Tuy nhiên, khi tình trạng đô thị hóa càng ngày càng gia tăng thì NNĐT đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu. Nhìn chung, các nghiên cứu trên thế giới về NNĐT khá phong phú. Thông qua chương trình đặc biệt về an ninh lương thực (Special Programme for Food Security) được phát động từ năm 1994, FAO [2] đã xuất bản cẩm nang “Nông nghiệp đô thị và ven đô” với những hướng dẫn khá chi tiết và có tính ứng dụng cao các mô hình NNĐT và ven đô cho các quốc gia đang ... 2015, tỷ trọng ngành chăn nuôi (chiếm 44,1%) đứng thứ 2 sau ngành trồng trọt (chiếm 48,2%), đến năm 2019 tỷ trọng ngành chăn nuôi đứng vị trí thứ nhất (chiếm 46,9%) (Bảng 1). Thái Nguyên là một trong những tỉnh so với cả nước có số lượng trang trại chăn nuôi lớn với nhiều trang trại quy mô trên 16 nghìn con gà/lứa; 4.000 Vũ Bạch Diệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(15): 135 - 143 Email: jst@tnu.edu.vn 140 con lợn thịt. Các trang trại tập trung chủ yếu ở các địa phương như: Phú Bình, thành phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Lương, TX Sông Công. Tính đến nay, toàn tỉnh có 689 trang trại chăn nuôi. Tăng 300 trang trại so với năm 2013. Sự phát triển đột biến trong lĩnh vực chăn nuôi cũng đặt ra nhiều vấn đề bức thiết như môi trường, phòng dịch và đầu ra thị trường sản phẩm. Phương thức chăn nuôi dần chuyển từ chăn nuôi phân tán nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình trong khu dân cư sang chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, chăn nuôi trang trại và bước đầu hình thành những vùng chăn nuôi trọng điểm, theo hướng sản xuất hàng hóa. Chăn nuôi gia súc - Chăn nuôi lợn: Chăn nuôi lợn đang giữ vai trò chủ lực trong ngành chăn nuôi gia súc của tỉnh. Tính đến năm 2019, giá trị sản xuất chăn nuôi lợn đạt 1943,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong chăn nuôi gia súc (82,78%) và đứng thứ hai trong toàn ngành chăn nuôi (33,08% vào năm 2019 mặc dù năm 2015 tỷ trọng này đứng vị trí thứ nhất là 52,25%). Số lượng đầu con và sản lượng thịt hơi xuất chuồng cũng cao nhất (chiếm 81,01% đàn gia súc, 91,51% sản lượng thịt gia súc). Năm 2019 đàn lợn giảm mạnh 218,64 nghìn con làm cho sản lượng giảm đi đáng kể 17.421 tấn. Nguyên nhân là do chủ trương điều tiết giảm đàn nhằm tăng chất lượng đàn; chuyển hướng chăn nuôi từ sản xuất nhỏ lẻ; ngoài ra còn do giá thức ăn chăn nuôi cao, giá thịt lợn không ổn định, đặc biệt dịch tả lợn châu Phi bùng phát. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, phương thức chăn nuôi lợn đã đạt những tiến bộ đáng kể. Tỉnh đã mở rộng quy mô chăn nuôi lợn hữu cơ, một trong những phương pháp giúp bảo vệ tốt môi trường, tiết kiệm công lao động và mang lại chất lượng thịt cao. Lợn được nuôi ở khắp các huyện cho đến các thành phố. Năm 2015 số lượng lợn được nuôi nhiều nhất ở huyện Phú Bình. Nhìn chung đàn lợn chủ yếu tập trung ở các khu vực như thị xã Phổ Yên, huyện Phú Bình, thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ. Đây là những nơi có nguồn lương thực dồi dào, nguồn con giống phong phú, diện tích đất sản xuât nông nghiệp rộng nên dễ kiểm soát dịch bệnh, cải thiện môi trường nuôi, tăng hiệu quả kinh tế cho người dân. - Chăn nuôi trâu, bò: Chăn nuôi trâu đứng vị trí quan trọng thứ hai trong ngành chăn nuôi. Giá trị sản xuất của đàn trâu, bò chiếm 10,19% trong tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi gia súc. Số lượng trâu trong giai đoạn 2015-2019 giảm đi đáng kể, đến năm 2019 số lượng trâu giảm đi 22,69 nghìn con so với năm 2015. Tuy nhiên sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng lại có sự gia tăng từ 3.484 tấn năm 2015 lên đến 4.773 tấn vào năm 2019. Điều này cho thấy hiệu quả chăn nuôi được cải thiện đáng kể thông qua việc cải tạo giống, chuyển hướng sang nuôi để lấy thịt đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất. Để nâng cao khối lượng và sản lượng thịt, tỉnh đã chú trọng đến khâu cải tiến giống. Đàn bò phân bổ tập trung chủ yếu ở huyện Phú Bình, thị xã Phổ Yên, huyện Định Hóa, huyện Võ Nhai. Các huyện trên vừa có diện tích đồi gò, diện tích đất bãi ven sông rộng thuận lợi cho việc chăn thả, trồng cây thức ăn như cỏ, ngô, đậu và còn nằm gần các trung tâm giống uy tín, chất lượng. Chăn nuôi gia cầm Chăn nuôi gia cầm là lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh, có ưu thế về nhu cầu thị trường tiêu thụ lớn và có điều kiện tiếp thu nhanh các kiến thức và tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới. Trong chăn nuôi gia cầm chăn nuôi gà có đóng góp lớn nhất về số lượng và sản lượng. Tuy nhiên gần đây chăn nuôi gà có tốc độ tăng trưởng chậm hơn các gia cầm khác nên tỷ trọng có xu hướng giảm vào các năm 2016 và 2019, chiếm 87,66% tổng đàn. Hiện nay, chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ đã giảm, xu hướng chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm, trang trại tập trung quy mô lớn đã hình thành. Chất lượng giống gia cầm đã được cải thiện đáng kể. Các giống gà cao sản nhập nội như gà Lương Phượng, gà Tam Hoàng được nuôi ngày càng phổ biến. Hay các giống đặc Vũ Bạch Diệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(15): 135 - 143 Email: jst@tnu.edu.vn 141 sản có chất lượng thịt, trứng thơm ngon như gà Ri, gà Mía, vịt cỏ Vân Đình cũng được nhân rộng. Đàn gia cầm được phân bố ở tất cả các huyện và thành phố, thị xã trong tỉnh, song tập trung chủ yếu ở các huyện Phú Bình, thị xã Phổ Yên, thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ. 3.1.2.3. Dịch vụ nông nghiệp Quy mô giá trị sản xuất dịch vụ nông nghiệp của tỉnh đã tăng lên rõ rệt qua các năm (Bảng 1). Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cao nhất trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên tỷ trọng của dịch vụ nông nghiệp còn ở mức thấp, năm 2015 chiếm 7,7% và tăng đến 9,1% vào năm 2019. Như vậy giá trị sản xuất của dịch vụ nông nghiệp chưa tương xứng với vai trò, vị trí của sản xuất NNĐT. Các hoạt động dịch vụ nông nghiệp bao gồm: làm đất, tưới tiêu nước, phòng trừ sâu bệnh, cung ứng giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ khác. Các khâu dịch vụ này thường do các hợp tác xã nông nghiệp cung ứng. Hiện nay toàn tỉnh có trên 260 hợp tác xã nông nghiệp. Nhìn chung các hoạt động dịch vụ nông nghiệp cho đến nay chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Chất lượng các dịch vụ truyền thống vẫn ở mức thấp, chủ yếu tập trung vào một số khâu dịch vụ đầu vào. Dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, chế biến sản phẩm còn ít. 3.2. Đánh giá chung về thực trạng phát triển NNĐT tỉnh Thái Nguyên 3.2.1. Kết quả đạt được - Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh đạt ở mức khá. Cơ cấu nông nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Tỷ trọng chăn nuôi tăng dần từ năm 2015 đến năm 2018 và là một trong những địa phương có tỷ trọng chăn nuôi cao trong cả nước. Nông nghiệp của tỉnh đang chuyển từ sản xuất truyền thống sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị cao, phù hợp với nhu cầu dân cư đô thị. - Ngành trồng trọt chuyển hướng sang sản xuất lúa chất lượng cao, RAT, cây ăn quả đặc sản. Cây chè đã góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở hầu hết các địa phương trong tỉnh, vì vậy tỉnh đang tiếp tục mở rộng diện tích, sản lượng cây chè trong thời gian tới. - Ngành chăn nuôi tăng trưởng cả về quy mô đàn và sản lượng. Vật nuôi được tập trung phát triển mạnh là gia cầm các loại và lợn thịt. Năm 2019, giá trị sản xuất của gia cầm chiếm 60,03% và của lợn chiếm 33,08%. - Đã hình thành một số chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đó xây dựng thương hiệu sản phẩm có chất lượng, đáp ứng cơ bản yêu cầu của thị trường như lúa chất lượng cao, RAT, chè an toàn theo tiêu chuẩn Vietgap. - Đã hình thành và phát triển một số mô hình du lịch nông nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho cộng đồng và nâng cao thu nhập cho nông dân như mô hình đón tiếp du khách trải nghiệm hái chè, chế biến chè, dùng cơm tại gia đình, được tìm hiểu về lịch sử, nguồn gốc cây chè Hay khu du lịch sinh thái Thái Hải, khu du lịch sinh thái Yasmi farm tại Cao Ngạn, huyện Võ Nhai 3.2.2. Hạn chế tồn tại - Tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp chưa ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Sản xuất còn nhỏ lẻ, phân tán nên nhu cầu liên kết chưa thực sự cao. - Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất còn chậm. Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn ít. Diện tích lúa chất lượng cao, RAT còn chiếm tỉ lệ thấp. - Giá trị sản xuất của dịch vụ nông nghiệp còn thấp. Hoạt động dịch vụ còn đơn điệu, chưa tương xứng với vai trò, vị trí và yêu cầu của phát triển NNĐT ở tỉnh Thái Nguyên. 3.3. Giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị ở tỉnh Thái Nguyên 3.3.1. Giải pháp về quy hoạch Tổ chức công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển NNĐT ở Thái Nguyên đến năm 2030 đến các huyện, thành phố, thị xã. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo các chương trình, đề án trọng tâm, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Vũ Bạch Diệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(15): 135 - 143 Email: jst@tnu.edu.vn 142 3.3.2. Giải pháp về đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ Đầu tư khoa học kỹ thuât, công nghệ mới cho sản xuất nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên sản xuất giống cây trồng, giống gia súc có năng suất, chất lượng cao và phù hợp với điều kiện sinh thái của thành phố. Tổ chức tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cho các hộ nông dân để nâng cao trình độ và tiếp cận với những quy trình sản xuất công nghệ mới. Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ trong canh tác, chăn nuôi gia súc, gia cầm như sử dụng nhà kính, nhà lưới, màng phủ nilon trong sản xuất; phát triển các cây trồng, vật nuôi chủ lực (chè an toàn, rau sạch, lúa chất lượng cao, chăn nuôi gà) theo quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP); nhân rộng các công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi: biogas, đệm lót sinh học. Đầu tư ứng dụng công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch như xây dựng nhà sơ chế đóng gói rau, quả; cơ sở giết mổ gia súc gia cầm; phương tiện vận chuyển phù hợp, đạt quy định về vệ sinh an toàn và giảm thất thoát sau thu hoạch. 3.3.3. Giải pháp về phát triển thị trường, xúc tiến thương mại Nâng cao năng lực dự báo thị trường về số lượng, chất lượng chủng loại nông sản mà thị trường có nhu cầu; tình hình cung cầu mỗi chủng loại. Từ đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư sản xuất, lựa chọn hình thức và thời điểm tham gia thị trường hiệu quả. Tăng cường quảng bá, cung cấp thông tin giới thiệu về các chương trình và mô hình hoạt động nông nghiệp và sản phẩm NNĐT trên các phương tiện thông tin đại chúng, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà khoa học ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Cần xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, VIETGAP một cách rộng rãi cho các loại nông sản [9]. Kết hợp mô hình giữa nông nghiệp với du lịch để biến các sản phẩm NNĐT thành sản phẩm du lịch, tạo các điểm vui chơi giải trí, ẩm thực và phục vụ an dưỡng nghỉ ngơi [10]. 3.3.4. Giải pháp về hoàn thiện bổ sung chính sách Chính sách hỗ trợ các địa phương thực hiện dồn điền, đổi thửa. Tỉnh cần có chủ trương và chính sách tạo điều kiện về vật chất và pháp lý để việc thực hiện dồn điền đổi thửa dễ dàng hơn như tuyên truyền, thuyết phục, đơn giản các thủ tục hành chính, hỗ trợ kinh phí tập huấn. Chính sách khuyến khích xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ công tác sau thu hoạch, bảo quản và chế biến nông sản. Chính sách đấu giá quyền sử dụng đất lấy vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Lượng vốn huy động từ nguồn này sẽ khá lớn để tập trung cho phát triển cơ sở hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu [11]. Một số chính sách đất đai khác: triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở những nơi đã quy hoạch rõ, sớm có biện pháp xử lý những vùng tranh chấp. Vận dụng linh hoạt các chính sách đất đai phù hợp, tạo điều kiện giải phóng mặt bằng cho các công trình xây dựng nông nghiệp công nghệ cao 4. Kết luận NNĐT đang trở thành ngành kinh tế có vai trò quan trọng đối với kinh tế của Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. NNĐT ở Thái Nguyên có lợi thế về vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ, nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển NNĐT theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp của tỉnh tăng Vũ Bạch Diệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(15): 135 - 143 Email: jst@tnu.edu.vn 143 3,48%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng chung. Cơ cấu nông nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Tỷ trọng chăn nuôi tăng qua các năm. Nông nghiệp của tỉnh đang chuyển từ sản xuất truyền thống từ cây lúa chủ lực sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị cao phù hợp với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên NNĐT của tỉnh cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như lao động nông nghiệp, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật bị xuống cấp, diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm Để thúc đẩy NNĐT ở tỉnh Thái Nguyên phát triển, tác giả đã đề ra các nhóm giải pháp thực hiện ở trên. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1]. General Statistics Office, Vietnam Statistical Yearbook 2019. Statistical Publishing House, Hanoi, 2019. [2]. FAO (2001), The special programme for food security: Urban and peri - urban agriculture, SPFS/DOC/27.8 Revision 2 Handbook Series Vol.3. [3]. V. T. Le, “Identifying urban agriculture in Vietnam,” The 3rd Vietnam International Workshop, Subcommittee on Rural, Modern Vietnam Agriculture, Hanoi, 2008, vol. 4, pp. 272 - 280. [4]. X. D. Vu, Research on building eco- ecological models suitable in the process of industrialization modernization and urbanization in Ho Chi Minh City, Synthesis report of the topic, Institute of Economics Ho Chi Minh City, 2003. [5]. V. T. Le, N. N. Nguyen, A. T. Ha, X. T. Nguyen, and K. D. Nguyen, “Efficiency of some models for agricultural production by ecological urban in Thai Nguyen city,” TNU Journal of Science and Technology, vol. 85, no. 09/2, pp. 119-123, 2010. [6]. V. T. Le, X. T. Nguyen, N. N. Nguyen, and A. T. Ha, “Agricultural planning of Thai Nguyen city to 2020 in the directions of urban ecological agriculture,” TNU Journal of Science and Technology, vol. 82, no. 6, pp. 51-57, 2009. [7]. General Statistics Office, Thai Nguyen Statistical Yearbook 2019. Statistical Publishing House, 2019. [8]. J. Li, K. C. Seto, J. Bai, “Urban economic development, changes in food consumption patterns and land requirements for food production in China,” China Agricultural Economic Review, vol. 7, issue 2, pp. 240- 261, 2015. [9]. T. T. Dao, “Foreign Experience in Urban Agricultural Development,” Report on Scientific Research, Department of Agriculture and Rural Development, Hanoi, 2003. [10]. FAO, Growing greener cities in Africa - First status report on urban and peri - urban horticulture in Africa, Rome, ISBN 978 - 92 - 5 - 107286 – 8, 2012. [11]. B. Lee, T. Binns, and A. Dixon, “The dynamics of urban agriculture in Hanoi, Vietnam,” Field Actions Science Reports, Special Issue 1 - Urban Agriculture, 2010, pp. 2-9.
File đính kèm:
- phat_trien_nong_nghiep_do_thi_o_tinh_thai_nguyen.pdf