Phát triển nguồn nhân lực Tây Nguyên: Những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết
Bài viết này tập trung phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực Tây
nguyên trong thời gian qua. Các phân tích cho thấy so với yêu cầu phát triển bền vững của
vùng, nguồn nhân lực Tây Nguyên còn nhiều hạn chế như: (i) Trình độ học vấn của dân cư
và người lao động Tây Nguyên còn thấp so với mức trung bình của cả nước và các vùng
khác; (ii) Chênh lệch về trình độ học vấn giữa các dân tộc khá cao ; (iii) Hệ thống đào tạo
nhân lực còn mỏng và yếu , chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của vùng ; (iv) Chất lượng nguồn nhân
lực Tây Nguyên thấp, đang và sẽ là trở ngại lớn cho việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh
tế dựa trên ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học để tăn g năng suất, hiệu quả và chất lượng ;
(v) Cơ cấu lao động làm việc trong nền kinh tế còn lạc hậu, phản ánh trình độ phát triển
còn ở mức thấp, v.v. Để giải quyết các vấn đề này cần phải có một hệ thống những định
hướng và giải pháp đột phá để tạo ra được n hững động lực mới nhằm đẩy nhanh hơn
nữa phát triển nguồn nhân lực của vùng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong
bối cảnh mới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nguồn nhân lực Tây Nguyên: Những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 46 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TÂY NGUYÊN: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT TS. Nguyễn Văn Thành Viện Chiến lược ph át triển Tóm tắt: Bài viết này tập trung phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực Tây nguyên trong thời gian qua. Các phân tích cho thấy so với yêu cầu phát triển bền vững của vùng, nguồn nhân lực Tây Nguyên còn nhiều hạn chế như: (i) Trình độ học vấn của dân cư và người lao động Tây Nguyên còn thấp so với mức trung bình của cả nước và các vùng khác; (ii) Chênh lệch về trình độ học vấn giữa các dân tộc khá cao ; (iii) Hệ thống đào tạo nhân lực còn mỏng và yếu , chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của vùng ; (iv) Chất lượng nguồn nhân lực Tây Nguyên thấp, đang và sẽ là trở ngại lớn cho việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học để tăn g năng suất, hiệu quả và chất lượng ; (v) Cơ cấu lao động làm việc trong nền kinh tế còn lạc hậu, phản ánh trình độ phát triển còn ở mức thấp, v.v. Để giải quyết các vấn đề này cần phải có một hệ thống những định hướng và giải pháp đột phá để tạo ra được n hững động lực mới nhằm đẩy nhanh hơn nữa phát triển nguồn nhân lực của vùng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong bối cảnh mới. Từ khóa: Phát triển nguồn nhân lực, Tây Nguyên Summary: This writing will focus on analyzing situation of human resource development in central highlands in the past time. In compare to regional requirement of sustainable development, human resource in central highlands has many limitations such as: (i) Education is lower than the average level in nationwide and other regions; (ii) Disparity of education among ethnic group is quite high; (iii) Human resource in education is not enough and proficient, to meet needs of human resource especially highly skilled workers for regional socio – economic development; (iv) Low qualification of human resource in central highlands is an obstacle for economic growth model innovation which is based on application of scientific innovation to increase productivity, effectiveness and quality; (v) Labour structure in economy is backward, underdeveloped, etc. For solving this issue, it is necessary to have a system of orientation and breakthrough measures to create new motivation for human resource development to meet requirement of socio – economic development in the new context. Key words: Human resource development, Central highlands Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 47 Tây Nguyên là vùng có tiềm năng kinh tế lớn và vị trí quan trọng đặc biệt về quốc phòng, an ninh và mới được khai thác mạnh kể từ sau giải phóng năm 1975 chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực lớn được nhập cư vào vùng và các nguồn tài nguyên sẵn có như rừng, đất đai, khoáng sản. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Tây Nguyên năm 2012 có 3,15 triệu người, chiếm 57,8% dân số và chiếm 5,8% tổng lực lượng lao động cả nước. Phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến việc đảm bảo phát triển bền vững Tây Nguyên. Để thực hiện được vai trò này, nguồn nhân lực của vùng phải đạt được trình độ nhất định và không ngừng được nâng ca o. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển bền vững của vùng, nguồn nhân lực Tây Nguyên còn nhiều hạn chế, cần phải nhanh chóng khắc phục. 1. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực Tây Nguyên Thứ nhất, trình độ học vấn của dân cư và người lao động Tây Nguyên còn thấp so với mức trung bình của cả nước và các vùng khác Kết quả Tổng điều tra dân số 1/4/2009, cho thấy: Tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường của Tây Nguyên là 9,1%, trong khi đó của cả nước là 5,0% và vùng Đồng bằng Sông Hồng là 2,1%. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên không biết chữ của Tây Nguyên là 11,2%, trong khi đó của cả nước là 6,0%, vùng Đồng bằng Sông Hồng là 2,5%. Tỷ lệ người có trình độ học vấn từ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên cũng thấp so với mức bình quân cả nước và các vùng khác. Thứ hai, ở nhiều nơi trong vùng, mạng lưới các cơ sở giáo dục phân bố chưa thuận tiện cho người đi học và trường lớp học còn thiếu, trang thiết bị thiếu và lạc hậu cùng với thiếu giáo viên đang là yếu tố cản trở việc thu hút trẻ đến trường và nâng cao chất lượng giáo dục của vùng. Vì vậy, tỷ lệ nhập học đúng tuổi của Tây Nguyên còn thấp: ở cấp THCS là 74,9%; cấp THPT là 48,7%, trong khi của cả nước là 82,6% và 56,7%, của vùng Đồng bằng Sông Hồng là 93,9% và 74,9%. Tỷ lệ dân số 5 tuổi trở lên tốt nghiệp trung học phổ thông của Tây Nguyên chỉ có 13,7%, trong khi đó của cả nước là 20,8% và vùng Đồng bằng Sông Hồng là 30,1%. Tính đến năm học 2010-2011, tỷ lệ trường đạt chuẩn của Tây Nguyên ở cấp tiểu học là 22,4%, cấp trung học cơ sở là 8,6% và cấp trung học phổ thông là 7,6%, trong khi các tỷ lệ này của cả nước tương ứng là 36,4%; 19,7 ... 4 dân tộc của cả nước sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 64,7%, các dân tộc khác chiếm 35,3%, trong đó dân tộc Giarai chiếm 8,02%, Ê-đê chiếm 5,98%, Bana chiếm 4,02%, Cơ ho chiếm 2,84%, Nùng chiếm 2,65%, Xơ đăng chiếm 2,21%, Tày chiếm 2,06%, Mnông chiếm 1,76%... Chênh lệch về trình độ học vấn giữa các dân tộc còn lớn. Tỷ lệ những người có trình độ học vấn thấp (chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học và tốt nghiệp tiểu học) của các dân tộc Tây Nguyên ở mức cao hơn nhiều so với dân tộc Kinh trong vùng. Việc thu hút trẻ em các dân tộc thiểu số vào các trường dân tộc nội trú để tạo nguồn cho phát triển nhân lực trình độ và chất lượng cao còn nhiều hạn chế. Tính đến năm 2011, toàn vùng có 47 trường THCS nội trú với 8.371 học sinh (chiếm 6,64% tổng số học sinh dân tộc cùng cấp) và cấp trung học phổ thông có 6 trường với 4.531 học sinh (chiếm 13,2% tổng số học sinh dân tộc cùng cấp). Đáng lưu ý là càng ở các cấp học cao hơn, tình trạng bỏ học của học sinh các dân tộc thiểu số càng phổ biến, dẫn đến tỷ lệ học sinh là các dân tộc thiểu số trong tổng số học sinh cùng cấp càng thấp. Năm 2012, tỷ lệ học sinh các dân tộc thiểu số trong tổng số học sinh cấp tiểu học là 43.4%, cấp THCS là 34,5% và cấp THPT chỉ có 17,7%. Thứ tư, hệ thống đào tạo nhân lực trong vùng còn mỏng, quy mô đào tạo nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của vùng. Tính đến năm 2010 toàn vùng có 108 cơ sở tham gia tổ chức dạy nghề, trong đó có 2 trường cao đẳng nghề, 12 trường trung cấp nghề và 44 trung tâm dạy nghề (số còn lại là các cơ sở đào tạo khác có tổ chức dạy nghề) với 1.152 giáo viên dạy nghề. Quy mô tuyển sinh học nghề hàng năm khoảng 48.000- 50.000 người, trong đó học nghề trên 1 năm khoảng 7.000-8.000 người, số còn lại là đào tạo ngắn hạn dưới 1 năm. Đào tạo trình độ trung cấp chuyên ngh iệp rất nhỏ bé. Năm học 2010-2011, trong vùng 16 trường trung cấp chuyên nghiệp với 9.764 học sinh (chiếm 3,65% tổng số học sinh TCCN của cả nước). Quy mô đào Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 49 tạo trình độ cao đẳng, đại học còn nhỏ. Năm 2012, toàn vùng có 14 trường đại học, phân hiệu đại học và trường cao đẳng với 45.653 sinh viên (trong đó có 44.452 hệ công lập). Số sinh viên tuyển mới hàng năm khoảng 13 ngàn sinh viên và hàng năm có gần 9.000 sinh viên tốt nghiệp. Số sinh viên đại học - cao đẳng trên 10.000 dân là 85 sinh viên, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước là 245 sinh viên, vùng Trung du-miền núi Bắc Bộ là 135 sinh viên, vùng Đồng bằng Sông Hồng là 431 sinh viên và vùng Đông Nam Bộ là 396 sinh viên. Tỷ lệ thanh niên trong nhóm tuổi 15 -21 (là nhóm tuổi cần được đào tạo) được thu hút vào các hình thức đào tạo hiện ở mức thấp (chỉ có 5,78%), so với mức trung bình của cả nước và các vùng khác (trung bình của cả nước là 13,16%, vùng Đồng bằng Sông Hồng là 21,82%, vùng Đông Nam bộ là 19,08%). Thứ năm, chất lượng nguồn nhân lực Tây Nguyên thấp, đang và sẽ là trở ngại lớn cho việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học để tăng năng suất, hiệu quả và chất lượng. Theo kết quả Điều tra lao động-việc làm năm 2012, tỷ lệ lực lượng lao động khôn g có trình độ chuyên môn - kỹ thuật của Tây Nguyên rất cao, lên đến 87,6%%, trong khi đó của cả nước là 83,2% và vùng Đồng bằng Sông Hồng là 81,8%, vùng Trung du và miền núi phía Bắc là 85,1%. Tương phản với hiện thực này, là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của vùng rất thấp ở tất cả các cấp trình độ từ dạy nghề cho đến cao đẳng và đại học. Do phần lớn người lao động chưa được đào tạo, thiếu kỹ năng nghề, nên họ chỉ được làm những nghề giản đơn (tỷ lệ lao động nghề giản đơn ở Tây Nguyên là 53,3%, trong khi đó của cả nước là 40,4%, vùng đồng bằng Sông Hồng là 43,1% và vùng Đông Nam bộ là 27,0%). Đồng thời, những kỹ năng mềm của nguồn nhân lực (ý thức chấp hành kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tác phong làm việc công nghiệp) cũng thiếu và thấp. Thứ sáu, cơ cấu lao động làm việc trong nền kinh tế còn lạc hậu, phản ánh trình độ phát triển còn ở mức thấp, dẫn đến kêt quả năng suất lao động thấp và làm cho thu nhập của người lao động thấp gây thêm những khó khăn cho phát triển nguồn nhân lực; thị trường lao động chưa phát triển. Trong tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế của vùng năm 2012, tỷ trọng của khu vực nông- lâm nghiệp-thủy sản là 71,2% (của cả nước là 47,4%, vùng Đồng bằng Sông Hồng là 40,7% và vùng Đông Nam Bộ là 34,8%), tỷ trọng của khu vực công nghiệp - công nghiệp của vùng chỉ có 8,2% và khu vực dịch vụ là 20,6% (tỷ lệ Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 50 này của cả nước là 21,2 % và 31,4%; của vùng Sông Hồng là 29,8% và 29,5%; của vùng Đông Nam Bộ là 33,5% và 31,8%)1. Vì vậy, năng suất lao động của Tây Nguyên tương đối thấp, chỉ bằng khoảng 65% mức trung bình của cả nước, bằng 61,6% của vùng Đồng bằng sông Hồng và 44,3% của vùng Đông Nam Bộ2. Thị trường lao động kém phát triển. Tỷ lệ lao động tự làm và lao động gia đình trong tổng số lao động có việc làm ở mức cao, lên đến 77,0% (đ ứng thứ hai sau vùng Trung du miền núi phía Bắc (là 79,0%), trong khi mức bình quân của cả nước là 62,8%, vùng đồng bằng sông Hồng là 60,8% và vùng Đông - Nam Bộ là 46,6%. Tỷ trọng số người làm công ăn lương năm 2012 thấp nhất nước (chỉ có 14,8%, trung bình của cả nước là 31,0% và vùng Trung du miền núi phía Bắc thấp thứ hai là 19,0%). Thứ bảy, nguồn lực tài chính cho phát triển nguồn nhân lực của vùng rất hạn chế. Do quy mô kinh tế của Tây Nguyên còn nhỏ so với quy mô dân số (tổng giá trị GDP của vùng chỉ chiếm 3,8% của cả nước, song dân số của vùng chiếm 5,5% cả nước) và thu nhập bình quân đầu người thấp (GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo giá sức 1 Báo cáo điều tra lao động-việc làm năm 2012. Tổng cục Thống kê 2 Tính theo Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2011. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2012. mua tương đương (PPP) của Tây Nguyên là 1.853 USD, bình quân cả nước là 2.840 USD, vùng đồng bằng sông Hồng là 3.008 USD và vùng Đông Nam Bộ là 4.185 USD3), nên khả năng huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế của vùng cho phát triển nguồn nhân lực rất hạn chế. Thu nhập của người dân trong vùng còn thấp, nên khả năng huy động nguồn vốn đóng góp từ người dân cũng không nhiều. Năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của vùng là 1,631 triệu đồng/người/tháng, bằng 81,6% mức trung bình của cả nước. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, năm 2012 là 18,6%, gấp gần 1,7 lần mức bình quân cả nước (11,1%). Theo Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010, chi tiêu bình quân cho giáo dục (bao gồm cả đào tạo) bình quân đầu người/năm của Tây Nguyên là 2,3 triệu đồng/người/năm, trong khi mức trung bình cả nước là 3,1 triệu đồng, vùng Đồng bằng sông Hồng là 3,54 triệu đồng và vùng Đông Nam Bộ là 5,5 triệu đồng/người 4. Vì vậy, không thể dựa hoàn toàn vào nguồn nội lực của Tây Nguyên cho phát triển nguồn nhân lực của vùng, mà phải dựa vào sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và hợp tác với các vùng khác, từ quốc tế. 3 Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2011. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. NXB Thế Giới. Hà Nội, 2012, trang 190. 4 Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010. Tổng cục Thống kê. Hà Nội, năm 2012. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 51 Từ những phân tích ở trên cho thấy, các vấn đề phát triển nguồn nhân lực của Tây Nguyên đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Để giải quyết chúng cần phải có một hệ thống những định hướng mới và giải pháp mới để tạo ra được những động lực mới nhằm đẩy nhanh hơn nữa phát triển nguồn nhân lực của vùng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong bối cảnh mới. 2. Một số đề xuất giải quyết những vấn đề trên Để giải quyết những vấn để trên một cách đồng bộ và hiệu quả, cần thực hiện hệ thống đồng bộ các chinh sách nhằm tạo ra cơ sở nền tảng và thúc đẩy sự phát triển bình đẳng, hài hoà và đồng đều của các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến những nhu cầu và tính đặc thù của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên để đạt được trình độ phát triển ngày càng cao về chỉ số phát triển con người của vùng nói chung và của mỗi dân tộc trong vùng nói riêng. Nhiệm vụ có tính cấp bách trước mắt và có ý nghĩa lâu dài là giảm dần và từng bước rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các dân tộc ở Tây Nguyên và của người dân Tây Nguyên và trình độ chung của vùng, của cả nước, hình thành và phát triển được nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đáp ứng được yêu cầu phát triển KT -XH của vùng và đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Có thể sơ bộ đề xuất một số giải pháp chính như sau: - Triển khai xây dựng và thực hiện quy hoạch hệ thống giáo dục - đào tạo của toàn vùng Tây Nguyên và các tỉnh trong vùng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh, đồng thời phát triển mối quan hệ hợp tác có hiệu quả giữa các tỉnh trong vùng và với các tỉnh ngoài vùng (trước hết là với các trung tâm phát triển như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Quy Nhơn.) trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. - Nghiên cứu cải tiến, hoàn thiện các chính sách phát triển giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có tính đến những đặc thù về xã hội, trình độ phát triển và nhu cầu của người dân trong vùng (nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ) để những chính sách này thực sự phù hợp với nguyện vọng của người dân, nhanh chóng đi vào cuộc sống, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội bền vững của vùng trong bối cảnh mới. Trong đó, cần quan tâm nhiều hơn đến phong tục, tập quán, nhu cầu của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, có mô hình tổ chức, nội dung, phương pháp dạy, học, đào tạo phù hợp với đặc điểm lối sống, tập quán lao động sản xuất , Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 52 trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, xã hội và gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển của vùng. - Xây dựng và phát triển hệ thống đào tạo nguồn nhân lực gắn với phát triển những ngành nghề là thế mạnh, có năng lực cạnh tranh cao và nhu cầu lớn đã được xác định và có triển vọng phát triển trong tương lai như lao động trồng và chế biến các sản phẩm cây công nghiệp (cà phê, cao su, hồ tiêu), trồng rau, hoa và cây cảnh, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm, dịch vụ y tế, giáo dục, thương mại, công n ghiệp khai khoáng, cơ khí phục vụ nông - lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển của vùng và hội nhập quốc tế, trước hết là sự phát triển của vùng tam giá phát triển 3 nước Cămphuchia – Lào - Việt nam. - Tập trung tăng đầu tư của nhà nước trong xây dựng hệ thống trường lớp đạt chuẩn quốc gia, ưu tiên đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa và vùng tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Đưa lớp học và giáo viên đến tận thôn, bản (giáo viên cắm bản). Chú trọng phát triển giáo dục dân tộc, mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống trường dân tộc nội trú tỉnh/huyện, các loại hình bán trú dân nuôi ở các xã nhằm duy trì và thu hút trẻ em nghèo, con em đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ đi học nhằm tạo nguồn đào tạo cán bộ ở các cấp cao hơn. Nhà nước cần hỗ trợ trong việc xây dựng cơ sở vật chất ban đầu và cung cấp bữa ăn trưa cho trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số ở các lớp mẫu giáo để khuyến khích các cháu đến trường, đồng thời kết hợp thực hiện chương trình dinh dưỡng nhà trường (nhằm góp phần giảm nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em của vùng). Có chính sách ưu đãi (học bổng) đủ sức thu hút học sinh người dân tộc vào học các trường Dạy nghề, THCN, CĐ & ĐH. Kịp thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách ưu đãi đối với những cán bộ, giáo viên nhận công tác ở vùng sâu, vùng x a, vùng biên giới, vùng tập trung đông đồng bào các dân tộc thiểu số. - Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục, cần cải tiến nội dung chương trình giảng dạy theo hướng một số môn có hai có 2 phần nội dung: phần cứng theo những yêu cầu cơ bả n của chương trình chung cả nước và phần mềm có lồng ghép thực tiễn của vùng và phương pháp dạy học phù hợp nhằm mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng cơ bản gắn với nhu cầu việc làm và phát triển kinh tế, xã hội của vùng. - Cần xây dựng hệ thống định mức giáo viên/lớp phù hợp với yêu cầu đặc thù của Tây Nguyên (số lượng học sinh/lớp thấp hơn mức trung bình của cả nước, tỷ lệ giáo viên/lớp cao hơn mức Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013 53 trung bình của cả nước). Do đó, cần tăng cường số lượng giáo viên, đảm bảo đủ giáo viên cho các cấp học theo định mức phù hợp với đặc điểm của vùng. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng cho giáo viên, nhất là trong việc thực hiện phương pháp giảng dạy mới theo Chương trình đổi mới sách giao khoa. - Thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục và đào tạo có chọn lọc. Nhà nước cần tiếp tục tăng đầu tư cho phát triển giáo dục cấp phổ cập, đặc biệt là ở vùng nông thôn và đối với đồng bào các dân tộc để tạo điều kiện thuận lợi và mở rộng cơ hội cho nhân dân được đi học. Thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp vào sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của vùng. Tăng cường nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực từ các tổ chức kinh tế - xã hội, các tỉnh có điều kiện kinh tế phát triển hơn, các tổ chức quốc tế và tăng phần đóng góp của bộ phận dân cư có thu nhập cao thông qua phát triển loại hình giáo dục ngoài công lập ở khu vực đô thị. Khắc phục những khó khăn, hạn chế để phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nguyên là nhiệm vụ chung của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương và cơ sở. Đồng thời, phải thu hút sự tham gia tích cực, chủ động của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Sự tham gia tự giác của người dân là yếu tố quyết định, nhất là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó trước hế t phải tuyên truyền, giác ngộ và nâng cao nhận thức của đồng bào về sự cần thiết và tầm quan trọng của việc học văn hóa và đào tạo những kỹ năng lao động mới. Tài liệu tham khảo 1. Chiến lược phát triển KT -XH thời kỳ 2011-2020 2. Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2011. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. NXB Thế Giới. Hà Nội, 2012 3. Báo cáo điều tra lao động-việc làm năm 2011. Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 2012 4. Báo cáo điều tra lao động-việc làm năm 2012. Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 2013 5. Niên giám Thống kê năm 2011. NXB Thống kê, Hà Nội 2012 6. Niên giám Thống kê năm 2012. NXB Thống kê, Hà Nội 2013 7. Thống kê giáo dục và đào tạo 2010-2011. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội 2011 8. Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010. Tổng cục Thống kê. Hà Nội, năm 2012 9. Kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009. NXB Thống kê. Hà Nội. 2011
File đính kèm:
- phat_trien_nguon_nhan_luc_tay_nguyen_nhung_van_de_dat_ra_va.pdf